Lời
mở đầu: Trước hết, tôi cần nói
về chữ công hàm. Trong lănh vực ngoại giao, người
tà cùng chữ Công Hàm
thay v́ dùng chữ văn thư
hành chánh của một Thủ Tướng gửi
cho một Thủ tướng của một nước
khác. Trường hộp này, Thủ tướng
Phạm văn Đồng của Việt Cộng
gửivăn thư, đươc gọi là công hàm cho Thủ tướng Chu ân Lai của
Trung Cộng.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt mam
là trọng tâm của ‘vấn đề Công Hàm
Phạm văn Đồng’. V́ thế, chúng ta cần nói
sơ qua về 2 quần đảo này để các anh
chị thanh niên, giới trẻ biết dễ hiểu hơn
đề khi bàn tới vấn đề này.
Hội
Nghị Genève, Thuỵ sỹ, năm 1954 về chấm
dứt chiến tranh Đông Dương và Việt nam
bị chia ra làm 2 ở vĩ tuyến 17. Phần về
phía Bắc dành cho Cộng sản, gọi là Việt nam
Dân Chủ Cộng Hoà hay Việt
cộng (VC) và Phạm văn
Đồng là Thủ tướng của VNDCCH. Phần
phía Nam, cho Quốc gia, gọi là Việt nam Cộng Hoà
(VNCH).
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nằm ở dưới vĩ tuyến 17, nghĩa là
tài sản của VNCH.
Xxxxx
Có
2 văn kiện cần được bàn tới trong bài
nói chuyện này: Bản Tuyên Bố của Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Hoa (TC) về
lănh hải và Công Hàm Phạm văn Đồng gửi
cho Chu ân Lai.
Nội
dung hai văn kiện:
1). Bản tuyên bố
của Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được Thường Vụ
Quốc Hội Nhân Dân Trung Hoa thông qua nhân kỳ
họp thứ 100 vào ngày 4 tháng 9, năm 1958.
Sau đây là điểm
chính trong bản Tuyên Bố để phân tích trong
buổi nói chuyện hôm
nay.
“Lănh
hải của Trung Quốc là 12
hải lư. Điều khoản này bao gồm phần đất
Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo
ngoài khơi…, và các đảo phụ cận….,
quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Thạy
Saa là Hoàng Sa của Việt nam, và Nam Sa là Trường
Sa.
2). Thư của Phạm văn Đồng đề
ngày 14 tháng 9, 58.
Phạm
văn Đồng gửi cho Chu ân Lai Văn thư về
Bản Tuyên bố của Quốc Hội TC với
nội dung như sau:
“Thủ
Tuớng
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa
Đồng chí Tổng lư,
Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí
Tổng lư rơ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ
Cộng Hoà ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước
Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về
hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ
Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ
chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lư của
Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước
Cộng ḥa Nhân dân Trung
hoa trên mặt bể…-
Chúng
tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lư lời chào
rất trân trọng./.
Hà
nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Phạm
văn Đồng
Thủ
tướng Chính Phủ
Nước
VNDCCH.”
---------
PHÂN TÍCH VĂN
KIỆN
Nh́n
vào 2 bản văn trên, ta thấy có 2 vấn đề
được nêu ra:
Vấn đề 1.
CHNDTH (TC) phổ biến bản tuyên bố để
loan báo cho toàn thế giới (không gửi riêng cho VC)
biết về lănh hải 12 hải
ư của Trung Cộng, bao gồm cả đất
liền, các hải đảo ngoài khơi, và các đảo
phụ cận…. Bản tuyên
bố có nói tên các đảo, ngoài khơi, phụ
cận, như Hoàng Sa và Trường Sa. Điều
này có nghĩa là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là của TC (mặc dù là tài sản của VNCH).
Để
đáp ứng loan báo của TC, Phạm
văn Đồng tự nguyện gửi
thư trên xác nhận và tán thành quyết
định của TC. Văn thư ấy nói thêm
rằng “ sẽ chỉ thị cho các
cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lư.” của
TC.
Tuy nhiên, văn thư của Phạm văn Đồng bỏ
ngỏ vấn đề TC đơn phương
tự nhận có chủ quyền trên Hoàng Sa và Hoàng Sa
của Việt nam, dù lúc đó là của VNCH. Trước
mắt quần chúng, th́ sự im lặng trước
một vấn đề rơ rệt như vậy (có
điều gỉ khuất tất bên trong, có ǵ mờ
ám), v́ lẽ im lặng là thú nhận, là đồng ư,
là chập thuận. Phạm văn Đồng không dám
công khai nói rơ ư định của VC, nhưng mập
mờ này có vẻ làm cho TC hài ḷng.
Đây là một điều rất bất thường
Vấn đề 2:
Văn thư
của Phạm văn Đồng công nhận 2 quần
đảo của Việt nam có giá trị trong việc
chuyển nhượng tài sàn hay không?
Đó
là Giá trị pháp lư của Công Hàm.
--------
Vấn đề 1:
Mờ ám trong việc chuyện nhường Hoàng Sa cà
Trường Sa cho TC.
Những
ǵ được thoả thuận giũa 2 bên đều
được giữ kín.
Cho
đến khi Miền Nam bị Công Sản Bắc
Việt thôn tính vào năm 1975, hai quần đảo này
là của Miền Nam Việt nam. Nay, chúng trở thành lănh
thổ của Chính quyền mới. Và lúc này, TC đ̣i
VC chuyển giao hai
quần đảo này. VC không chấp
thuận.
TC
viện các lư do sau đây để chứng minh chúng
là chủ của 2 quần đảo ây:
1).Bằng
chứng quan trọng nhất mà TC dựa vào đó
để biện minh rằng chúng có chủ quyền là
văn thư của Phạm Văn Đồng (nói trên)
đă công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
về TC.
2)
Tuyên bố của Ung văn Khiêm:
Các
tài liệu sau đây c̣n ghi thêm một chi tiết mà TC
viện dẫn để biện minh chủ quyền trên
Biển Đông. Đó là lời nói của thứ trưởng
Ngoại giao của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa Ung văn Khiêm
với Đại lư sự vụ của Cộng Ḥa Nhân
Dân Trung Hoa Li Zhimin vào ngày
15 tháng 6 năm 1956 rằng “Hoàng
Sa và Trường Sa về phương diện lịch
sử thuộc về Trung Hoa.” Lời tuyên bố này
được phát biểu ở văn pḥng Bộ
Ngoại Giao Bắc Việt, có sự chứng kiến
của một viên chức Bộ Ngoại Giao VC là Lê
Đốc.
3.Sách
Giáo Khoa về Địa Lư của Hà Nội trước
năm1974:
Bài học về Địa lư dạy học sinh nói
rằng: Hoàng Sa và Trường Sa lập thành ṿng đai
bảo vệ Trung Quốc.Từ đó, người ta
hiểu rằng nếu Hoàng Sa và Trường Sa là
của Trung Hoa, th́ các quần đảo ấy
được sử dụng để bảo vệ
Trung Hoa.
-Để phản bác
lại quan điểm của TC, Bộ Ngoại Giao nước
Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào ngày
7 tháng 8 năm 1979 biện minh:
“Ngày
30 tháng 7 năm 1979 tại Bắc Kinh, phía Trung quốc
đă cho công bố một vài tài liệu với ư
định để minh chứng cho việc tuyên
bố chủ quyền của họ trên quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Về vấn đề này,
Bộ Ngoại Giao nước CHXHCN Việt Nam tuyên
bố:
..........
Sự
diễn giải của Trung quốc về bản công hàm
ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công
nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các
quần đảo là một sự xuyên tạc
trắng trợn khi tinh thần và ư nghĩa của bản
công hàm chỉ có ư định công nhận giới
hạn 12 hải lư của lănh hải Trung Quốc”.
...........
Sau
đó, Lănh đạo VC thú
nhận có nhượng 2 quần đảo ấy
cho TC dù đă phản bác:
1. Thú Nhận của Phạm văn
Đồng và nêu lư do tại sao “bán” 2 quần đảo
này:
“Phó thủ tướng Lư tiên Niệm của
TC nói rằng vào năm
1958, Thủ tướng
Phạm văn Đồng tán thành bản Tuyên Bố
của CHNDTH nhận có chủ quyền trên 2 quần
đảo này, nhưng từ năm 1975, Việt nam
kiểm soát được một phần nhóm Hoàng Sa. Năm 1977, Đồng đổi dọng
: “lúc đó là thời gian chiến tranh và tôi phải
nói như vậy” Far Eastern Economic Review (
FEER), 16 tháng 3, 1979
Biện
minh của Đồng lại gây thêm thắc mắc,
v́ lẽ trong khu vực này vào thời kỳ ấy, không
có một cuộc chiến tranh nào xảy ra.
Rồi
phải tới năm 1992, trước sức ép của
công luận về hành vi này, Nguyễn mạnh Cầm,
với tư cách Bộ trưởng Ngọai Giao
của Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà khai triển thêm
lời phát biểu về ‘cuộc chiến tranh’ mà
Đồng nói, trong cuộc họp báo vào ngày 2 tháng 12
năm 1992 kể trên.
2.
Thú nhận
của Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn
mạnh Cầm.
“Các
nhà lănh đạo của chúng tôi đă có tuyên bố
lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa
trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định
Genève 1954 về Đông Dương, các lănh thổ
từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt
dưới sự kiểm soát của chính quyền
miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đă phải
tập trung tất cả các lực lượng cho
mục tiêu cao nhất để chống lại
cuộc chiến tranh xâm lăng của Mỹ, nhằm
bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Việt Nam đă phải kêu
gọi sự ủng hộ của bè bạn trên
toàn thế giới. Đồng thời,
t́nh hữu nghị Trung-Việt rất thân thiết và
hai nước tin tưởng lẫn nhau. Đối
với Việt Nam, Trung
Quốc đă là một sự ủng hộ rất vĩ
đại và trợ giúp vô giá. Trong tinh thần đó và bắt
nguồn từ những đ̣i hỏi nêu trên, tuyên
bố của các nhà lănh đạo của chúng tôi ‘ủng hộ Trung Quốc trong
việc tuyên bố chủ quyền của họ trên
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa’
là cần thiết v́ nó trực tiếp phục vụ
cho sự đấu tranh bảo vệ độc
lập và tự do cho tổ quốc.Đặc
biệt thêm nữa là cái tuyên bố
đó đă nhắm vào sự đ̣i hỏi cần
thiết lúc bấy giờ nhằm ngăn ngừa
bọn đế quốc Mỹ dùng những hải
đảo này để tấn công chúng tôi. Nó
không có dính dáng ǵ đến nền tảng lịch
sử và pháp lư trong chủ quyền của Việt Nam
về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“….Trung
Hoa đă thuận cung cấp cho Việtnam
một yểm trợ đồ sộ và viện
trợ vô giá. Trong bối cảnh
đó và bắt nguồn từ nhu cầu cấp bách
kể trên, việc lănh đạo của chúng tôi công
nhận chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường
Sa mà Trung Hoa đ̣i
hỏi là điều
cần thiết để ngăn ngừa đế
quốc Mỹ dùng các hải đảo tấn công chúng
tôi, v́ nó phục vụ trực tiếp cuộc
chiến đấu bảo vệ độc lập và
tự do của tổ quốc.”
(Họp
báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan
tải bởi Thông Tấn Xă Việt Nam ngày 3/12/1992.}
Như
vậy, Nguyễn mạnh Cầm đă khai triển rơ hơn
về cuộc “chiến tranh” mà Phạm văn
Đồng nêu ra. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ. Nhằm vào cái mà gọi là bảo
vệ độc lập quốc gia,
Hồ đă phải nhượng bộ theo đ̣i
hỏi của Mao, cho Phạm văn Đồng
chuyển nhượng 2 quần đảo ấy cho Mao
với danh nghĩa là ngăn ngừa đế quốc
Mỹ dùng hai quần đảo ấy tấn công
Việt nam.
Thực
sự, Đồng và
Cầm nói về vấn
đề chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra
lại là vấn đề Nói
Dối.
Viện trợ mà TC thoả thuận cho VC là để VC
đánh chiếm Miền nam Việt nam.
Tóm
lại, tuyên bố của Nguyễn mạnh Cầm
về việc Mao đ̣i Hồ công nhận hai quần
đảo trên của Việt nam để đổi
lầy viện trợ to lớn của TC là hành vi bán nước.
NHẬN XÉT của Tạp Chí
Kinh Tế Viễn Đông:
Tập
San Kinh Tế Viễn Đông (FEER) số ra ngày 16 tháng 3
năm 1979 kể trên nhận xét về vấn đề
này: “Những ǵ xảy ra ngày nay có liên hệ
đến 2 quần đảo chỉ là những
hậu quả của sự dàn xếp mờ ám
của hai người cộng sản anh em trong qúa
khứ. Không một ai trong cộng đồng
thế giới muốn bước vào để dàn
xếp sự bất đồng giữa Cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc. Lư do rất rơ ràng: cái công
hàm ngoại giao và sự công nhận của Cộng
sản Việt Nam (2 quần đảo này là của TC)
không thể nào xoá bỏ được bởi một
nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đă dùng
một ‘tiểu xảo’ để lừa dối Trung
Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt
Nam không thể nào thoát được khỏi bàn tay
của Trung Quốc, trong khi họ lại phải theo
cách ‘đổi mới’ của Trung Quốc để
tiến lên chủ nghĩa xă hội.”
“Do sự hồ hởi muốn tạo ra một
cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc
và Nam, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng
sản, ông Hồ Chí Minh đă hứa, mà không có
sự tự trọng, nhượng một phần đất
“tương lai sẽ có” để cho Trung Quốc, dù
biết không chắc ǵ có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.
“
Vậy th́ ai đă tạo ra cuộc chiến
Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi
sự có thể làm được để chiếm
miền Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất?
Bán đất trong thời chiến và khi cuộc
chiến đă chấm dứt, Phạm Văn Đồng
lại chối bỏ điều đó bằng cách
bịa đặt ra việc đổ thừa cho
chiến tranh”.
-Frank
Ching trong Tạp Chí này trong số ra ngày 10, thàng
3, 1994 kết luận:
“Rơ ràng là Hồ chí Minh qua tay của Phạm văn
Đồng đă dâng hiến cho Cộng Hoà Nhân Dân
Trung Hoa một cái “ bánh ngọt to lớn” (món quà quá
hậu hĩ) v́ lúc đó họ Hồ đang chuẩn
bị xâm lăng Miền Nam. Hồ cần viện
trợ to lớn và đă nhắm mắt chấp
nhận mọi điều kiện Bắc Kinh đưa
ra. Thật là rất dễ cho Hồ chỉ bán
trên giấy hai quần đảo ấy v́ vào lúc đó
thuộc Miền Nam.”
Tóm
lại, riêng nói về hai quần đảo này, th́
một tay đại gian hùng như Hồ chí Minh, dù
rất khôn ngoan, thành thạo dùng tiểu xảo trong
mọi trường hợp, nay gặp phải Trung
cộng là bậc Thày thâm độc lừa
lại v́ lẽ TC biết rằng Hồ đâu
có làm chủ 2 quần đảo ấy vào lúc đó.
Hơn nữa, Trung Cộng theo truyền thống bành trướng
của của Hán Tộc nên có thể “mai phục tường
kỳ” dù mất 100 năm chờ cơ hội
thuận tiện đánh chiếm “vật”
ấy. V́ trí đoản, Hồ chỉ
biết và quen dùng mưu thuật nhằm đạt
chiến thắng nhất thời, như chỉ t́m
kiếm ít lợi lộc trước mắt, nên đă
bị mắc kẹt trong vụ này. Về sau, việc
biện hộ rằng v́ bị chiến tranh, v́
cần phải bảo vệ tổ quốc chống
đế quốc Mỹ xâm lăng, nên đă “tôn
trọng quyết định” ấy của Mao là
một sự chạy tội, phản ảnh
trạng thái trí tuệ u mê của họ Hồ. Không có
bóng ma chiến tranh nào, cũng chẳng có đế
quốc Mỹ nào hiện diện, hay d́nh dập để
thực hiện âm mưu xâm lăng vào lúc đó. Ngoài
ra, đổ tội cho Đế quốc Mỹ d́nh
dập đánh phá là bịa đặt trắng
trợn để che dấu mưu đồ đen
tối là cần tiền đẻ xâm chiến Miền Nam.
Tuy
nhiên, với “yểm trợ đồ
sộ và viện trợ vô giá” cho Hồ, Mao
đă đạt được cả 2 mục tiêu:
a)
Thụ đắc được 2 quần đảo
này một cách hoà b́nh. Mao không mất
một giọt máu để được làm chủ.
Ngược lại, Hồ và đồng bọn tỏ
ra rất hồ hởi v́ hưởng được món
viện trợ lớn, mà không thấy mất mát ǵ.
b) Đánh
chiếm Miền Nam, Việt nam. Thay v́ phải
tự mang quân xuống đánh chiếm Nam Việt Nam,
Mao không làm nổi và đă dùng Hồ và đồng
bọ làm lính tiền phong cho
công tác này.
Thực
vậy, những lời giải thích của Phạm văn
Đồng và Nguyễn mạnh Cầm cho thấy điều
đó. Sau khi chiếm được Miền Bắc vào
năm 1954, Hồ đă lập một dự án bành trướng
thế lực cộng sản trên bán đảo Đông
Dương trước khi tiến xa hơn. Hồ
chia vùng này làm 4 chiến trường : A, Bắc
Việt; B, Nam Việt; C, Miên Lào; và D, Thái Lan và Hồ
lănh nhiệm vụ tiền phong thực hiện cuộc
chiến tranh này. Đây là một “nghĩa vụ cao
cả” của người Cộng Sản quốc
tế.
Trong
kế hoạch này, B là Nam Việt nam, là mục tiêu
đâu tiên. Hồ cần Mao gấp rút “yểm
trợ đồ sộ (cần hậu thuẫn
của các bạn bè khắp thế giới) và
viện trợ vô giá ( tiền bạc, súng ống và
các quân dụng khác…) , v́ đó là “nhu
cầu cấp bách.”
Mao
biết rằng Nam Việt Nam là bàn đạp
để Mao diến xa hơn trong chủ nghĩa bá
quyền. Các lực lượng dân tộc Việt,
đối kháng với bá quyền Bắc Kinh c̣n
lại, nằm ở Nam Việt nam. Mao biết
rằng kẻ ngoai xâm như Mao không làm nổi. Hơn
1000 Bắc thuộc đă là những bài học tủi
nhục. Cách hay nhất là dùng người bản
xứ làm công việc này. Mao đă quá khôn ngoan
biến Hồ và các thế hệ tay em trở
thành lính đánh thuê, mà các kẻ này không ư thức
được vai tṛ của chúng. Chính những
kẻ này gây ra cuộc chiến tranh tương tàn
khủng khiếp giúp Mao tận diệt các thế
lực dân tộc Việt thù địch ấy. Trong
cuộc chiến này, Hồ và đồng bọn đă
không nương tay chém giết tàn bạo đồng bào
của họ, tiêu huỷ các giá trị nền tảng
của chủ nghĩa dân tộc và các sức mạnh
khác chống lại Mao để bảo vệ độc
lập và tự chủ của dân tộc. Nếu xét
về mọi phương diện như văn hoá, xă
hội, lănh thổ, kinh tế, chính trị…., những
ǵ đă và đang xảy ra trên ṭan cơi Việt nam
từ thập niên 1950 đến nay, ta có
thể thấy âm mưu thực hiện mục tiêu này
đă lộ rơ.
Hồ
và đàn em chiếm được Nam Việt nam vào tháng
4, 1975 và cho đến nay chúng vẫn c̣n đang nỗ
lực làm tṛn sứ mạng hoặc đặt ách
thống trị trên lănh thổ như xưa kia hay
biến Việt nam thành một phần lănh thổ
của Hoa Lục. Liệu những kẻ nội thù này
có đạt được mục tiêu này hay không?
xxxxx
Tóm
lại, Hồ chí Minh và Đảng CSVN đă phơi
bày rơ ư định và đă thực hiện xong các hành
vi chuyển nhượng hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cho Trung Cộng, đổi
lại lấy được sự yểm trợ “đồ
sộ” của TC để có phương tiện
đánh và chiếm Miền Nam.
Viện
trợ mà Nguyễn mạnh Cầm gọi là đồ
sộ và vô giá là bao nhiêu? Đặng tiểu B́nh nói
là 20 tỷ MK.
Hồ chí Minh và đồng bọn đă
thực sự phạm tội bán nước.
Xxxxxxxxxx
Vấn đề 2.
Dựa vào Công hàm của Phạm văn Đồng, TC
công khai nói rằng đây
là bằng chứng VC đă công
nhận 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là của TC.
Vậy
ta hăy xét Giá Trị Pháp Lư của Công hàm ấy về
sự công nhận 2 quần đảo này là của TC.
1.
Việc chuyển giao
một phần lănh thổ hay lănh hải của một
dân tộc là do quyết định của toàn dân.
Ư định của toàn dân về vấn đề
ấy phải được phát biểu công khai và
tự do. Nếu là trực tiếp, th́ đó là trưng
cầu dân ư. Nếu là gián tiếp, th́ Quốc hội
có trọng trách thể hiện ư định này
của quốc dân. Thường th́
việc chuyển nhượng được
thực hiện bằng một
hiệp ước do 2 bên
kư kết có sự phê chuẩn của quốc hội,
và phải được ban
hành hợp lệ.
Lưu
ư: nếu
thủ dục ban hành không theo đúng các qui định,
văn kiện không có giá trị
(due process).
Như
vậy đây là thẩm quyền của Lập Pháp.
Hành
pháp là một bộ phận công quyền của
quốc gia với nhiệm vụ thi hành quyết định
ấy của quốc dân. Hành pháp không có quyền
quyết định tối hậu về việc này. Và
một văn thư hành chánh
của Hành pháp , như công hàm này,
không hội đủ điều kiện để
có giá trị trong việc chuyển nhượng lănh
thổ hay lănh hải của quốc gia,
Nh́n
vào sự việc, ta thấy Phạm văn Đồng
với tư cách thủ tướng của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) trong công hàm đề ngày
14 tháng 9, 58 công nhận
lănh hải của Trung hoa trong bản tuyên bố 10 ngày
trước đó đă vượt ra ngoài quyền
hạn của Hành Pháp. Phạm văn Đồng đă
làm một việc mà ông ta không có quyền và không
được phép làm. Hành vi ấy như vậy là
bất hợp pháp, nó không có giá trị ǵ về phương
diện pháp lư.
2.
Tuyên bố của Chu
ân Lai về 12 hải lư gồm cả Hoàng Sa và Trường
Sa là một hành vi xâm lăng v́ lẽ hai quần
đảo này chưa bao giờ thuộc quyền sở
hữu của Trung Hoa và Chu ân Lai đă tự
coi là đất của Trung Hoa trong bản tuyên bố
đó. Đây là hành vi vi phạm luật pháp.
Hành
vi của Phạm văn Đồng vốn dĩ đă
là một sự lạm quyền (bất hợp pháp
rồi), nay lại có mục đích công nhận hành vi
bất hợp pháp của Chu ân Lai, th́ hành vi đó không
có một giá trị ǵ.
3.
Nội dung của công hàm
tuyệt nhiên không nói ǵ đến chuyển nhượng
2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam cho Trung Cộng. Công hàm chỉ đề
cập đến công nhận lănh hải của TC 12
hải lư. Sự công nhận này không thể được
giải thích hay có nghĩa là một sự chuyển
giao quyền sở hữu chủ một tài sản cho
một chủ thể khác.
4.
Không ai có thể chuyển
nhượng cho một đệ tam nhân cái ǵ mà ḿnh
không có.
Khi
thừa nhận hai vùng quần đảo này là của
Trung Cộng, Phạm văn Đồng được
hiểu là thay mặt VNDCCH với tư cách là
‘chủ nhân ông’ hai vùng quần đảo ấy.
Thực sự th́ hai quần đảo này lúc ấy
thuộc quyền sở hữu của Việt Nam
Cộng Ḥa (VNCH). Như vậy Phạm văn Đồng
đă mạo nhận, có
ư định chuyển giao một cái mà ḿnh không có,
với âm mưu lừa gạt Trung cộng. Lời
hứa ấy tự bản chất là không có giá
trị.
5.
Lănh
thổ hay lănh hải là đối tượng
chuyển nhượng phải được mô tả
với chi tiết cụ thể, rơ rệt và đầy
đủ, hay nói khác đi là phải có mô
tả pháp lư rơ rệt với các toạ độ
như kinh tuyến và vĩ tuyến của từng
đảo một, với các cột mốc tham
chiếu thiên nhiên hay nhân tạo… Không thể nói mơ
hồ hay khơi khơi là “ các đảo ngoài khơi
hay ở vùng phụ căn,,,, và
gồm Hoàng Sa, Trường Sa “ như trong Tuyên Bố
của CHNDTH kề trên.
6..Động
cơ thúc đầy 2 bên sang nhượng lành
hải phải được trong sáng hay nói rơ ra là chính
đáng. Thí dụ như có
liên quan đến các tội phạm như buôn người,
tổ chức cướp biển, buôn bán ma tuư… không
được luật pháp cho phép. Trong trường
hợp này, VC cần
viện trợ đồ sộ của
TC để thực hiện xâm lăng hay gây chiến, không
được chấp thuận.
Tóm
lại, công hàm của Phatm văn Đồng về
mọi mật không có giá trị pháp lỳ về
chuyển nhượng lănh hải/.
---------
Tham chiếu & Trích
dẫn: Nguyễn văn Canh,
“Hồ sở HS & TS và Chủ Quyền Dân
Tộc” ấn bản 8, UBBVSVTLT, 2017, các trang 197-227;
383-399
|