BỐI
CẢNH VÀ DIỄN BIẾN HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974 -Bài của CARL O. SCHUSTER |
HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974 QUA BÀI PHÂN TÍCH CỦA MỘT CỰU SĨ QUAN HẢI QUÂN HOA
KỲ: BỐI CẢNH VÀ DIỄN BIẾN HẢI
CHIẾN HOÀNG SA 1974 -Bài của CARL O. SCHUSTER Ngày 11/01/1974, các sĩ quan Nam Việt Nam nhận
được báo cáo về những động thái
của Trung Quốc trên hai ḥn đảo của Nam
Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hai ngày
sau, Bộ tư lệnh Hải quân Sài G̣n phái hai tàu
khu trục Lư Thường Kiệt HQ-16 và Trần Khánh
Dư HQ-4 tới thám sát. HQ-16
tới đảo Hữu Nhật (Robert Island) vào 16/1 và
nhận thấy đảo này đă bị “ngư dân”
Trung Quốc, từ hai thuyền đang neo tại băi ven
đảo, chiếm đóng. Chỉ huy tàu HQ-16 lệnh
cho những người Trung Quốc rời đảo và
bắn thị uy để họ hiểu ư định
của ông. Sau đó họ bắn và phá hủy các lá
cờ Trung Quốc và một khu vực chế biến cá
mà những “người đánh cá” triển khai 6 ngày
trước đó. HQ-4 tới Hoàng Sa ngày 17/1 và phái
một đơn vị đặc nhiệm SEAL của
Nam Việt Nam lên đảo Hữu Nhật và đảo
Quang Ảnh (Money Island) gần đó để nhổ
những cờ Trung Quốc. Ngày 18/1, hai tàu chiến
của Nam Việt Nam đuổi một tàu đánh cá
bằng lưới rà của Trung Quốc, buộc con tàu
bị phá hủy nặng nề này phải rời vùng
biển. Sau đó các tàu khu trục Trần B́nh
Trọng HQ-5 và tàu quét ḿn Nhật Tảo HQ-10 tới Hoàng
Sa. Sài G̣n nghĩ rằng đă chặn được
nỗ lực trong suốt 6 tháng liền của Bắc
Kinh nhằm chiếm nửa phía tây của Hoàng Sa.
Những “ngư dân” có vũ trang của Trung Quốc
trước đó hầu như đă đẩy
được các ngư dân Nam Việt Nam ra khỏi vùng
biển Hoàng Sa, và ít nhất có hai tàu đánh cá Trung
Quốc đă bị phát hiện đang hoạt động
tại vùng nước mà Nam Việt Nam tuyên bố
chủ quyền. Nhưng biến động gần
nhất này của Trung Quốc lại là khởi đầu
của một giai đoạn mới trong nỗ lực
nhằm chiếm toàn bộ Hoàng Sa. Lần này, những
“ngư dân” Trung Quốc là thành viên của lực lượng
Dân quân biển - một lực lượng bán vũ
trang của Hải quân Trung Quốc. Hai chiếc tàu cá gần đảo Hữu
Nhật báo cáo về Bộ Tư lệnh Hạm đội
Nam Hải Trung Quốc. Ngày 16/1, Bộ Tư lệnh
Hạm đội ra lệnh cho hai tàu săn ngầm
lớp Kronstadt đóng tại đảo Hải Nam tháp
tùng lực lượng dân quân biển tới hiện
trường, về mặt công khai là để bảo
vệ ngư dân Trung Quốc, nhưng chủ yếu là
để tập trung binh lực. Trung Quốc cũng
hạ lệnh triển khai hai tàu quét ngư lôi. Bắc
Kinh quyết định giải quyết tranh chấp
tại Hoàng Sa bằng vũ lực nếu thời cơ
cho phép. Quần đảo Hoàng Sa gồm 130 đảo
san hô, mỏm đá ngầm và băi cát nằm rải rác
trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông, cách gần
đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200
hải lư) và đảo Hải Nam của Trung Quốc
(162 hải lư). Diện tích của toàn quần đảo
(chỉ tính mặt đất) là khoảng 3 dặm vuông.
Hầu hết các đảo hợp thành Nhóm đảo
An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía đông bắc và Nhóm
đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) về phía tây,
cách nhau khoảng 39 hải lư. Đảo Phú Lâm (Woody
Island) thuộc nhóm An Vĩnh là lớn nhất trong các
đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng 530
mẫu Anh. Cho dù những tuyên bố chủ quyền
của cả Việt Nam và Trung Quốc đều có
từ các triều đại phong kiến xa xưa,
gốc rễ của sự tranh chấp giữa Trung
Quốc và Nam Việt Nam gắn với những năm
1930 và các tham vọng của thực dân Pháp. Nước
Pháp, cường quốc đô hộ Việt Nam từ
1858, đă đưa ra tuyên bố chủ quyền đối
với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ 1932 nhưng từ đầu không quan tâm đến
việc chiếm giữ các đảo này trên thực
tế. Điều này thay đổi vào năm 1937 khi
cuộc chiến của Nhật Bản với Trung
Quốc - vốn bắt đầu từ năm 1931
với việc Nhật chiếm Măn Châu Lư - leo thang khi
Nhật tiến quân sâu vào lănh thổ Trung Quốc. Người
Pháp lo Trung Quốc hay Nhật sẽ chiếm các
quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) nên đă
đặt một trại lính gồm khoảng 100 lính
Pháp và Việt tại đảo Phú Lâm vào năm 1938
như một khu đệm để mở rộng chu
vi pḥng thủ cho các thuộc địa Đông Dương
của Pháp. Nhà cầm quyền Anh ủng hộ bước
đi này của Pháp v́ nó mở rộng phạm vi pḥng
thủ của thuộc địa Malaya của Anh.
Cả hai cường quốc châu Âu này cho rằng
cuộc chiến tranh của Nhật chống Trung
Quốc chỉ là bước đi ban đầu
của kế hoạch chiếm các thuộc địa
của châu Âu ở Đông Nam Á. Nhưng thay v́ răn
đe hành động của Nhật trên Biển Đông,
việc đồn trú tại Hoàng Sa của Pháp lại
khiêu khích Nhật. Nhật cho một đơn vị
nhỏ lính thủy đánh bộ đổ bộ lên
đảo Phú Lâm chỉ một tháng sau khi Pháp cho quân
đồn trú. Quân đồn trú trên đảo đầu
hàng, không nố súng chống lại. Nhật sáp
nhập Trường Sa và Hoàng Sa vào năm 1941, tuyên
bố chúng thuộc Đài Loan, đảo đang
bị Nhật chiếm đóng lúc đó. Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật
ngày 6 và 9/8/1945, Tokyo bắt đầu rút quân khỏi các
quần đảo này. Chính phủ Quốc Dân Đảng
Trung Hoa chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) hai tháng
sau đó, và đặt một đồn trên đảo
Phú Lâm vào tháng Giêng 1946. Pháp sau đó do không đẩy
được quân Quốc Dân Đảng ra khỏi Nhóm
đảo An Vĩnh bằng một cuộc biểu dương
lực lượng hải quân đành tuyên bố
chủ quyền đối với Nhóm đảo Lưỡi
Liềm và đổ bộ một trung đội lê dương
lên đảo Hoàng Sa (Pattle) để ngăn quân
Quốc Dân Đảng chiếm đóng đảo này. Chính phủ Quốc Dân Đảng lặp
lại yêu sách đối với toàn bộ Biển
Đông năm 1947, xuất bản một bản đồ
đưa các yêu sách lănh thổ vào khuôn khổ
một “đường chín đoạn” dọc vành
ngoài của Biển Đông. Năm 1949, quân Trung
Cộng đẩy chính quyền Quốc Dân Đảng
ra Đài Loan. Nhật Bản từ bỏ tuyên bố
chủ quyền đối với các quần đảo
trên Biển Đông tại Hội nghị ḥa b́nh San
Francisco 1951, nhưng không giao quyền kiểm soát
của ḿnh cho bất cứ một bên có yêu sách
cụ thể nào khác, đẩy vấn đề
sở hữu các quần đảo (Hoàng Sa và Trường
Sa) rơi vào t́nh trạng không được giải
quyết. Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) tuyên
bố rằng họ thừa kế các yêu sách đối
với Biển Đông từ chính phủ Quốc Dân
Đảng. Mặc dù vậy Nam Việt Nam đă chiếm
đóng nhóm đảo Lưỡi Liềm từ năm
1954 và đặt một lực lượng đồn
trú nhỏ trên ba ḥn đảo. Trung Cộng giành
quyền kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo
Phú Lâm vào năm 1956. Ngư dân Trung quốc đổ
bộ lên đảo Quang Ḥa (Duncan) năm 1959 nhưng phía
Nam Việt Nam đă đuổi họ đi. Khi Chiến tranh Việt Nam leo thang, Sài G̣n, tin tưởng
vào sự hỗ trợ của Hải quân Mỹ, đă
rút các đơn vị đồn trú của ḿnh.
Tới năm 1967, sự hiện diện của Nam
Việt Nam tại quần đảo chỉ c̣n một
trạm khí tượng. Trung Quốc tỏ ra chấp
nhận nguyên trạng. Hai biến chuyển trong t́nh h́nh những năm
1970 đă thay đổi bàn cờ Biển Đông: các
báo cáo về trữ lượng dầu tại thềm
lục địa vùng này xuất hiện vào giữa năm
1972, và Hiệp định Paris về lập lại ḥa
b́nh ở Việt Nam chấm dứt sự dính líu
của Mỹ ở Việt Nam. Các lănh đạo châu
Á đột nhiên nhận thấy tranh chấp Biển
Đông không chỉ là một vấn đề chính
trị và hành chính, mà c̣n là vấn đề phát
triển kinh tế. Nhóm thân cận với Mao tính toán
rằng những phần thưởng về kinh tế
lớn hơn những rủi ro xảy ra xung đột
quân sự. Vả lại, những rủi ro đang
giảm xuống. Mao nhận thấy một chính phủ Mỹ
đang rút chân khỏi Nam Việt Nam sẽ thiếu ư
chí dấn vào một cuộc xung đột khác,
lại đang mong được Trung Quốc hỗ
trợ chống lại một Liên Xô đang ngày càng thách
thức hơn. Nguyên thủ Trung Quốc kết luận
rằng chế độ Sài G̣n khó có khả năng
được Mỹ hỗ trợ, và sự tồn
tại của nó cũng đang được tính
bằng ngày. Nhóm thân cận với Mao cũng hiểu
rằng Bắc Việt Nam vẫn c̣n cần viện
trợ của Trung Quốc trong nỗ lực chiến
thắng Nam Việt Nam, đồng thời đồng
minh khác của Hà Nội là Liên Xô không có lực lượng
trên địa bàn này để cản trở Trung
Quốc hành động đối với các đảo
(trên Biển Đông). Mao ra lệnh tiến hành một
loạt những bước đi nhằm ép Nam Việt
Nam từ bỏ Hoàng Sa. Không biết các ư định của Bắc
Kinh, Sài G̣n tuyên bố quyền kiểm soát về hành
chính tại nhóm đảo Lưỡi Liềm vào tháng
8/1973 và một tháng sau cho phép thực thi các hợp
đồng thăm ḍ dầu khí tại các vùng nước
quanh nhóm đảo này. Cuộc đột nhập đầu
tiên của đội tàu đánh cá của Trung
Quốc xảy ra vào cuối tháng 7. Một số “ngư
dân” có vũ trang, và ít nhất một tàu trong số
này là loại bọc thép, nhưng chúng rút ngay mỗi
khi các đơn vị Hải quân Nam Việt Nam
tới. Sài G̣n triển khai các đơn vị đồn
trú có quân số khoảng một trung đội trên ba
ḥn đảo thuộc nhóm đảo này. Tháng 1/1974, các tàu đánh cá lưới rà
số 402 và 407 của Trung Quốc đưa thủy
thủ đoàn đổ bộ lên đảo Quang Ḥa,
thiết lập một trạm cung cấp, hầm hào, và
cắm cờ Trung Quốc khắp trên đảo. Nam
Việt Nam bắt giữ một số tàu đánh cá
Trung Quốc vào tháng 11 cùng thủy thủ đoàn
của chúng. Các thủy thủ Trung Cộng bị
đưa về Đà Nẵng nơi họ phải thú
tội trên truyền h́nh về các hành động
phạm pháp và các tội ác đối với nhân dân
Việt Nam trước khi được thả. Nhưng
những vụ tàu đánh cá Trung Quốc tấn công dân
chài Việt Nam tiếp tục diễn ra. Cùng kỳ, Mao
ra lệnh cho Hải quân Trung Quốc chuẩn bị hành
động quân sự để hỗ trợ các ngư
dân Trung Quốc. Ngày 10/01/1974, một nhóm ngư dân Trung Quốc
tiến hành đánh bắt cá tại đảo Hữu
Nhật thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm. Nhóm
này đă bị các dân chài Việt Nam phát hiện 3 ngày
trước, nhưng họ không thông tin được
cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cho tới khi về
tới Đà Nẵng hôm 11/01/1974. Cùng ngày, Bắc Kinh
ra tuyên bố nhắc lại chủ quyền không
thể tranh căi của nước này đối với
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng
như băi ngầm Macclesfield, một đảo san hô ṿng
cách quần đảo Hoàng Sa 70 hải lư về phía
Đông. Nhận thấy những ư đồ của
Bắc Kinh, Sài G̣n cử các tàu khu trục HQ-16, HQ-4,
HQ-5, và tàu quét thủy lôi HQ-10 chở đội đặc
nhiệm SEAL đến đảo Hữu Nhật. Hai
trong số các tàu khu trục trên là thủy phi cơ
đời Thế chiến II được cải
tiến, tháo bỏ các thiết bị hỗ trợ
thủy phi cơ, c̣n chiếc thứ ba là tàu khu
trục hộ tống được cải tiến.
Tất cả chúng ở trong t́nh trạng kém, thường
xuyên xảy ra các vấn đề về kỹ
thuật và vũ khí, khiến tốc độ và
hỏa lực đều bị hạn chế. Đến nơi vào ngày 16/1, các tàu chiến
của Nam Việt Nam đă nhanh chóng đuổi các ngư
dân Trung Quốc đi. Tàu đánh cá (TQ) số 407 báo cáo
sự việc HQ-16 tới lên Bộ chỉ huy dân quân
biển tại Du Lâm trên đảo Hải Nam ngay sáng
16. Điện báo này về tới Bắc Kinh vài
giờ sau. Chiều tối hôm đó, Hạm đội Nam
Hải của Trung Quốc phái hai tàu săn ngầm
lớp Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 đón một
đại đội dân quân biển gồm bốn
trung đội (mỗi trung đội 10 người)
từ đảo Phú Lâm đưa sang Nhóm đảo Lưỡi
Liềm. Bắc Kinh cố gắng tăng viện cho quân
của họ, nhưng giống như đối phương,
tàu chiến của Trung Quốc cũng ở trong t́nh
trạng tồi tệ. Cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung
Quốc - một cuộc thanh trừng chống các
ảnh hưởng phi chủ nghĩa xă hội và các
đối thủ của Mao - đă làm hư hoại
gần như hoàn toàn các xưởng đóng tàu
của nước này. Hơn 2 triệu nhà khoa học,
kỹ sư, nhà giáo, công nhân lành nghề, cán bộ hành
chính bị tù đày hoặc giết chết, gồm
cả những người đă đóng và bảo dưỡng
tàu bè của nước này cũng như mạng lưới
đường sắt chuyển vật tư tới các
xưởng đóng tàu. Kết quả là tàu chiến tốt nhất
của Hải quân Trung Quốc, các khu trục hạm
loại Type 065 đă không thể khởi hành. C̣n
chiếc 271 vừa xuất xưởng và chưa hoàn
tất việc chạy thử trên biển, và chiếc
274 với động cơ diesel ở t́nh trạng kém,
không thể đạt tốc độ 18 hải lư/giờ.
Vậy mà chúng vẫn nhanh hơn, được trang
bị tốt hơn các tàu của hải quân Nam
Việt Nam. Hai chiếc tiêm kích Thẩm Dương J-6,
bản copy của MIG – 19 do Liên Xô sản xuất,
yểm hộ đường không cho các tàu săn
ngầm, nhưng không có năng lực hoạt động
tầm xa đủ để trực chiến trên đầu
các tàu khi chúng nhập cuộc sáng 17/1. Vào rạng sáng 18/1, hai tàu Trung Quốc đă
đưa được một trung đội dân quân
biển lên đảo Duy Mộng, một trung đội
khác lên đảo Quang Ḥa tây, và hai trung đội lên
đảo Quang Ḥa. Các trung đội này lập
tức tiến hành đào hầm hào và đặt ḿn
và bẫy phía trước trận địa của
họ. Hai tàu rà thủy lôi loại Type 10 đóng ở
Quảng Châu, mang số hiệu 389 và 396, được
lệnh tăng cường cho các tàu săn ngầm
loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274. Chúng cũng
đến nơi vào cuối buổi sáng hôm đó. Hai chiếc tàu chiến khác có thể hoạt
động được lúc đó của Trung
Quốc là hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam
được điều từ Sán Đầu, cách
đó khoảng 476 hải lư. Chúng tiến về Hoàng
Sa với tốc độ tối đa, được
tiếp dầu ở Trạm Giang, phía nam Hồng Kông, và
tại Du Lâm. Các tàu chiến này được
lệnh hỗ trợ các thuyền đánh cá của dân
quân biển với điều lệnh chiến đấu
“không gây sự; không bắn trước; nhưng
nếu lâm chiến, phải thắng”. Vào sáng sớm 19/1, hạm trưởng chia tàu
của Trung Quốc thành hai nhóm: tốp đầu
gồm 4 chiếc do các tàu săn ngầm Kronstadt dẫn
đầu, và tốp sau gồm các tàu săn ngầm
lớp Hải Nam vừa tới. Hạm trưởng
được lệnh đáp trả mọi thách
thức đối với các tàu đánh cá của dân
quân biển và hỗ trợ các ngư dân trên các đảo
nếu cần. Hải quân Nam Việt Nam cũng chia thành hai
tốp. Tốp đầu bao gồm các tàu khu trục
HQ-4 và HQ-5. Tốp này chạy ṿng quanh các đảo
Quang Ảnh (Money) và Hải Sâm (Antelope) từ phía nam và
tiếp cận đảo Quang Ḥa. Tốp thứ hai
gồm các tàu quét ḿn HQ-10 và tàu khu trục HQ – 16, băng
qua vùng đầm phá tại Nhóm đảo Lưỡi
Liềm từ phía tây bắc. Hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt của Trung
Quốc chiếm vị trí để theo dơi các tàu HQ-4
và HQ-5, trong khi các tàu quét ḿn loại Type 10 bám theo các tàu
HQ-10 và HQ-16. Hạm trưởng HQ-16 dự cảm
trận đánh sắp xảy ra - đă tăng tốc
vượt lên các tàu quét ḿn Trung Quốc, và 14 lính
đặc nhiệm của Nam Việt Nam được
đưa lên hai thuyền cao su để giành lại
đảo Quang Ḥa và Quang Ḥa Tây. HQ-16 đâm mạnh và
làm hỏng nặng tàu quét ḿn 389; thủy thủ trên
chiếc 389 bắn vào cầu tàu và ụ súng phía trước
của HQ-16, giết hoặc làm bị thương
hầu hết thủy thủ Nam Việt Nam trên đó.
Cuộc giao chiến sau đó đă diễn ra theo như
ư đồ của Trung Quốc. Các lính đặc nhiệm, từng dự
kiến có hải quân yểm hộ, nay phải một
ḿnh đối đầu với các tàu Trung Quốc.
Họ lên bờ giữa ban ngày, đối địch
với một lực lượng kẻ thù đông,
cố thủ trong chiến hào trên cả hai đảo
Quang Ḥa và Quang Ḥa Tây, nên nhanh chóng bị đẩy lùi.
Họ cố trở lại các thuyền cao su dưới
làn đạn kẻ thù, trong khi các tàu hải quân Nam
Việt Nam dàn hàng ngang tiến thẳng vào đội h́nh
địch, bắn vào buồng hoa tiêu của địch
và t́m cách xoay chuyển thế trận thành một
cuộc chiến của pháo tầm xa. Không may cho
lực lượng Nam Việt Nam, họ không có
được tốc độ, do đó các tàu cơ
động hơn của Trung Quốc có thể
quyết định khoảng cách giao tranh. Hạm trưởng
Trung Quốc ra lệnh: “Tăng tốc tiến lên,
đánh cận chiến, thọc mạnh”. Biết
rằng các tàu của ḿnh trang bị kém và sẽ
bị áp đảo trong một cuộc đấu súng
tầm xa, hạm trưởng Trung Quốc quyết
định dùng chiến thuật “giáp lá cà”. Sau 10 phút
giao tranh, chiến trường đă thu hẹp từ
phạm vi 2, 3 hải lư xuống c̣n vài trăm mét. Các tàu săn ngầm lớp Kronstadt bắn
cấp tập vào HQ-4, trong khi các tàu quét ḿn Type 10
tập trung hỏa lực pháo 37mm vào chiếc HQ-16,
nhằm vào buồng hoa tiêu, trung tâm thông tin và các radar.
Bị bắn hỏng nặng, chiếc HQ-16 phải thoái
lui. Các tàu quét ḿn chuyển sang bắn vào HQ-10, nhằm
vào kho đạn ở đuôi tàu, gây một tiếng
nổ khiến phần động cơ phía trước
con tàu này tê liệt. Các tàu quét ḿn chỉ cách HQ-10 có khoảng mười
thước, khiến các ṇng pháo c̣n lại của
chiếc tàu Nam Việt Nam này không thể bắn vào
những con tàu thấp và nhỏ hơn của đối
phương đang tiếp cận sát thân tàu. Súng
bộ binh của thủy thủ Trung Cộng quét
dọc ngang sàn tàu và buồng hoa tiêu, sát hại
thuyền trưởng và hầu hết thủy thủ
điều khiển tàu. Chiếc HQ-16 bị hư hại cố tiếp
ứng cho HQ-10 nhưng bị đẩy ra xa bởi
hỏa lực của quân Trung Quốc. Nó phải rút
về phía đông nam, trong khi HQ-4 và HQ-5 rút về phía
nam. Hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam của Trung
Quốc tới nơi khoảng trưa 19/1, bắn
tiếp vào chiếc HQ-10 khiến nó ch́m vào lúc 1h
chiều. Cùng lúc, Bắc Kinh lo ngại Sài G̣n sẽ tăng
cường quân cho các đồn c̣n lại trên các
đảo, gồm khoảng 2 đại đội
bộ binh trên các đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa
(Pattle), và Quang Ảnh, và các lính đặc nhiệm c̣n
sống sót. Hạm đội Nam Hải pha trộn
một đội h́nh chắp vá gồm tất cả
những đơn vị nào c̣n có thể lên đường:
một tàu khu trục, năm tàu phóng lôi, và tám tàu
tuần tra loại nhỏ. Được tổ
chức thành ba đội tàu đổ bộ và
vận tải, các tàu này chở 500 lính thuộc 3 đại
đội bộ binh, một đại đội dân
quân và một nhóm trinh sát vũ trang. Đội tàu này triển khai thành đội h́nh
thuận cho xuất phát. Tốp đầu gồm
bốn chiếc tàu tuần tra và các tàu lưới rà
của dân quân biển mang số hiệu 402 và 407, mang
theo một đại đội bộ binh 100 lính.
Tốp hai gồm một đại đội bộ
binh và đội trinh sát thủy - bộ được
rải ra trên bốn chiếc tàu tuần tra và chiếc
tàu quét ḿn 389. Chiếc tàu khu trục Nam Ninh, vốn là
một tàu hộ tống của Nhật trước
đây, trở thành thê đội ba, chở một
đại đội bộ binh và được
bổ nhiệm làm soái hạm của chiến dịch này. Tốp đi đầu tiến công đảo
Hữu Nhật, bắn pháo vào những người
giữ đảo để đẩy họ khỏi
bờ biển, rồi đổ bộ lính bộ binh
bằng các thuyền cao su và xuống ba lá. Hữu
Nhật thất thủ sau 10 phút. Thê đội 2
tiến đánh đảo Hoàng Sa (Pattle), đẩy 30 lính
giữ đảo về phía giữa đảo nơi
họ đầu hàng sau một giờ giao tranh. Trong
trận đánh trên đảo này, Trung Quốc bắt
được viên thiếu tá Nam Việt Nam chỉ huy
lực lượng đồn trú tại quần đảo
Hoàng Sa và viên cố vấn được phái tới
từ Đại sứ quán Mỹ. Các lính đặc
nhiệm trên đảo Quang Ảnh bỏ vị trí trước
khi Hải quân Trung Quốc tiến công, trốn thoát
được vài ngày trước khi bị bắt. Cho đến cuối chiều 20/1, toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa đă rơi vào tay Trung
Quốc. Hơn 100 lính Nam Việt Nam bị giết
hoặc bị thương, và 48 lính Nam Việt Nam và
một sĩ quan liên lạc người Mỹ bị
bắt, so với 18 lính Trung Quốc bị chết, 67 người
khác bị thương. Đây là một thắng lợi lớn của
Hải quân Trung Quốc: một tàu phá thủy lôi
của Nam Việt Nam bị ch́m, ba tàu khu trục bị
hư hỏng nặng, so với hai tàu săn ngầm,
một tàu quét thủy lôi và một tàu đánh cá
của Trung Quốc bị hư hỏng nặng. Trung Quốc dành 2 tuần tiếp theo để
gia tăng sự hiện diện hải quân xung quanh các
đảo và củng cố pḥng ngự, bao gồm
cả việc triển khai một tàu ngầm lớp
Romeo và ba tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn
đường lớp Thành Đô, mang theo các tên
lửa hành tŕnh chống hạm loại Styx. Về chiến thuật, các đơn vị
hải quân Nam Việt Nam có hỏa lực mạnh hơn
đối phương, nhưng họ không có một
hệ thống radar điều khiển hỏa lực,
do đó phải bắn qua lỗ ngắm, làm giảm
đáng kể khả năng bắn trúng các mục tiêu
cơ động nhanh như các tàu tuần tiễu
của Trung Quốc. Mặc dù t́nh trạng kỹ
thuật của tàu chiến cả hai bên ngăn cản
họ hành động ở tốc độ cao
nhất, các tàu của Trung Quốc vẫn đạt
được tốc độ tới 7-10 hải lư/giờ,
một ưu thế khiến họ có thể quyết
định cự ly giao tranh. Một khi đă đạt được
cự ly cách các tàu của Nam Việt Nam nửa
dặm, các vũ khí nhẹ, tác xạ nhanh của tàu
Trung Quốc và sự linh hoạt tạo cho họ
một ưu thế rơ ràng. Chiến trường
được quyết định trong một
khoảng cách chỉ 200 thước. Không gian chỉ
huy, hoa tiêu và liên lạc của các tàu Nam Việt Nam
đối mặt với hỏa lực tầm gần
chính xác, và các pháo lớn của họ bị vô
hiệu ở tầm bắn gần. Các tàu của Nam
Việt Nam đành rút lui, để các đơn
vị đồn trú trên các đảo không được
hỏa lực hải quân hỗ trợ. Nam Việt Nam đe dọa sẽ trả
đũa nhưng nhận thấy cán cân lực lượng
hải quân nghiêng về phía Trung Quốc. Hơn
nữa, Sài G̣n có nhiều mối lo đè nặng. Cơ
quan t́nh báo Sài G̣n đang dơi theo các đường
vận tải và chuyển quân của Bắc Việt
đổ theo hướng qua Lào và đông Campuchia.
Việc dồn quân dọc biên giới Nam Việt Nam là
một dấu hiệu gây lo ngại về ư định
của Hà Nội. Cùng lúc, Hà Nội phản đối động
thái này của Bắc Kinh nhưng không hành động
ǵ. Bắc Việt vẫn cần sự ủng hộ
của Trung Quốc để tổ chức, động
viên lực lượng của ḿnh cho trận đánh
cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát Nam
Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước
vào tháng 4/1975, Hà Nội nhanh chóng giành quyền kiểm
soát các đảo do Nam Việt Nam nắm giữ trên
quần đảo Trường Sa. Những năm sau
chiến tranh, Việt Nam tiếp tục phản đối
việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo
Hoàng Sa và duy tŕ tuyên bố khẳng định chủ
quyền của ḿnh đối với quần đảo
này, cũng như với các đảo thuộc
quần đảo Trường Sa. Việt Nam tuy vậy
chưa bao giờ t́m cách chiếm lại Hoàng Sa. Nước
này c̣n bị thua trong một cuộc hải chiến vào
những năm 1980 khi Trung Quốc tấn công ba đảo
đá san hô do Việt Nam kiểm soát thuộc quần
đảo Trường Sa. Trong các cuộc giao tranh kể trên và trong các hành
động gần đây, Bắc Kinh đă lặp
lại các chiến thuật nó đă sử dụng vào
năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa. Thứ
nhất, cho các tàu đánh cá thâm nhập vùng tranh
chấp, trong đó có cả các tàu đánh cá của
lực lượng dân quân biển, để xua đuổi
lực lượng bên kia. Các tàu của lực lượng
Hải cảnh Trung Quốc được triển khai
gần đó nhằm hỗ trợ các tàu đánh cá
nếu cần, c̣n xa hơn là các nhóm tàu hải quân
để hỗ trợ các tàu Hải cảnh. Cả
lực lượng hải cảnh lẫn các đơn
vị hải quân đều không bắn trước,
nhưng nếu chiến sự xảy ra, họ sẽ
phải chiến thắng. Trung Quốc cũng thiết
lập một sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm và
đồn trú quân trên một số đảo san hô mà
họ chiếm được gần đây tại Trường
Sa. Việt Nam cũng đáp lại bằng cách vũ
trang cho các tàu đánh cá của ḿnh và thiết lập
quan hệ đối tác quân sự với Ấn Độ
và Nhật Bản, đồng thời t́m cách hợp tác
quân sự với cựu thù Hoa Kỳ. Với 5 bên cùng
tuyên bố chủ quyền chống lại Trung
Quốc, Biển Đông đă trở thành một “điểm
nóng” và kích thích một cuộc chạy đua vũ
trang khu vực mà có người lo ngại sẽ châm ng̣i
cho một cuộc chiến tranh mới. ---- (*) Carl O. Schuster là một sĩ quan Hải quân
đă nghỉ hưu sau 25 năm công tác, với
những năm cuối cùng phục vụ trong ngành t́nh
báo quân sự. Hiện sống ở Honolulu, Schuster tham
gia giảng dạy chương tŕnh Ngoại giao và Khoa
học Quân sự tại Hawaii Pacific University. --- * Nguồn: Carl O. Schuster, “Battle for Paracel
Islands”, Historynet, 06/2017. Biên dịch: Lê Đỗ Huy |
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp * Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/.../boi-canh-va-dien-bien-hai.../ https://lylang.blogspot.com/2022/01/hai-chien-hoang-sa-1974-qua-bai-phan.html
|