Hồi Kư: HẢI ĐẢO TRƯỜNG-SA Đoàn Xuyên Sơn |
A. HẮC-QUY 3 (HQ-3): Hôm ấy là
một ngày đáng ghi- nhớ, ngày ngưng- chiến,ngày
chào-mừng Hiệp-Định Paris, ngày 27 tháng 1 năm
1973. Tôi là sĩ- quan trực của chiến- hạm,
đại-diện cho Hạm-Trưởng để
xử-lư những việc thường-vụ khi tàu
nằm bến. Tàu đang nằm tại cầu B, trước
cửa trại Bạch-Đằng 2. HQ-3,Tuần-Dương-
Hạm Trần-Nhật-Duật. Thủy-thủ đoàn
gồm 30 sĩ-quan, 200 hạ-sĩ-quan và đoàn-viên.
Hạm-Trưởng là Hải- Quân Trung- Tá
Nguyễn-Kim-Triệu. Để chào-mừng Hiệp-Định
Paris, sau lễ thượng-kỳ lúc 8 giờ, mỗi
chiến-hạm được lệnh kéo lên ba hồi
c̣i dài. Từng hồi c̣i nối tiếp nhau rền-rĩ
cả một góc trời, từ Tân-Cảng ra
Thủ-Thiêm, rồi Kho- Năm, Nhà-Bè. Mỗi hồi c̣i
có một âm-sắc khác-biệt, tạo thành một âm-hưởng
vui, buồn lẫn lộn. Có những hồi c̣i nghe
rộn-ră, có những hồi c̣i nghe vui-tươi, có
những hồi c̣i nghe ảm-đạm. Những
hồi c̣i rền-rĩ đó đă thúc đẩy
khiến cho bến Bạch-Đằng
rộn-rịp,tấp-nập khác thường.
Đường phố, ghế đá, gốc dừa, băi
đậu xe đầy nghẹt thân-nhân và gia-đ́nh
thủy-thủ của nhiều tàu được
về nằm bến cùng một lúc. Tôi lên đài chỉ-huy để
quan-sát t́nh-h́nh. Cảm-hứng trước không-khí
nhộn-nhịp đó, tôi cho ban Giám-Lộ kéo lên
một dây cờ bốn lá mang tên của chiến-
hạm. Bốn lá cờ màu sắc sặc-sỡ tung bay
trong gió. Đó là tên của HQ-3 được
đăng-kư trong sổ Bộ-Đời của
khối NATO. Mỗi chiến-hạm là một đơn-vị
của thế-giới tự-do, có danh-hiệu riêng
để cho bạn Đồng-Minh nhận biết. Hai lá cờ phía trên là tên chung cho VNCH, quốc-tịch.
Hai lá cờ dưới là tên của đơn-vị,
HQ-3. Hôm nay, trên bến, người
nhộn-nhịp rộn-ràng. Những tà áo dài tha-thướt
muôn-màu, chen lẫn những tiếng cười đùa
rộn-ră của trẻ thơ.Tiếng radio vang lên
những bản nhạc vui của ngày tàn cuộc
chiến "Tiếng ... chim hót vang
lừng Tiếng... ca múa tưng-bừng Ngày
chinh-chiến ... tan rồi Nắng reo ... khắp nơi".
Trên tàu, người chộn-rộn, háo-hức, không ai
muốn làm việc lúc này. Từng nhóm tụ ba, tụ
năm bàn- bạc, nghe-ngóng, sẵn-sàng để Zulu
(dọt). Đời
thủy-thủ không được nhiều th́-giờ
cho gia-đ́nh, cho hạnh-phúc riêng tư. Tàu
lớn cỡ HQ-3 này, thường ra đi vài ba tháng
mới trở về bến cũ! Vài ba tháng không
tin-tức, không thơ- từ, không h́nh-ảnh là
một khoảng thời-gian dài biền-biệt cho gia-
đ́nh, cho vợ con, cho đời người, cho
chinh-phụ, cho chinh-phu ... Trải vách quế, gió vàng
hiu-hắt Mảnh nhung-y lạnh ngắt như đồng
Rồi khi tàu về bến cũng không được
thong-thả, tự-do nhiều.Phải làm việc như
một đơn-vị tại bờ từ 8 sáng
tới 5 giờ chiều. Ban đêm cũng không
được ngủ nhà trọn vẹn, phải
trực tả, hữu. Một đêm trực phải
ngủ tại tàu, một đêm được ngủ
tại nhà. Những ràng-buộc khó-khăn đó phát
xuất từ lư-do an-ninh hay lư- do ǵ đó ... Mig 21
của Bắc-Việt có thể vào đây oanh-tạc
bất cứ lúc nào! Tàu phải rời bến kịp
thời, phải di-chuyển sẵn-sàng để
bắn hạ những chàng phi- công làm chính-trị khi
họ oanh-tạc dinh Độc-Lập như bài
học của Nguyễn-văn-Cử, Phạm-phú-Quốc
trước đây. những lư-do mơ- hồ đó
đă đè nặng lên hạnh-phúc của người
thủy-thủ. Tôi thông-cảm những nỗi
niềm đó! Tôi muốn cho họ tận-hưởng
hạnh-phúc gia-đ́nh trong những ngày
ngắn-ngủi mà tàu được về nằm
bến. Nhưng cũng phải có giới-hạn v́ tôi
cũng cần có người để làm tṛn
nhiệm-vụ sĩ-quan trực. Nhiệm-vụ này
đối với tôi cũng không khó-khăn lắm.Tôi
đă từng nắm tàu nhỏ trước khi đổi
về đây. Tôi có thể điều-động con tàu
đồ-sộ này ra đi với số người ṇng-cốt
tối-thiểu. HQ-3 là một chiến-hạm có 7
tầng, dài 330 feet, đài chỉ-huy cao hơn những
đọt dừa trên bến Bạch-Đằng, có
cả ngàn pḥng lớn nhỏ mà những ngày đầu
về đây tôi thường đi lạc. Nó to
lớn đồ-sộ như một cao-ốc. Muốn
vận-chuyển con tàu này trong sông Saigon không phải là
một chuyện dễ-dàng. Tôi cũng không ngán
những chàng phi-công làm chánh-trị. Tàu có đủ
thứ đại-bác pḥng không. Đại-bác 20 ly
loại mới có thể bắn hàng trăm phát một
phút. Đạn sẽ nổ khi đến tầm 3,600
yard, tạo thành một màng lưới dày đặc
miểng đạn gọi là lưới lửa. Đó
là nguyên- tắc của pḥng- không. Bắn không cần
nhắm, bắn để tạo thành lưới
lửa. Như dùng lưới để bắt cá. Lưới
lửa sẽ bắt máy bay. Hạm-trưởng, Hạm- phó
chưa có mặt. Có công-tác ǵ đó, hoặc là
lặn. Hạm-trưởng đang là một người
đau-khổ v́ bệnh trĩ. Đó là bệnh
của Hải-Quân sau những tháng ngày lênh-đênh
thiếu điều-kiện ăn rau cải, ăn
chất xanh để giúp nhuận-trường. Đi công-tác,
ông thủ theo cả chục hộp Preparation H. Về
bến, ông phải lui tới bệnh-xá. Hạm-phó,
Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn-hoài- Bích cũng đang
bệnh-hoạn. Cũng là bệnh của Hải-Quân.
Ông đă nhận ch́m một chiếc tàu buôn lớn do
chính ông làm Thuyền-Trưởng. Cách đây không lâu,
ông là sĩ-quan ưu-tú của khóa 11 được
tuyển về lái tàu buôn. Đời ông lên hương.
Lái tàu buôn nhàn-hạ. Đi vài ba ngày là vào bến.
Lại có tiền c̣m rủng-rỉnh. Nhưng chẳng
được bao lâu,tàu ông leo lên đá, leo lên
cục đá ngầm ở ngoài khơi Phan-Thiết. Tàu
ch́m-lĩm. Thầy tṛ lội lóp-ngóp, được
ghe đánh cá vớt lên. Đi xe đ̣ về Saigon tŕnh-diện.
Cục đá này nhỏ xíu nằm giữa trời nước
bao-la. Ai chán đời muốn t́m nó leo lên cũng là
chuyện khó. Thế mà tàu ông đă đụng vào nó.
Định-mệnh xui-xẻo khiến ông mất
hết tin cậy, bị trả về Hải-Quân,
phải làm Phó nhiều năm. Ông không được
vui trong số -mệnh của ḿnh nên bất cần
đời. Ông thường uỷ-thác mọi chuyện
cho sĩ-quan trực khi tàu nằm bến. Làm sao để
Hạm-Đội đừng khiển-trách là được
rồi. Tôi nắm vững những yếu-tố đó
nên tôi thường dễ-dăi với nhân- viên của tàu
trong những ngày trực. Tôi cho đọc lệnh trên máy
phóng- thanh truyền đi khắp tàu: -Lệnh của Sĩ-Quan
Trực: Phân đội không trực được
đi đến 8 giờ sáng hôm sau. Ai cần giấy
phép th́ đến pḥng Nội-Vụ. Phân đội
trực chờ lệnh mới lúc 11 giờ. Trong trường-hợp
khẩn-cấp, ai muốn đi phải có người
thay-thế. Họ túa đi như một
đoàn cua-rơ sau hồi súng lệnh. Tiếng xe
gắn máy nổ rền trời ḥa lẫn tiếng kêu
ḥ la-hét. Rồi ngay sau đoàn cua-rơ vừa mới
khởi đi là toán lội bộ lên đường.
Đây là người của phân-đội trực tháp-tùng
theo một cách không chính-thức. Họ đi ăn
phở, uống cà-phê, rửa con mắt rồi sẽ
trở về tàu chờ lệnh mới. Trường-hợp
khẩn cũng có. Hạ-sĩ Đạt lấp-ló
ở cầu thang, bước lên chào kính, miệng
nở nụ cười cầu-tài: -Trung-úy, em kẹt quá ...Con đào
của em ở Nha-Trang mới vào hôm qua. -Anh không
được đi. Tôi lạnh-lùng: -Có chuyện ǵ
ai quay tay lái con tàu này. Muốn đi phải có người
thay-thế. - Có rồi Trung-Úy. Thằng Sơn nó
thế em. Thủy-thủ Sơn từ phía sau bước
lên, mặt tiu-nghỉu: - Em cũng có nhiều mối
lắm, nhưng chỗ bạn bè phải gồng cho nó.
-Phải làm ăn đàng- hoàng. Lôi thôi tôi nhốt
cả hai đứa. -Tụi này điệu-nghệ mà
Trung-Úy. Hạ-sĩ Đạt cười
rạng-rỡ lui ra. Hai thằng này tôi coi như em
ruột của tôi. Cả hai đều có Tú-Tài I, là
những nhân-viên xuất-sắc. Nếu chịu đi
Thủ-Đức th́ đường binh-nghiệp
sẽ sáng-sủa hơn. Tôi châm một điếu
thuốc lá, nh́n theo làn khói, nh́n xuống những tà áo
màu trên đường phố, nghĩ đến thân-phận
của ḿnh. Sẽ làm ǵ trong t́nh thế này của
đất nước, chiến-tranh đă thực
sự chấm-dứt hay chưa? Một cuộc ngưng
bắn Da Beo như thế nào? Quốc-sách "4 không"
ra sao?! Không sợ CS, không phục CS, không tin CS, không
sống chung với CS. Quốc-Gia và Cộng-Sản không
thể sống cùng một nơi, không thể sống
chung trong một xă, không thể sống chung trong một
huyện, không thể sống chung trong một tỉnh.
Vậy th́ sống ở đâu khi giải-ngũ?!
Sống ở đâu khi mà nơi nào cũng có CS, nơi
nào cũng có Quốc-Gia? Cuộc sống như vậy
sẽ không có an-cư lạc-nghiệp! Cuộc ngưng
chiến này đầy mâu- thuẫn. Dường như
chỉ là tạm-bợ. Người Mỹ và các
bạn Đồng-Minh đang rút đi. Trong tương-lai,
miền Nam có đủ sức tự-túc tự-cường
để đối đầu với CS hay không? Con tàu HQ-3 này lấy đầy
dầu là 250 ngàn ga-lông.Mỗi viên đạn 5 inches
trị-giá mấy chục đô-la, bằng lương
tháng của một người. Gần đây, chính-phủ
nói nhiều đến kinh-tế hậu-chiến. Tiêu-điểm
chính là dầu-hỏa. Phải có nhiều
dầu-hỏa như Nam-Dương. Công tác của các
chiến-hạm trong những ngày sắp tới là công-tác
dầu-hỏa. * * *
B- ĐƯỜNG RA
ĐẢO NAMYIT: Chẳng bao lâu sau ngày ngưng-chiến,
HQ-3 khởi-hành đi Trường-Sa trong công-tác
dầu-hỏa. ra khỏi Vũng-Tàu, chúng tôi theo hướng
Đông trực chỉ, hướng về hải-đảo
Trường-Sa. Đây là một ḥn đảo nhỏ
tí-teo nằm giữa trời nước bao-la gần
đảo Palawan của Phi-Luật-Tân. Trường-Sa
nằm ở phía Đông của Vũng-Tàu khoảng 800
cây-số,gần đảo Palawan của Phi hơn,
khoảng 400 cây-số. Vùng biển từ Trường-Sa
vào Palawan chạy dọc xuống đến đảo
Brunei của Mă-Lai là một vùng mênh-mông có rất
nhiều đá ngầm, ít người qua lại. Vùng
biển đó được gọi là quần-đảo
Trường-Sa (Spratly Island). Đá ngầm là phần
đỉnh núi, phần trên cao nhất của núi ch́m dưới
nước. Chân núi th́ ở dưới sâu một hai
ngàn thước, c̣n đỉnh núi th́ ở gần
mặt nước. Nhiều đỉnh núi của
những núi ch́m này rất nhỏ, vài chục cây-
số vuông, ở lấp-xấp mặt nước,
gọi là Rạng (reef), rất nguy hại cho tàu bè.
nhiều tàu buôn đă vướng lên rạng. Thân tàu
bể nát, chỉ c̣n được phần nổi phía
trên. Hư hại quá nặng không c̣n có thể
sửa-chữa hoặc kéo đi được nữa,
trở thành những xác tàu nằm trơ cùng
tuế-nguyệt, giữa trời nước bao- la.
Quần-đảo Trường-Sa có rất nhiều xác
tàu buôn. Nhiều chiếc lớn hơn những
chiếc tàu Trường-Thành, Trường-Hải, Trường-Xuân
của Vishipcoline. Cũng có những núi ch́m mà
phần đỉnh núi rất lớn, vài trăm cây-số
vuông, cỡ diện-tích của một tỉnh, ở dưới
mặt nước chín mười thước.
Những chỗ đó được gọi là Băn
(Bank). Băng khác với Rạng là có những chỗ
nổi cao hơn mặt nước, nh́n thấy
được, gọi là Đảo hay Ḥn (Island). Ḥn
th́ đúng hơn v́ nó thường nhỏ và thấp.
Một trong những Băng lớn của quần-đảo
Trường-Sa là Tizard, rộng khoảng 30 cây-số, dài
khoảng 60 cây-số và ở dưới mặt nước
khoảng 10 thước. Có hai cao điểm: Phía
Bắc là ḥn Itu Aba, cao hơn mặt nước vài
chục thước, rộng vài chục cây-số vuông,
có cây cối rậm-rạp. Người Phi đă có
mặt ở đây từ lâu. Phía Nam cách Itu Aba 30 cây-số
là ḥn Namyit. Ḥn này thấp hơn, chỉ cao hơn
mặt nước vài thước và nhỏ, chỉ
đủ để lập nên một thôn xóm vài
chục nóc gia. Người Việt mới đặt chân
đến đây vài năm trên đường đi t́m
dầu-hỏa và đặt tên nó là hải- đảo
Trường-Sa. Từ Vũng-Tàu ra khơi
khoảng 40 cây-số, đáy biển sâu dần đến
4 ngàn thước, kéo dài khoảng 100 cây-số,
rồi đáy biển cạn dần khi gần đến
Trường-Sa. Theo quyền-lợi về thềm
lục-địa th́ từ chỗ sâu nhất này
trở về VN là quyền-lợi của VN. Từ
chỗ sâu nhất này đến đảo Itu Aba và Trường-Sa
là của Phi. Nhưng người Phi không phản-đối
khi VN đổ-bộ lên Namyit. Nước Phi có hàng ngàn
đảo lớn nhỏ. Từ đảo lớn là
Palawan ra tới Itu Aba và Trường-Sa hơn 400 cây-số.
Khoảng giữa đó c̣n có hàng trăm đảo khác.
Thế có lẽ từ lâu họ đă chọn Itu Aba là
biên-giới xa vời nhất về phía Tây. Itu Aba là
một tiền-đồn biên-giới của họ. VN
đến mở tiền-đồn biên-giới của
ḿnh tại Namyit ngay cạnh họ cũng là điều
hợp-lư. * * * Gần 6 giờ chiều th́ HQ-3 đi ngang cù-lao Thu. Đây là một đảo lớn cách Vũng-Tàu 200 cây-số về phía Đông, cách mũi Dinh của tỉnh Ninh-Thuận (Phan-Rang) 70 cây-số về phía Nam. Đảo này c̣n có tên là đảo Phú-Quư, có dân số độ 3 ngàn người, đa số là hậu-duệ của những tùy-tùng theo vua Gia-Long trong thời- kỳ tẩu- quốc. Nhiều tàu tiếp-tế cho giàn khoan Bạch-Hổ và nhiều tàu thăm ḍ dầu-hỏa thường ghé vào đây. Nếu vùng này có mỏ dầu lớn th́ chẳng bao lâu đảo này sẽ trở thành phú-quí thật sự như cái tên của nó. Tôi lên đài chỉ-huy để định vị-trí
của tàu lúc 18 giờ trước khi trời tối.
Tôi là sĩ- quan hải-hành có nhiệm-vụ định
vị-trí để từ đó vẽ ra hải-đồ
hướng đi đến Trường-Sa. Tôi dùng
la-bàn điện đo hướng của cù-lao Thu và
hai ḥn nhỏ. Trên hải-đồ, từ ba điểm
mà tôi đă đo, tôi vẽ ra ba đường
thẳng theo những con số mà tôi đo được.
Giao điểm cây-số, chỗ sâu nhất của
thềm lục-địa Việt-Phi. Nơi đây có
một ḍng nước mạnh thường đẩy
tàu trôi dạt đi vài ba chục cây-số trong
một đêm. Phải chờ đến tờ-mờ sáng
hôm sau mới có thể đo những v́ sao trên
trời, t́m lại vị-trí chính-xác của ḿnh. Cách
này gọi là Hàng-Hải Thiên-Văn. Trái đất th́
xoay tṛn, sao trời th́ đứng yên. Người ta
thấy sao mọc ở phương Đông rồi
lặn ở phương Tây, cho nên vào một giờ nào
đó, một v́ sao đang đi ngang nơi đâu,
đi ngang kinh-tuyến nào, kinh-tuyến ấy mấy
độ đă được khoa Thiên-Văn tính
sẵn. Sao trở thành điểm chuẩn, để
từ đó định vị-trí cho tàu. Đo sao là
đo độ của góc từ đường chân
trời lên đến v́ sao. Biết được góc
đó, sẽ suy ra được kinh-tuyến mấy
độ, của chỗ ḿnh đang đứng.
Dụng-cụ để đo rất giản-dị, có
tên là Sextan, gồm một ống ngắm, bắt trên
một ṿng chia độ và một bộ phận điều-chỉnh
theo giờ quốc-tế được phát đi
từ đài thiên- văn ở Greenwich của nước
Anh. Đồng hồ này thường được
để yên một chỗ cho khỏi bị sóng gió làm
đổ bể. Do đó, có thêm một đồng hồ nhỏ
chỉ phút, giống như đồng hồ của dân
chơi thể-thao, có thể đeo trên ngực cho
tiện-lợi. Gần đến lúc đo th́ bấm
cho đồng hồ nhỏ chạy theo giờ nào đó
của đồng hồ lớn. Sau khi đo th́
cộng thời-gian sai-biệt vào, sẽ được
giờ chính-xác lúc đo sao.Hàng-Hải Thiên-Văn
đă có từ lâu đời, rất hữu-hiệu
cho người đi biển. Nó đang được
thay-thế dần bằng khoa-học mới là
LORAN,chữ viết tắt của Long Range Navigation. Khoa này
dùng sóng điện từ phát đi tín-hiệu như
đài phát-thanh, giúp cho tàu bè đi xa bờ t́m
được vị- trí bất cứ lúc nào và trong
mọi thời-tiết. Muốn đo được
một v́ sao th́ phải vừa nh́n thấy sao, vừa
nh́n thấy rơ đường chân trời. Ban đêm
nh́n thấy sao rất rơ, nhưng không nh́n thấy
được đường chân trời. Ban ngày th́
ngược lại, cho nên chỉ đo được
sao lúc b́nh-minh và hoàng-hôn. Sau khi định vị-trí lúc
18 giờ, tôi gọi thượng-sĩ Tấn lên
phụ giúp để định vị-trí của tàu lúc
hoàng-hôn bằng thiên-văn. Dợt lại nghề và
saün-sàng để định vị-trí lúc b́nh-minh hôm
sau.Sáng hôm sau phải có vị-trí chính-xác.
Chắc-chắn tàu sẽ bị đẩy dạt đi
rất nhiều, cách rất xa vị-trí phỏng-định.
Thượng-sĩ Tấn sống lâu trong nghề đă
chuẩn bị sẵn- sàng phần hành của ông
ấy. Nghề đo sao trời này trật một ly
sẽ đi một dặm.Quay trật một ly trên ṿng
điều-chỉnh độ cao, sẽ trật đi
một dặm trên biển. Trật đi một phút
trong giờ đo, cũng trật đi một dặm trên
biển. - Chuyến đi này hơi ưu-tư
hả trung-uư? - Ơ, tôi mới đi lần đầu.
Ông ra đây lần nào chưa? - Chưa! Thượng-sĩ
Tấn lắc đầu nói tiếp: - Tôi phụ tá cho
trung-uư Tuấn lănh tàu này về từ bên Mỹ. Đă
đi khắp trời, nhưng chưa vùng nào thiếu tài-liệu
như vùng này. Nhiều sĩ-quan trẻ không bận
đi ca cũng lên dợt nghề đo sao. Trung-uư Màng thắc-mắc: - Ông
Sơn, những hải-đồ vùng này đều
bị đóng dấu hủy-bỏ (cancelled), Ông coi có xài
được không? - Cũng hơi kỳ, trung-uư
Triết góp-ư. - Chắc là lư-do chính-trị.
HQ-2 đang nằm trong đó. Khuya nay lên ca tôi sẽ
gọi hỏi họ xem t́nh- h́nh ra sao? Thượng-sĩ Tấn phân-trần:
- Tôi lên Bộ Tư-Lệnh lănh hải-đồ nghe nói
cố-vấn Mỹ không muốn ḿnh đến Trường-Sa,
nên tất cả hải-đồ vùng này đều
bị đóng dấu hủy bỏ. Thiếu-uư Phổ chen vào: -
Kế-hoạch dầu-hỏa có vẻ xa-vời. Đức
Phật có nói:"đắc thất tùy duyên, tâm vô tâm
vấn". Có nghĩa là chuyện ḿnh muốn làm, thành-công
hay thất-bại đă là một sự sắp-xếp
saün của trời đất.Tin hay không tin th́ nó cũng
xảy ra theo ư trời.Thiếu-uư Phổ là dân làng
Tri-Thủy, cùng quê với Tổng-Thống Thiệu, anh
ta học được ở đâu nghề xem
tử-vi rất cao, người trên tàu thường
gọi anh ta là thầy Phổ. Trung-uư Màng, Trung-uư
Triết là tài nguyên của khóa 20 bị tổng-động-viên
sau Tết Mậu-Thân. Lúc đó trường Nha-Trang không
đủ chỗ nên Hải-Quân gửi người
đi học khắp nơi, đi Mỹ, đi Úc, đi
Thủ-Đức. Nhận định của họ
trong sáng hơn các đàn anh. Người Mỹ rút
đi để lại nhiều khó-khăn. Tài-liệu
không được nhật-tu. - Cuốn sách cần-thiết
cho Hàng-Hải Thiên-Văn là Niên-Lịch Hàng-Hải
giờ này chưa thấy gửi đến.
Tiếp-liệu dầu nhớt, đạn-dược
rồi đây chắc cũng sẽ khan-hiếm dần. - Quư-vị nói đúng. Tôi góp-ư:
- Nhiều chuyện đă xảy ra làm ngạc-nhiên
mọi người. Nhưng chuyện hải-hành
của tụi ḿnh th́ không có ǵ đáng lo. Nếu tàu
leo lên đá không có ghi trong hải-đồ th́ không
phải lỗi tại ḿnh. Chúng ta sẽ về Duyên-đoàn,
Giang-đoàn, thú-vị hơn và có vẻ lợi-ích hơn. Trung-uư Màng đồng-t́nh: -
Đúng vậy, tôi đă ở 62 Tuần-thám hai năm,
đánh đấm tưng-bừng. Nguy-hiểm hơn nhưng
vui hơn ở đây. * * * 9 giờ tối tôi trở lên
đài chỉ-huy. HQ-3 sắp đi đến con
đường hàng-hải quốc-tế Singapore-
Hongkong. Đây là đường hàng-hải
quốc-tế nối liền Âu-châu và Viễn-đông-
Tàu từ Âu-châu vào Ấn-Độ Dương, theo
đường Malacca giữa Mă-lai và Nam-dương
để đến Singapore, rồi theo đường
này đến các nước Viễn-đông. Chỗ
gần bờ Việt-nam nhất là mũi Dinh, cách xa
khoảng 70 hải-lư (170 cây-số). Tàu bè qua lại
tấp-nập, đủ mọi quốc-tịch.
Rất nhiều tàu của các xứ Bắc-âu mang
nặng ḍng máu của Viking, tàu của Ư, tàu của
Mỹ, tàu của Panama, tàu của Nhật. Thương-thuyền
của Nhật đă phát-triển rất mạnh-
Nhiều tàu buôn của Nhật đi đến xứ
này chở hàng mướn cho xứ khác, cứ như
thế đi khắp thế-giới, ít có dịp
trở về nước. Ban đêm đi qua đường
này sẽ thấy tàu bè như hội hoa-đăng,
nhiều tàu to lớn, đèn đuốc sáng rực như
một thành-phố nổi. Tôi lên đây vừa ngắm tàu
buôn vừa xem thời-tiết. Nơi đây đáy
biển đă tụt sâu đến độ 1,500 thước.
Tôi nghe như có một sức-mạnh nào đó
của ḍng nước đẩy vào thân tàu, một
sức-mạnh rất mơ-hồ chỉ cảm
nhận được bằng trực-giác- Tàu đang
bị ḍng nước đẩy lệch ra khỏi hướng
đi mong-muốn. Bầu trời th́ trong xanh, không
một gợn mây,đang được thắp sáng
bằng những v́ sao. Kia là sao Bắc-đẩu so
với chân trời bằng vĩ-độ của nơi
ḿnh đang đứng. Nơi đây có vĩ-độ
khoảng 10 độ Bắc nên thấy sao Bắc-đẩu
rất thấp. Nếu đi về xích-đạo vĩ-độ
Zéro th́ sẽ không nh́n thấy sao này nữa. Những cḥm sao Hiệp-sĩ,
Song-nam, Hải-sư đang ngả về Tây - Những
cḥm sao Hổ-cáp, Nhân- mă, Nam-dương đang mọc
lên. Hai mươi hai giờ, tôi vào mở máy Loran - Tôi
sẽ định vị-trí của tàu lúc này, 23
giờ và nửa đêm để xem tàu bị dạt
nhiều hay ít. Trên đất Phi, quốc-tế
thiết-lập ra nhiều đài phát tín-hiệu cho
Loran. Đài nào ở gần tín-hiệu sẽ đến
sau. Người ta đă áp-dụng định-lư
của h́nh-học lớp mười là " Quỹ-tích
của những điểm mà hiệu-số khoảng-cách
đến hai tiêu-điểm F1 và F2 không thay-đổi
là một đường Hypebol ".
MF1-MF2=C.Vận-tốc của tín-hiệu là
vận-tốc của âm-thanh. Cho nên hiệu-số
khoảng-cách của một tàu đến hai đài
bằng hiệu-số thời-gian đến trước
và sau của tín-hiệu. MF1=VT1, MF2=VT2, MF1-MF2=V (T1-T2). Máy
thu Loran sẽ cho hiệu-số thời-gian đó. Trên
hải-đồ những đường cong Hypebol,
T1-T2=C đă được vẽ saün bằng những
đường rất lợt-lạt ít có người
nhận biết. Cho đến lúc này, Loran chưa
được nhiều người sử-dụng. Lư-do
thứ nhất là tàu thường đi gần bờ.
Lư-do thứ hai là những người có nhiều
kinh-nghiệm trong hàng-hải thiên-văn họ thấy
không cần-thiết và không tin-tưởng ở Loran.
Lư-do thứ ba là máy thu Loran c̣n rất thô-sơ và
rất khó sử-dụng. Bởi máy lên sẽ thấy
những dao-động h́nh Sin nhảy múa lung-tung cũng
như màn ảnh của máy giao-động kư âm-cực.
Mỗi đài cho một tín-hiệu h́nh Sin. Người
sử dụng phải quay một nút điều-chỉnh
để chồng nhập hai tín-hiệu đó vào
nhau.Một hàng số hiệu-số thời-gian sẽ
nhảy liên-tục tùy theo vị-thế chồng
nhập của hai tín-hiệu. Phải tập dượt
nhiều khi có sẵn vị-trí chính-xác để
so-sánh th́ mới có kinh-nghiệm số nào là số
đúng. Đó là khuyết-điểm của những
máy thu cũ. Sau này người ta chế ra được
bộ-phận điều-chỉnh tự-động.
Tại mỗi vị-trí của tàu, máy sẽ cho ngay con
số chính-xác. Nhờ đó định ngay được
vị-trí trong vài phút và mọi thời-tiết. Máy thu
của HQ-3 thuộc loại cũ. Tôi phải tập dượt
nhiều trong lúc tàu đi tuần-dương, lúc đi
gần bờ, lúc nào cũng có vị-trí chính-xác để
so-sánh nên cũng rút -tỉa được nhiều
kinh-nghiệm. Vị-trí lúc 24 giờ cho
thấy tàu đă bị dạt về phía Nam rất xa,
cách ví-trí mong-muốn gần 5 hải-lư. Ḍng nước
ở đây rất mạnh chảy xiết như
những ḍng nước trong sông, đẩy tàu trôi
dạt đi phăng-phăng - Đi ngang đây một
đêm, tàu có thể bị đẩy lệch đi vài
chục hải-lư, gặp thời-tiết xấu th́ càng
tệ-hại hơn. Sáng hôm sau không đo được
sao để t́m lại vị-trí chính-xác th́ coi như
không biết ḿnh đang ở đâu. Đó là lư-do
nhiều tàu buôn đă leo lên đá khi chưa có Loran.
Sau khi kiểm-soát lại nhiều lần, tôi gọi
điện-thoại xuống pḥng Hạm-trưởng
xin sửa lại hướng đi. Đi chếch
về hướng Bắc để bù-trừ độ
dạt. Tàu đổi qua theo hướng 080 độ
thay v́ 090. Lờ-mờ sáng hôm sau, chúng tôi
đă sẵn-sàng để đo sao. Tôi đă chọn
sẳn ba v́ sao để đo. V́ sao Vega của cḥm sao
Cung-đàn(Lyra), sao Deneb của cḥm Thiên-nga (Cygnus) và sao
Altair của cḥm Aquila. Muốn đo cho thật chính-xác
th́ phải đo lúc vầng hồng vừa mới ló lên
để nh́n thấy thật rơ đường chân
trời. Lúc đó ánh-sáng đă làm mờ đi không c̣n
nh́n thấy được các sao mờ, không c̣n
nhận-định được h́nh-dáng các cḥm sao,
mà chỉ c̣n nh́n thấy được các v́ sao sáng
nhất c̣n lại đơn-độc và bé tí- teo trên
nền trời xanh-biếc, bao-la. Phải đo thật
nhanh và thật nhuyễn. Trễ năm, bẩy phút là
trời sáng rực không c̣n nh́n thấy ngôi sao nào
nữa. -Thượng-sĩ Tấn, sao
Vega - Sẵn sàng? - Sẵn sàng. - Stop. - 15
phút 29 giây. Thượng-sĩ Tấn đọc đồng
hồ và ghi giờ. - Cao độ 37 độ 14 phút
chấm 3. Thượng-sĩ Tấn vừa lập
lại vừa ghi cao độ mà tôi vừa đo. -
Tiếp-tục, sao Deneb, sẵn-sàng? - Sẵn-sàng. - Stop. Theo cách đó, chúng tôi
đo xong ba v́ sao trong ṿng vài phút. Thượng-sĩ
Tấn ôm những dữ-kiện đó đi vào pḥng
Trung-tâm Chiến-báo để tính-toán và sẽ cho ra
vị-trí của tàu lên phóng-đồ. Tất cả tài-
liệu, bài-vở đều bằng tiếng Mỹ. Sĩ-quan
có nhiệm-vụ đo, cung-cấp dữ-kiện Thượng-sĩ
có nhiệm-vụ tính- toán và vẽ. Dường như
đây là một cách để nắm chắc rằng
sĩ-quan không cung-cấp những dữ-kiện sai. Tôi
vào pḥng Loran để lấy thêm hai đường
vị-trí bằng Loran. Tôi ghi ra hai con số và
đưa cho thượng-sĩ Tấn. Tí nữa đây
ông sẽ vẽ hai đường vị-trí này lên phóng-đồ
cùng với ba đường vị-trí lấy
được từ ba v́ sao kia. Giao-điểm của
những đường này là vị-trí của tàu. Tôi trở ra đài chỉ-huy
gặp đại-uư Đào đang đi ca. Sáng nay
trời đẹp. Mặt trời lên tỏ rạng. Gió
thổi nhẹ. Nhiều đàn chim biển bay lượn
trước mũi tàu. Biển êm, gợn sóng lăn-tăn,
màu nước xanh thẩm, xanh đen như màu mực,
v́ đáy biển c̣n quá sâu, khoảng hai ngàn thước.
Đại-uư Đào mời tôi điếu thuốc: - Sao? Bận rộn dữ
hả, tàu bị dạt nhiều không? - Chưa
biết, ông Tấn đang vẽ. - HQ-2 cho biết
họ đă rời đảo hồi 5 giờ.
Đường đi không có ǵ trở-ngại. Thượng-sĩ
Tấn đă vẽ xong, gọi ra. Đại-uư Đào
và trung-uư Sang theo tôi vào xem vị-trí. Trên phóng-đồ
ba đường vị-trí từ ba v́ sao và hai
đường Loran cắt nhau tại một điểm
rất nhỏ. Đại-uư Đào hỏi
đùa: - Ông Tấn, ông có vẽ ăn gian không mà
mấy đường này gặp nhau tại một
điểm như vậy? Phải giao nhau thành những
h́nh tam-giác nhỏ hay lớn chớ? Thượng-sĩ Tấn
mỉm cười: - Ông Sơn mới vô nghề nhưng
đă đo sao rất nhuyễn, không thua ǵ trung-uư
Tuấn trước đây. Trung-uư Sơn
phụ-họa: - Nghề này có vẻ thú-vị. Tôi là
dân Vơ-bị Đà-lạt, xuống tàu lại kẹt
lo chuyện tiếp-liệu, lương- bổng, hôm nào
phải dợt nghề đo sao mới được. Vị-trí này rất gần
với vị-trí tôi đă phỏng-định nhờ
đă điều-chỉnh độ dạt hồi
khuya. Tôi báo-cáo cho Hạm-trưởng biết và cho tàu
trở lại hướng cũ 090 độ để
tiến vào khoảng giữa của hai đảo Itu Aba
và Trường-Sa. Bỗng nghe trung-sĩ Thảo
phụ-trách Radar báo-cáo: - Báo-cáo có Echo cho hướng
12 giờ, khoảng cách 35 hải-lư. Đại-uư Đào
quay qua tôi: - Chắc-chắn là HQ-2, tôi sẽ liên-lạc
không có ǵ đáng lo nữa. Quư-vị xuống ăn sáng
đi. Đến 10 giờ sáng th́ HQ-3 đang hướng
thẳng tới Trường-Sa, cách 12 hải-lư, nh́n
thấy được qua ống ḍm một vùng đất
thấp lờ-mờ nằm trên đường chân
trời. Gần đó là vùng nước lặng-yên,phẳng-lỳ
như mặt hồ. Tàu giảm vận-tốc xuống
10 gút, cho người quan-sát trước mũi và
mỡ máy đo chiều sâu liên-tục. Độ sâu
giảm rất nhanh -Từ 1,200 thước, chẳng
mấy chốc giảm xuống c̣n 500, rồi 100,
rồi 10 thước, 8 thước, rồi dừng
lại ở độ sâu 7 thước, 8 thước.
Tàu đang đi trên đỉnh của núi ch́m, trên
Tizard bank. Nước trong leo-lẻo, nh́n thấy đá
dưới đáy,gần như chạm vào đáy tàu.
HQ-3 cứ tiến tới trong t́nh-trạng đó qua
gần 10 hải-lư, cho đến lúc thả neo sát bên
bờ Trường-Sa. C. NIEM HY-VONG: Hải-đảo
Trường-Sa là những băi cát vàng rất thấp, mà
những ngày sóng to gió lớn, nước thủy-
triều có thể tràn ngập cả đảo. Chen
lẩn giữa những băi cát vàng là những cḥm cây
dại, cây nhàu, cây gai, chỉ cao đến đầu
người. Cao nhất là một hàng dừa chín, mười
cây mọc thẳng-tắp thành một hàng theo hướng
Tây-nam, Đông-bắc, từ mé nước vào sâu trong
đảo khoảng 200 thước. Hàng dừa này là
một nét đặc-sắc của Trường-Sa. Một trái dừa khô nào đó,
bị gió băo trôi dạt vào đây. Cây dừa đầu
tiên mọc ngay trên băi cát gần mé nước.
Những trái dừa khô của cây dừa đầu tiên
này sẽ bị gió mùa, gió nồm, gió bấc đẩy
trôi vào biển cả, v́ nó nằm ở một
vị-thế mà những cơn gió b́nh-thường không
thể đẩy được trái dừa khô vào
trong sâu. Những cây dừa kế tiếp chỉ có
thể mọc quanh-quẩn gần cây dừa này,quanh-quẩn
gần mé nước. T́nh-trạng đó không biết
đă xảy ra trong bao nhiêu năm. phải chờ có
một duyên may, một cơn gió của băo tố,
một cơn gió chướng, một cơn gió sai mùa
đến đúng lúc, mới đẩy được
một trái dừa khô vào sâu bên trong vài chục thước.
Đây là cây dừa tiên-phong mọc được trên
đất cao, bên trong những cây dừa khác. Rồi hàng
dừa cũng dừng lại ở đây v́ những
trái dừa khô của cây dừa thứ hai này cũng
bị những cơn gió b́nh- thường đẩy
ngược ra ngoài mé nước. Muốn được
một cây dừa khác vào trong sâu nữa, phải
chờ một duyên may khác. Và cuối cùng, muốn có
được một hàng dừa vào trong sâu hai trăm
thước như nh́n thấy hiện giờ, là do
nhiều duyên khác nữa. Muốn có một hàng dừa
như vậy, không ai biết đă trải qua một
tiến- tŕnh bao lâu. Có thể vài trăm năm, có
thể vài chục năm. Hàng dừa này là h́nh ảnh
của niềm hy-vọng vào dầu-hỏa của
miền Nam. Thế-hệ của chúng ta lấy dầu
ở gần bờ, ở những nơi có độ sâu
vài chục thước. Thế-hệ kế tiếp
sẽ lấy dầu ở độ sâu hơn, vài trăm
thước. Rồi thế-hệ tiếp nối
nữa mới có khả-năng lấy dầu ở
độ sâu vài ngàn thước. Muốn lấy
dầu ở gần Trường-Sa, không ai biết
sẽ vào thế-hệ nào. Giống như hàng dừa
kia, không ai biết phải bao lâu mới có được.
Hiện tại miền Nam đang lấy dầu ở giàn
khoan Bạch-hổ, ở hướng Đông-nam Vũng-tàu,
cách xa 100 cây số, ở độ sâu 40 thước.
Giàn khoan Đại-hùng cũng ở hướng đó,
cách xa bờ hơn 200 cây-số, ở độ sâu 100
thước. Dầu của những giàn khoan này, nghe nói
chưa có hậu-quả kinh-tế. Vài năm trước đây,
người ta nói đến tương-lai sáng-lạn
của dầu-hỏa miền Nam, giống như Nam- dương.
Nhiều công-ty dầu của khắp thế-giới
đến hợp-tác đấu thầu, thăm ḍ. Nhưng
không ai biết v́ lư-do ǵ, những hăng dầu
tuần-tự rút lui. Và giờ đây, theo sự rút
lui của Mỹ, tương-lai dầu-hỏa của
miền Nam chỉ c̣n là mơ-ước. Lư-do an-ninh chăng? Người Mỹ rút lui, không ai đủ sức bảo-vệ các dàn khoan. Lư-do chính-trị chăng? Mỹ chưa cần đến dầu bây giờ. Dầu của VN để dự-trữ cho thế-giới mai sau. Lư-do nội tại chăng? Miền Nam không có nhiều dầu? Hoặc là cơ-quan dầu-khí của miền Nam đă quá chủ-quan, quá cứng rắn trong luật-lệ, đă soạn-thảo ra những hợp-đồng khó-khăn, không tưởng, khiến cho các hăng dầu nản-chí rút lui? Lư-do có thể là tổng-hợp của các lư-do trên. Nhưng chung-qui, miền Nam thiếu may-mắn, đă lỡ mất một dịp để tự-túc, tự-cường. Nam-dương may-mắn hơn nhiều. Nam-dương đă trở thành một nước sản-xuất dầu cho thế-giới. Nam-dương bây giờ như một cô gái trẻ đẹp được mọi người nâng-niu, chiều- chuộng. C̣n miền Nam như một người bệnh hoạn, ốm yếu, ho-hen, nhưng lại nuôi nhiều mộng-tưởng xa- vời. Niềm hy-vọng vào dầu-hỏa của miền Nam rồi đây sẽ trở thành nhỏ bé xa-xôi như hải-đảo Trường- Sa./.
Texas, mùa xuân 1997. ĐOÀN-XUYÊN-SƠN
K18 http://members.tripod.com/~doanket/hoangsa/dktrngsa.html
|