Những
dữ kiện lịch sử về Hoàng Sa và Trường
Sa Phạm
Phong Dinh |
Sách
sử thế kỷ thứ 19 đă ghi lại rành rành
những sự kiện như sau, mà đă chứng minh
chủ quyền của Việt Nam, rồi hai nền
cộng ḥa của nước Việt Nam Cộng Ḥa
đă kế thừa chủ quyền này trên Hoàng Sa và
Trường Sa. Hăy lấy một đoạn kư sự
của chính người Trung Hoa nói về Trường
Sa. Trong bộ Hải Ngoại Kư Sự của
Thích Đại Sán, một ḥa thượng thời
Khang Hy nhà Thanh đă chu du đến tận đất
Thuận Hóa dưới triều Chúa Nguyễn Phúc Chu ngày
13 Tháng Ba 1695. Chúa Nguyễn đă nhờ vị quốc
cựu (cha vợ Chúa) cùng hai ḥa thượng Đàng
Trong (thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, phần đất
dưới quyền chúa Trịnh gọi là Đàng Ngoài)
tiếp đón nhà tu Trung Hoa rất trang trọng. Thích
Đại Sán đă diễn tả hệ thống canh
pḥng các cửa biển của Thủy Quân Việt Nam
rất chặt chẽ, cơ quan thuế vụ giao
dịch với thương buôn ngoại quốc
được tổ chức rất chu đáo và
giản tiện. Ḥa Thượng Thích Đại Sán
đă được mời cùng đi với Thủy
Quân Việt Nam ra thăm đảo Trường Sa.
Kỹ thuật đi thuyền của quân ta rất
lợi hại trên vùng biển đầy băo tố và
xa ngh́n dặm, đă được nhà du hành kể
lại như sau : Qua ngày 30,
đánh thanh la nhổ neo, mấy mươi chiếc
thuyền đánh cá ra cửa biển. Đầu
thuyền ngồi một vị quan, dưới
thuyền đứng một người cầm lái,
giữa thuyền sáu mươi bốn người lính
đứng chèo, giữa khoang thuyền có bốn
cọc nạng sơn son, trên bắc ngang một cây mơ
gỗ. Một người lính gơ mơ làm nhịp cho
những người đứng chèo, miệng ḥ lơ,
chân dậm ván, đều răm rắp theo nhịp mơ
chẳng chút đơn sai. Thuyền dài mà hẹp như
h́nh long chu, mũi cất cao, đuôi thuyền sơn
đỏ, giữa không thấy để bếp
nấu, thầm nghĩ bao nhiêu người sẽ ăn
uống vào đâu. Gió Nam
thổi dịu dần, thuyền chạy dát tới dát
lui chẳng tiến được bao nhiêu. Bỗng
chốc mưa lớn, gió bấc thổi mạnh,
thế không chạy tới được, cả
thuyền lo ngại v́ quăng đường đến
Trường Sa. Ta khoác y vào niệm chú. Hồi lâu, phía
Đông Nam một trận gió băo nổi lên, đêm
tối mịt mù, ngửa bàn tay không thấy. Mọi người
đều sảng hồn, mường tượng trông
thấy rồng bay phượng múa hai bên thuyền.
Ước chừng một canh, rồng bay đi.
Khoảng đường gió Bắc thổi đi năy
giờ, trong giây phút đă thấy thuyền trở
lại chỗ cũ. Sau cơn mưa, màu trời
sắc biển suốt gần xa, đến đây ḷng
về đă nguội lạnh hết vậy. Sáng ngày, mây
tạnh trời quang, xa xa trông thấy ngấn núi, cách
chừng vài mươi dặm. Theo gió xuôi vào sơn
cảng, người trong thuyền đánh trống
tạ thần, đều giơ tay lên trán nói rằng:
“Thực là sống sót.” Dĩ nhiên
cuộc sống sót của chiếc thuyền chắc
chắn không phải là do thần thông của ḥa thượng,
mà nhờ vào kinh nghiệm đi biển, ḷng gan dạ
và tài lái thuyền của quân dân Đại Việt.
Những đoạn kư sự đi biển của nhà
tu Trung Hoa đă chứng minh rằng từ thời Chúa
Nguyễn, Trường Sa đă thuộc về nước
Nam, mà chính thuyền của người Đại
Việt đă đưa ông ta ra đó. Đến
triều Nguyễn, kế thừa chủ quyền
của tổ tiên ḍng Chúa Nguyễn, rất nhiều văn
kiện ngoại quốc đă nhắc đến Hoàng
Sa và Trường Sa. Hăy lấy một đoạn kư
sự của Đức Giám Mục Taberd thời vua Gia
Long: Chúng tôi
chỉ xin lưu ư rằng từ 34 năm nay
quần đảo Paracels mà người An Nam gọi là
Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm có rất nhiều ḥn đảo
chằng chịt với nhau, lởm chởm những
đá nhô lên giữa những băi cát, khiến cho
kẻ đi biển rất e ngại, đă được
người Việt xứ Đàng Trong chiếm
cứ. Chúng tôi không rơ họ có thiết lập
một cơ sở nào tại đó không, nhưng có
điều chắc chắn là Hoàng Đế Gia Long
đă quan tâm muốn trang sức thêm vương
miện của ngài bằng bông hoa đó, nên chi ngài
đă xét cần phải đích thân ngự giá đi
chiếm hữu đảo này, và vào năm 1816, ngài
đă long trọng cho thượng Quốc Kỳ xứ
Đàng Trong ở đó. Trước
Giám Mục Taberd ít lâu, ông J.B. Chagneau cũng đă có
ghi chép trong cuốn Mémoire sur la Cochinchine (Hồi Kư
Về Xứ Đông Dương), rằng
đương kim hoàng đế, tức là vua Gia Long,
đă chính thức chiếm hữu quần đảo
Hoàng Sa và là vị vua Nguyễn đàu tiên cho thành
lập Đội Hoàng Sa. Một vị hoàng đế
tấm thân vạn thặng như vậy, đáng
lẽ ngài chỉ sai một quan đại thần là
đủ, vua Gia Long đă không ngại hải tŕnh thiên
lư, đă ngự giá ra tới vùng đảo hoang vu
quanh năm sóng gầm để cắm lá Quốc
Kỳ Việt Nam trên đó. Là một chiến tướng
xông pha trăm trận và từng ngược xuôi trên
khắp nẽo đại dương, vua Gia Long nào có
xem những con sóng dữ biển Đông ra ǵ đâu. Công
lao dựng nước và mở mang bờ cơi của
tiền nhân chúng ta vĩ đại, cao cả và lao
nhọc đến như vậy, mà bầy ngạ
quỷ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cùng
bọn Cộng Sản Hà Nội, một lũ đớn
hèn khiếp nhược, chỉ với một tờ
giấy lộn kư ngày 14 Tháng Chín 1958, đă dâng Hoàng
Sa, Trường Sa rất dễ dàng và vô điều
kiện cho ông thầy của chúng nó là Trung Cộng. Mà
nào Hoàng Sa, Trường Sa có phải thuộc chủ
quyền của lũ chúng nó đâu. Hiệp Định
Geneva ngày 20 Tháng Bảy 1954, quy định những
phần đất ở phía Nam vĩ tuyến 17
thuộc quyền bảo vệ của Việt Nam
Cộng Ḥa. Bản Hiệp Ước Pháp-Thanh kư
tại Bắc Kinh ngày 26 Tháng Sáu 1887 có vài điều
khoản liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa như
sau: Bản
hiệp ước này không hề đề cập
tới việc phân định địa giới theo
nghĩa rộng giữa Trung Quốc và Việt Nam, nhưng
chỉ có liên quan tới việc phân định địa
giới giữa tỉnh Quảng Đông và Bắc
Việt, cùng những ḥn đảo nằm trong Vịnh
Bắc Việt ở vào khoảng giữa đảo
Hải Nam với duyên hải Bắc Việt và
Quảng Đông. Do đó
không thể được viện dẫn để áp
dụng cho trường hợp quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa vốn không
thuộc lănh hải Bắc Việt, mà thuộc lănh
hải Trung Việt và Nam Việt. Hiệp
Ước Thiên Tân trước đó kư ngày 18 Tháng Năm
1884 giữa Pháp và Trung Hoa, Trung Hoa đă kư nhận
từ bỏ quyền “thiên triều” hữu danh vô
thực từ xưa đối với Việt Nam, cam
kết tôn trọng những hiệp ước Pháp-Việt
sau đó. Ngày 6 Tháng Sáu 1884, Ḥa Ước Patenôtre kư
kết tại Huế trong một buổi lễ phá
bỏ ấn tín của Thanh triều Trung Quốc.
Kể từ thời điểm này, các toàn quyền Pháp
ở Việt Nam đă lần lượt cho thiếp
lập hải đăng trên đảo Hoàng Sa, liên
tục cử nhiều đoàn khảo sát khoa học, dân
sự và quân sự khác nhau lên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Một văn kiện quan trọng
bậc nhất xác định chủ quyền Việt
Nam trên những quần đảo này là Hiệp Định
Việt-Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949, trong đó Pháp chính
thức công nhận nền độc lập và
thống nhất của quốc gia Việt Nam, Quốc
Trưởng Bảo Đại là vị lănh đạo
chính danh thứ nhất của nước Việt Nam
độc lập. Từ đó, Việt Nam có đầy
đủ tư cách để tự bảo vệ trên
b́nh diện ngoại giao chủ quyền của ḿnh trên
tất cả hải đảo, bao gồm Hoàng Sa và Trường
Sa. Ngày 7 Tháng Chín 1951, Hội Nghị Quốc Tế San
Francisco với 51 nước đă long trọng kư
bản tuyên bố xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về quốc gia Việt Nam.
Trung Cộng và Trung Hoa Quốc Gia (Đài Loan) biết trước
là sẽ chẳng được sơ múi ǵ, đă tuyên
bố “tẩy chay” không tham dự hội nghị, cho
đỡ mất mặt vậy thôi. Từ năm
1954 cho đến ngày 30 Tháng Tư 1975, Việt Nam
Cộng Ḥa luôn thực hiện mọi biện pháp
cần thiết để bảo vệ chủ quyền
Việt Nam. Năm 1956, Hải Quân Việt Nam đă thay
thế hẳn Hải Quân Pháp chịu trách nhiệm trú
đóng và ǵn giữ các hải đảo phía Nam vĩ
tuyến 17. Thủy Quân Lục Chiến, Địa Phương
Quân, chuyên viên khí tượng và hải dương
học Việt Nam Cộng Ḥa đă thường xuyên
đồn trú và thực hiện những công tác chuyên
môn trên Hoàng Sa và Trường Sa. Cờ Vàng
Đại Nghĩa Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường
Sa Tháng Tám
1956, Hải Quân Việt Nam đă gửi chiến
hạm đến đổ bộ lên các đảo
thuộc Trường Sa thượng Quốc Kỳ Vàng
Ba Sọc Đỏ và dựng bia khẳng định
chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa, để
tỏ ư chí của quân dân Việt Nam Cộng Ḥa
nhất quyết bảo vệ Trường Sa trước
những yêu sách vô lư ngang ngược của Trung
Cộng, Đài Loan và Phi Luật Tân. Trong thời điểm
đó, mặc dù Hải Quân Việt Nam chỉ có
một số tàu cũ của Pháp để lại, nhưng
thái độ rất cứng rắn của Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm đủ để cho
những nước này nhợn mặt không dám làm
hỗn. Dù vậy, năm 1959, Trung Cộng thử
trắc nghiệm phản ứng của Việt Nam khi
cho nhiều tàu “đánh cá” xâm nhập các đảo
Hữu Nhật, Quang Ḥa, Duy Mộng. Hải Quân Việt
Nam bắt ngay 80 “ngư phủ” Trung Cộng, giam
giữ một thời gian và phóng thích chúng. Ngày 13 Tháng
Bảy 1961, do Sắc Lệnh số 174 – NK của
Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh
Diệm, quần đảo Hoàng Sa đă được
đặt trực thuộc tỉnh Quảng Nam, thay v́
tỉnh Thừa Thiên, mang tên chung là xă Định
Hải, quận Ḥa Vang. Ngày 21 Tháng Mười 1969, do
Sắc Lệnh số 709 – BNV/HC của Thủ Tướng
Chính Phủ, xă Định Hải được sáp
nhập làm một với xă Ḥa Long, cũng thuộc
quận Ḥa Vang. Năm 1973, Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu kư sắc lệnh đặt quần đảo
Trường Sa trực thuộc quản hạt hành chánh
của tỉnh Phước Tuy. Những
cuộc hải chiến Hải Quân
Việt Nam dưới sự giúp đỡ của đồng
minh Hoa Kỳ đă lớn mạnh vượt bậc,
được xếp hàng thứ 9 trong những lực
lượng hải quân mạnh nất thế giới.
Cho đến thời điểm từ năm 1972
trở đi, con số chiến sĩ chiến đấu
trên khắp vùng sông rạch, kinh đào, cận duyên và
đại dương đă lên đến hơn 40 ngàn
người. Những chiến hạm Hải Quân ngày
đêm tuần tra hải phận Việt Nam ngăn
chận sự xâm nhập đổ người và
tiếp liệu của tàu Bắc Việt vào lănh
thổ Việt Nam Cộng Ḥa bằng đường
biển. Để hỗ trợ cho công tác tuần pḥng
của Hải Quân, các phi cơ của Không Quân
Việt Nam và Hoa Kỳ đă được sử
dụng để khám phá và thông báo kịp thời
những tàu lạ khả nghi. Vây
bắt tàu Bắc Việt ngày 29 Tháng Hai 1968 Khoảng
19 giờ 30 ngày 29 Tháng Hai 1968, phi cơ không tuần báo
cáo có ba chiếc tàu lạ xuất hiện trong hải
phận Nha Trang và Đà Nẵng. Bộ Chỉ Huy Vùng
II Duyên Hải liền điều động các
lực lượng thuộc Duyên Đoàn 21, 25, 27, 28 cùng
các chiến đĩnh PCF Hoa Kỳ, các chiến hạm
HQ 11, HQ 12, HQ 617 tuần tra những vùng t́nh nghi địch
xâm nhập và ngăn chận các tàu lạ. Theo
lệnh Hải Quân Thiếu Tá Phạm Mạnh Khuê,
chỉ huy trưởng Hải Quân Vùng II, tất cả
chiến hạm và ghe đều phải âm thầm theo
dơi những con tàu lạ và không được
chớp đèn khi hải hành. Không biết rằng ṿng
vây đang dần khép chặt, ba chiếc tài lạ
vẫn từ từ tiến vào hải phận Việt
Nam. Chiếc thứ nhất đâm thẳng vào bờ
với vận tốc 8 gút (1 gút = 1,852 mét), nhưng
đến 1 giờ sáng ngày 1 Tháng Ba 1968, đột nhiên
nó quay đầu chạy về hướng Bắc, sau
một đêm lảng vảng ngoài hải phận
quốc tế. Chiếc thứ hai vận tốc 9 gút
đi theo hướng 320 độ có vẻ muốn xâm
nhập vùng biển Phổ Đức, tỉnh Quảng
Ngăi, đă bị Hải Quân Việt-Mỹ thuộc Vùng
I Duyên Hải chận bắt. Chiếc thứ ba vận
tốc 12 gút, đâm thẳng vào bờ lúc 22 giờ 30
đêm 29 Tháng Hai 1968, cách Ḥn Hèo 13 hải lư, nghĩa là
vẫn c̣n nằm trong hải phận quốc tế.
Những radar quan sát của Hải Quân tiếp tục bám
sát hướng di chuyển của những con tàu này.
Đến nửa khuya rạng ngày 1 Tháng Ba 1968,
chiếc tàu thứ ba đă vào đến hải
phận Việt Nam Cộng Ḥa. Tất
cả những chiến hạm đang theo dơi đều
được lệnh phải bám thật sát những
hoạt động của những con tàu lạ,
những ghe của các Duyên Đoàn 21, 25, 27, 28 di
chuyển gần bờ biển bố trí thành một hàng
rào cản từ bờ biển Mũi Cơ, Mũi Băi
Chướng đến Mũi Cây Bàng sẵn sàng đánh
địch. Gần 1 giờ khuya, những ghe của Duyên
Đoàn 25 đă khéo léo di chuyển đến cách con tàu
lạ chừng 300 thước, cách Mũi Cơ ngoài khơi
chừng một cây số. Tàu địch không phát giác
được tàu Duyên Đoàn 25 v́ tối trời và
quân ta đă không thắp đèn hiệu. Đến 1
giờ 36 phút chúng vẫn ung dung tiến thẳng vào Băi
Cây Bàng, cách Nha Trang độ 20 cây số. Đến
đây th́ Hải Quân Vùng II Duyên Hải đă có
thể kết luận, chúng là những chiếc tàu
của Cộng Sản Bắc Việt lén lút chở vũ
khí, tiếp liệu cho binh đội của chúng trên
đất liền. Cuộc xâm nhập này đă
được thực hiện một thời gian
ngắn ngay sau khi tiếng súng Mậu Thân đă vừa
tàn trên khắp miền Nam. Có lẽ Hà Nội muốn
bù đắp phần nào thiệt hại tiếp
liệu quân sự quá nặng nề của quân
cộng ở Vùng II. Chúng phải liều lĩnh cho tàu
xâm nhập vào mọi chỗ có thể được,
mà không thể ngờ rằng máy móc phát giác và các phi
tuần quan sát đă phát hiện được chúng
từ lâu. Tàu lạ
vừa giảm tốc lực t́m chỗ cặp vào, th́
tất cả những chiến hạm, ghe Duyên
Đoàn đều đă cùng bật đèn chiếu
thẳng đến, ánh sáng hừng lên cả một vùng
biển. Chiếc tàu lạ lắc lư theo những
đợt sóng, bọn thủy thủ kinh hoàng trước
những ánh đèn pha sáng chói từ các chiến
hạm. Hỏa châu từ các con tàu cũng đă
được bắn lên đầy trời đêm.
Với ư định bắt sống tàu địch nguyên
vẹn, nên các đơn vị tham dự chỉ
được lệnh tác xạ bằng những
loại súng nhỏ từ 12 ly trở xuống. Đánh
phủ đầu không cho quân địch “lên
tiếng” trước, những ổ súng của
lực lượng vây bắt đă nỗ ḍn dă vào
con mồi. Chiếc tàu Bắc Việt trong giây phút
đă trở thành cái bia nhắm cho những loại
đạn tấn công của Hải Quân. Để ngăn
chận thủy thủ địch trốn chạy lên
bờ, đại bác trên các HQ đă trải một
loạt thảm đạn dọc theo bờ biển.
Đột nhiên từ bên trong nội địa,
nhiều loạt đạn trung liên, súng cối 60 ly và
B40 đă bắn trả ra ngoài khơi dữ dội và
quyết liệt không kém. Như vậy là đă có
một lực lượng cộng quân đă nằm
chờ sẵn, có lẽ là để vận chuyển hàng.
Với hỏa lực hùng đó, Bộ Chỉ Huy Vùng
II Duyên Hải đă ước lượng phải
đến một đại đội địch. Tàu
địch nhận được hỏa lực
yểm trợ của bộ binh, chúng liền nổ súng
vào lực lượng Duyên Đoàn với hy vọng
mở một con đường máu vượt thoát. Nhưng
thoát làm sao nỗi trong cái lưới đă đan kín. Cuộc
hải chiến và hải-bộ chiến giữa quân ta
và quân địch kéo dài đến 7 giờ sáng, th́ súng
địch trên bờ đă hoàn toàn ngừng hẳn.
Chiếc tàu địch trúng nhiều đạn của
Hải Quân đang ch́m dần xuống, chỉ c̣n
một nửa thân nhô lên khỏi mặt nước.
Một đại đội xung kích Hải Quân nhanh chóng
đổ bộ lục soát và truy kích địch. Các
chiến sĩ xung kích đă t́m thấy 9 xác cộng quân
nằm rải rác trên bờ. Trong khi đó th́ những
toán Người Nhái của Hải Quân đă leo lên con
tàu thám sát và phát hiện 5 thủy thủ địch
đă chết. Con tàu sắt Bắc Việt dài 60 thước,
rộng 5 thước, trọng tải 600 tấn, có
trang bị 2 đại liên pḥng không 14 ly 5 và radar. Con tàu
này có h́nh dáng rất giống các chiếc tàu Bắc
Việt bị bắn hạ tại Vũng Rô, Ba Động
trong những năm trước, nhưng kích thước
lớn hơn nhiều, chứng tỏ cộng sản
muốn đổ nhiều tiếp liệu hơn trong
một chuyến đi. Tất cả số tiếp
liệu khá lớn trên tàu đă được
bốc lên bờ và được liệt kê như
sau: -67 vũ
khí đủ loại : 36 súng B40, 28 súng AK47, 3 đại
liên pḥng không 14 ly 5 và 2 ṇng. -26 thùng
đạn B40, 2 thùng đạn B41, 1 thùng đạn súng
cối 81 ly, 3 thùng dược phẫm chế tạo
tại Đông Đức và Trung cộng. -50 tấn
đạn dược và hàng ngàn vũ khí bị phá
hủy. Ba năm
trước, ngày 16 Tháng Hai 1965, tại Vũng Rô,
thuộc vùng bờ biển tỉnh Phú Yên, cách Tuy Ḥa
30 cây số về hướng Đông Nam,Hải Quân
Việt Nam cũng đă phát hiện một cuộc xâm
nhập của tàu cộng sản. Không Quân Việt Nam
được điều đến oanh kích hủy
diệt ngay chiếc tàu. Các đơn vị Bộ Binh
đă mở cuộc hành quân tảo thanh và b́nh định
Vũng Rô. Sau những cuộc lục soát, quân ta đă
khám phá được 12 hầm chôn dấu vũ khí.
Như vậy là chiếc tàu địch đă chất
hàng xong, chuẩn bị trở ra khơi đào tẩu
th́ đă bị phát hiện và bị tiêu diệt.
Đúng với cái tên của nó, Vũng Rô là một
vụng biển ăn sâu vào đất liền,
tiếp giáp với những dăy núi cao, rậm rạp và
rất hiểm trở, từ đó quân du kích hay
chủ lực địa phương Việt cộng có
thể ẩn núp kín đáo và an toàn. Một dăi cát
hẹp gần vách núi rất thuận tiện cho
việc xuống hàng và tẩu tán hàng nhanh chóng. Hàng ngàn
khẩu súng và nhiều tài liệu quan trọng tịch
thu được, cho thấy âm mưu dấy động
chiến tranh của Hà Nội trên lănh thổ Việt
Nam Cộng Ḥa, mà chúng vẫn thường chối bai
bải là do “nhân dân” Miền Nam nổi dậy.
Những thùng đạn in chữ Trung Hoa, Liên Sô và
khối Đông Âu là chứng cớ rơ ràng giúp cho
Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh
Chiến lập biên bản. Sự kiện Vũng Rô hay
Ḥn Hèo, Băi Chướng, Nha Trang chứng tỏ rằng
cuộc chiến tranh xâm lược này do chính khối
cộng sản quốc tế yểm trợ, nói chính xác
hơn, chủ động, mà đạo quân xung kích
của chúng là binh đội Cộng Sản Bắc
Việt. Chiến công
của HQ 4 Trần Khánh Dư ngày 24 Tháng Tư 1972 Với
một chiều dài bờ biển từ Cửa Việt
đến tận Mũi Cà Mau đến 2,000 cây
số, hàng trăm ghe thuyền và chiến hạm
của Hải Quân Việt Nam đă luôn luôn tuần tra
nghiêm nhặt bảo vệ hải phận. Nhưng cũng
có nhiều lúc những tàu xâm nhập Bắc Việt cũng
đă t́m thấy những kẻ hở ở những
thời điểm thích hợp và đă lọt vào bên
trong. Đă có nhiều tàu bị bắt sống hay
bắn hạ, nhưng Hà Nội vẫn cứ tiếp
tục cho tàu tiếp liệu vơ khí đạn dược
lén lút cặp vào những vụng biển hoang vắng
nhất, từ đó du kích hay bộ đội nhanh chóng
tiếp nhận, chôn dấu hay phân phối hàng cho các
đơn vị có nhu cầu. Chiến sĩ Hải Quân
Việt Nam trên tàu, ghe, chiến hạm đă phải
rất vất vả ngày lẫn đêm truy lùng tàu
địch. Một chiếc lọt lưới, có nghĩa
là đồng đội Bộ Binh của các anh càng
nguy nan hơn trên chiến trường. Những nỗ
lực này đă mang đến nhiều thành quả
quan trọng, mà đă giảm nhẹ phần nào
nỗi chết chóc cho các chiến sĩ Bộ Binh trên
đất liền. Lúc 10
giờ 19 sáng ngày 24 Tháng Tư 1972, trong lúc bốn quân
khu đang ch́m ngập trong cơn băo lửa của
cuộc tổng tấn công mùa Hè 1972, Hải Quân
Việt Nam đă lập công lớn khi bắn ch́m
một tàu tiếp tế của Cộng Sản Bắc
Việt và tóm trọn thủy thủ đoàn trong vùng
biển Phú Quốc. Khi con tàu địch c̣n lảng
vảng ngoài hải phận quốc tế, th́ Hải
Quân Việt Nam đă phát hiện được nó và
theo dơi nhiều ngày. Chiếc tàu Bắc Việt không
hề biết rằng chúng đang bị bám sát, đă
thản nhiên lấy hướng tiến vào vùng
biển Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Ngày 23 Tháng Tư
1972 tàu HQ 4 Trần Khánh Dư, mà hai năm sau sẽ
bắn ch́m một chiến hạm Kronstadt của Trung
Cộng trong cuộc hải chiến Hoàng Sa, nhận
lệnh truy bắt tàu giặc. Khi quan sát thấy
chiếc HQ 4 lừng lững xuất hiện và bám sát,
bọn trên tàu biết đă bị lộ, chúng chỉ
c̣n có mỗi việc là hối hả quày tàu chạy
trốn. Nhưng đă quá muộn, chiếc khu trục
hạm Trần Khánh Dư đă chận đường
ra biển mất rồi. Dù vậy, HQ 4 vẫn nhận
được lệnh từ Bộ Tư Lệnh
Hải Quân Việt Nam phải hết sức kiên
nhẫn, dùng mọi cách bắt tàu này xưng danh
hiệu, kéo quốc kỳ và đổi hướng
theo chiến hạm Việt Nam Cộng Ḥa về căn
cứ, theo đúng thể thức quốc tế về
việc bắt giữ những tàu thuyền xâm nhập
hải phận một quốc gia. Cuộc rượt
bắt và cưỡng chế tàu lạ diễn ra sôi
nỗi, căng thẳng từ 7 giờ 25 sáng ngày 24 Tháng
Tư 1972. HQ 4 Trần Khánh Dư đă dùng quang
hiệu, kỳ hiệu liên lạc với tàu lạ,
đặc biệt phát thanh kêu gọi thủy thủ
đoàn cộng sản Bắc Việt trở về
với chính nghĩa quốc gia. Dĩ nhiên, những con
người đă bị nhồi sọ, nhồi nhét
những tư tưởng căm thù khát máu, th́
chừng nào mà mũi súng của quân ta chưa dí vào
mặt, th́ chừng đó chúng c̣n hung hăng khao khát
chiến tranh. Con tàu địch không trả lời và
cố gắng chạy ra hải phận quốc tế.
Hạm trưởng HQ 4 quyết định cho nổ
một loạt đạn 12 ly 7 cảnh cáo bắn
chận đầu. Nhưng cũng chẳng ăn thua ǵ,
v́ chúng đă quyết tâm chém vè. Một phút sau, HQ 4
bắn một phát đại bác cách mũi tàn địch
200 thước để cảnh cáo lần nữa,
rồi một quả nữa xê dịch đến
gần hơn. Chúng vẫn chạy. Có thể là cái ám
ảnh lọt vào tay “ngụy” và chắc chắn
bị “ngụy” bắn chết tại chỗ, như
chúng đă được tuyên truyền ngoài Bắc,
đă khiến cho lính cộng càng chạy trối
chết hơn. Nhưng khi đă có may mắn được
quân ta bắt và sống sót, được đăi
ngộ tử tế, những người lính Bắc
Việt vỡ lẽ ra và cảm kích vô ngần. Người
lính Bắc Việt đă được người lính
Việt Nam Cộng Ḥa, mặc dù nghèo rách mồng tơi,
trên nón sắt dưới giày bốt đờ sô,
đă mời các anh hút thuốc đầu lọc,
uống bia và thưởng thức đồ hộp
của “đế quốc Mỹ.” Đến nỗi
có nhiều tù binh luôn luôn xin thêm hộp cocktail trái cây
đóng hộp trong khẩu phần của quân ta. Nhận
thấy rằng không cho tàu Cộng Sản Bắc
Việt chưa thấy quan tài là chúng chưa đổ
lệ, HQ 4 tác xạ thẳng vào tàu địch, cùng
với những loạt pháo đại bác 76 ly 2
nhắm vào bánh lái tàu. Cuộc xạ kích kéo dài
nửa tiếng đồng hồ, th́ tàu địch
đă hoàn toàn tê liệt. HQ 4 tiến tới, th́ đột
nhiên tàu Bắc Việt nổ máy… chạy tiếp.
Hạm Trưởng HQ 4 quyết định tác xạ
thẳng vào con tàu. Những quả đại bác
bắn rất chuẩn đích đă làm cho tàu giặc
nổ bùng lên trong những khối lửa đỏ
cuồn cuộn, những mănh sắt đă bắn xa
đến tận HQ 4 cách đó 1 cây số.
Chiếc tàu địch ch́m hẳn xuống đáy
đại dương lúc 10 giờ 26 sáng ngày 24 Tháng Tư
1972. Đến 12 giờ trưa, các chiến hạm
Việt Nam đă tiến đến vùng tàu địch
bị ch́m và đă vớt lên được 16 người,
trong đó có 6 người bị thương, tất
cả đều nói tiếng Bắc. Theo cung từ tù
binh, th́ thủy đoàn có 22 người, có thể 6 người
kia đă mất tích hay ch́m theo tàu, người Nhái
Việt Nam cố gắng ṃ t́m 6 thủy thủ này.
Đây là chiếc tàu thứ 11 của cộng sản
Bắc Việt trên đường xâm nhập đă
bị Hải Quân Việt Nam bắt hay bắn ch́m.
Chiếc tàu bị ch́m dài 30 thước, rộng 5 thước
8, trọng tải 185 tấn. Chiều
ngày 26 Tháng Tư1972, khu trục hạm HQ 4 Trần Khánh
Dư đă về đến bến Bạch Đằng
Sài G̣n. Được loan báo tin chiến thắng trên
hệ thống truyền thanh, truyền h́nh, hàng ngàn
đồng bào đă nồng nhiệt ra bờ sông Sài
G̣n chào mừng những người lính đại dương,
trong đó chúng ta thấy nhiều tà áo thướt tha
của những người vợ, em gái hậu phương
mà trái tim đang dậy lên những con sóng biển t́nh
xôn xao, khi sắp được thấy lại và
nắm tay người trai yêu mến của ḿnh.
Thủy thủ đoàn HQ 4 đă được Đề
Đốc Trần Văn Chơn, tư lệnh Hải
Quân, thân nhân và kư giả trong nước tiếp đón
với một mối t́nh cảm chân thành. Có 4
chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh cao quư
đă được trao tặng cho Hải Quân Trung Tá
Nguyễn Ngọc Rắc (với Nhành Dương
Liễu), Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Dậu
(với Nhành Dương Liễu), Hạ Sĩ Nhứt
Nguyễn Văn Thịnh (với Ngôi Sao Vàng) và Binh
Nhứt Nguyễn Văn Ba (với Ngôi Sao Bạc). Hơn
thế nữa, 100,000 đồng đă được
trao thưởng cho toàn thể thủy thủ đoàn
HQ 4 Trần Khánh Dư. HQ 4
Trần Khánh Dư là chiếc khu trục hạm thứ
hai của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển giao cho Hải
Quân Việt Nam Cộng Ḥa tại Căn Cứ Hải
Quân Guam ngày 1 Tháng Mười Hai 1971, Hải Quân Trung Tá
Nguyễn Ngọc Rắc nhận tàu và là vị hạm
trưởng thứ nhất của tàu. HQ 4 được
vinh dự mang tên Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư,
người tướng quân từng có thời bán than
trên bến B́nh Than, được vua Trần cho
phục chức và giữ quyền thống lĩnh Căn
Cứ Hải Quân Vân Đồn, Quảng Ninh, với
một trọng trách khó ai có thể đảm
đương nỗi. Chỉ với vài trăm
thuyền nhỏ, Trần Tướng Quân phải
chận đánh và phải chiến thắng đạo
thủy quân của Ô Mă Nhi, chiến bại là chịu
quân luật, nhẹ th́ cách chức, nặng là chém
đầu. Năm 1287, Thoát Hoan dẫn 200 ngàn quân Nguyên
hùng hổ sang đánh nước ta. Ô Mă Nhi chỉ huy
năm trăm thuyền chở lương, nghênh ngang
dẫn vài trăm chiến thuyền đi trước
tiến vào cửa Vân Đồn , rồi từ đó
vào sông Bạch Đằng hội quân với Thoát Hoan
ở Thăng Long. Nhân Huệ Vương đem
thuyền ra đánh. Thế giặc đang mạnh,
lại được thế gió, thủy quân Đại
Việt đánh không nỗi phải rút lui. Sứ
giả đem chiếu vua Trần Nhân Tông đến
đ̣i về chịu tội. Trần Tướng Quân
xin sứ giả thư thả cho vài ngày rồi sẽ
phục mệnh, ông thề cùng với ba quân tướng
sĩ đánh một trận cuối cùng với
giặc, dẫu có hy sinh cũng lưu danh thiên cổ. Tên
hải tặc Trương Văn Hổ gốc người
đảo Hải Nam được nhà Nguyên trọng
dụng phong quan tước, ngỗ ngáo dẫn đoàn
thuyền lương 500 chiếc nặng nề è
ạch đi sau xông qua Vân Đồn. Thủy Quân Đại
Việt đổ ra đánh, quân ta bắn tên lửa
đốt thuyền giặc, rồi nhảy lên tàu xung
sát. Quân Nam đánh quá dữ, vài vạn quân Nguyên
hoảng loạn bị giết chết gần hết,
Trương Văn Hổ nhảy xuống một
chiếc thuyền nhỏ chạy trối chết về
Quỳnh Châu, Hải Nam. Chắc chắn là cái đầu
của hắn sẽ rớt khỏi cái cổ từ cơn
thịnh nộ của vua Nguyên Hốt Tất Liệt.
Toàn bộ lương thực đă bị Thủy Quân
Đại Việt đốt cháy sạch, Thoát Hoan
chỉ c̣n mỗi nước là… chạy. Những
đại tướng Phạm Ngũ Lăo, Nguyễn Khoái
đang chờ bộ binh Nguyên trên Ải Nội Bàng giáp
biên giới. Hưng Đạo Vương cùng nhiều
tướng lănh kiệt hiệt nhất của nước
Nam như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật
đang giăng cái bẫy cọc sắt dưới
đáy Bạch Đằng chờ bọn Ô Mă Nhi.
Cuộc thảm bại kinh hoàng ở cả hai mặt
trận bộ và biển đă chấm dứt cơn
ảo mộng chiếm lấy Đại Việt
của Hốt Tất Liệt. Trong những cơn ác
mộng hằng đêm của hắn, trận hải
chiến Vân Đồn sẽ ám ảnh đến
suốt đời. Tiếp
nối đại công của Tướng Quân Trần
Khánh Dư, HQ 4 Trần Khánh Dư cũng đă lập
được nhiều chiến tích: – Đánh
ch́m tàu cộng sản Bắc Việt tại Phú
Quốc ngày 22 Tháng Tư 1972, HQ 4 được ân thưởng
Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu. – Tháng Chín
1972, tham dự cuộc hành quân tái chiếm Quảng
Trị. HQ 4 đă bắn yểm trợ quân bạn trên
bộ 6,000 quả đại bác, góp công giúp quân ta thượng
Cờ Vàng Việt Nam trên Cổ Thành Đinh Công Tráng. – Tháng Giêng
1973, Hạm Trưởng HQ 4 đảm nhiệm cương
vị chỉ huy chiến thuật các đơn vị
Hải Quân yểm trợ hỏa lực và đổ
bộ tái chiếm cửa biển Sa Huỳnh, Quảng
Ngăi. – Tháng Tư
1973, cùng với HQ 15 bắt giữ một tàu buôn
ngoại quốc ngoài khơi Nha Trang, tịch thu 6
tấn ma túy. – Tháng
Bảy 1973, HQ 4 tham dự cuộc hành quân chiếm đóng
đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường
Sa. – Ngày 19
Tháng Giêng 1974, Hạm Trưởng Hải Quân Trung Tá Vũ
Hữu San HQ 4, cùng với HQ 5, HQ 10 và HQ 16 mở
cuộc hải chiến lẫy lừng nhất trong
chiến sử quân chủng, đánh ch́m 2 tàu và làm hư
hại 2 tàu khác của Hải Quân Trung Cộng trên vùng
biển Hoàng Sa, khi chúng ngổ ngáo xâm phạm hải
phận, thách thức sức mạnh và ư chí bất
khuất của Hải Quân và dân tộc Việt Nam. (Phạm
Phong Dinh)
|