PHÁN
QUYẾT CỦA TOÀ ÁN TRỌNG TÀI THƯỜNG
TRỰC VỀ LUẬT BIỂN: HIỆU LỰC VÀ
THỰC TẾ Đại-Dương |
Tài
liệu tham khảo: EXCLUSIVE:
Pentagon sails destroyer near disputed island in South China Sea, officials
say (Fox News) Book
Review: Islands and Rocks in the South China Sea: Post-Hague Ruling (Asia
Sentinel) Philippines
Inc., investors march to beat of Duterte's drum (Nikkei) What’s
With the New US-Philippines Sulu Sea Patrols Under Duterte? (Diplomat) Đài
Loan 'lạc quan' về tàu hải quân Mỹ trở
lại (BBC) China builds new missile shelters on South China Sea islands Trump fails to change Beijing’s course despite friendly relationship with Xi (Financial Times) PHÁN
QUYẾT CỦA TOÀ ÁN TRỌNG TÀI THƯỜNG
TRỰC VỀ LUẬT BIỂN: HIỆU LỰC VÀ
THỰC TẾ
Đại-Dương Sau
một năm, giới chuyên gia quốc tế đă
đánh giá hiệu lực của Phán quyết từ Toà
án Trọng tài Thường trực về Luật
Biển (PCA=Permanent
Court of Arbitration)
ngày 12-07-2016.
Giáo
sư Carl Thayer viết “Rơ
ràng Phán quyết của Toà án Trọng tài đă
ngừng hẵn trên biển. Trung Quốc và Phi Luật
Tân chẳng tuân hành. Các nước duyên hải Đông
Nam Á hành động v́ lợi ích kinh tế đă
tạo điều kiện cho Bắc Kinh củng cố
và quân-sự-hoá nhóm đảo Spratly Islands (Trường
Sa, Nam Sa). Chuyên
gia về Biển Nam Trung Hoa, Bill Hayton viết
“Trung Quốc chỉ cho phép ngư dân Phi Luật Tân và
Việt Nam đánh cá bên ngoài Scarborough Shoal (Bajo de
Masinloc, Hoàng Nham Đảo, Băi cạn Scarborough). Vẫn
duy tŕ lệnh cấm đánh cá bên trong Đường
Chữ U từ tháng 5 đến tháng 8. Đe doạ
chiến tranh nếu Phi Luật Tân và Việt Nam thăm
ḍ và khai thác dầu hoả trong vùng Bắc Kinh tuyên
bố quyền chủ quyền. Điều ǵ xảy ra
trên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa, Biển Đông,
Biển Tây Phi Luật Tân, Biển Đông Nam Á) sẽ
tuỳ thuộc vào Phi Luật Tân và các chính phủ
trong vùng cùng với toàn thế giới quan tâm tới
luật pháp quốc tế”. Tờ
Lawfare viết “Phán quyết như quả bom tấn
đối với các hành vi của Bắc Kinh trên
Biển Nam Trung Hoa. Nhưng, bây giờ thắng lợi
pháp lư không giống như một thắng lợi
thực sự. Do chính sách ngoại giao lưng chừng
của Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng
John Kerry nên chỉ được 7 quốc gia kêu
gọi Bắc Kinh tuân hành Phán quyết, so với 6
ủng hộ Trung Quốc, đa số c̣n lại im
lặng hoặc trung lập. Không thể nói chính sách
của Hoa Kỳ tại Biển Nam Trung Hoa thất
bại mà do bị mất cơ hội khiến cho chưa
biết bao giờ dịp may lại xuất hiện trong
tương lai”. Dư
luận trong nước cũng như quốc tế thường
lẫn lộn giữa chủ quyền và quyền
chủ quyền tại Biển Đông khi viết và nói
“chủ quyền biển, đảo” của Việt
Nam. Công
ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển
1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) gồm có
17 phần với 320 điều khoản, 9 Phụ
lục với hơn 100 điều khoản và 4
Nghị quyết kèm theo, chứa đựng 1,000 quy
phạm pháp luật quốc tế. Trong tinh thần
đồng thuận, không được phản đối,
bảo lưu mà 117 phái đoàn quốc gia kư, kể
cả Việt Nam. Công ước có hiệu lực
từ năm 1994. Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
quy định lănh thổ biển của quốc gia duyên
hải bao gồm 5 vùng: (1)
Vùng nội thủy (tính từ đường căn
bản vào bờ), lănh hải 12 hải lư (tính từ
đường căn bản) thuộc “chủ
quyền” quốc gia. (2) Vùng tiếp giáp lănh hải 12
hải lư (tính từ lănh hải), Vùng Đặc
quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) 200 hải lư
(tính từ đường căn bản), thềm
lục địa (không quá 350 hải lư tính từ
đường căn bản) thuộc “quyền
chủ quyền” và “quyền tài phán” quốc
gia. Vùng
nội thuỷ có chủ quyền tuyệt đối.
Trong vùng chủ quyền 12 hải lư, chiến hạm
ngoại quốc có quyền “thông qua vô hại” (không
có hành động đe doạ an ninh quốc gia). Trong
vùng tiếp giáp lănh hải, vùng Đặc quyền
Kinh tế (EEZ) 200 hải lư kể từ Đường
Căn bản), và Thềm lục địa (quy định
không quá 350 hải lư từ đường căn
bản), th́ quốc gia duyên hải chỉ được
phép có “quyền chủ quyền và quyền tài phán”
liên quan đến lợi ích tài nguyên cố định
(dầu khí, khoáng sản) và hải sản. Chủ
quyền các đảo, đá, băi ngầm, băi cạn
trên Biển Nam Trung Hoa chưa được luật pháp
quốc tế công nhận, chỉ có các tuyên bố
đơn phương của từng quốc gia. Vấn
đề “xác
định chủ quyền”
bế tắt v́ các bên tranh chấp không đồng ư
giải quyết qua h́nh thức trọng tài luật pháp
quốc tế. Trung Hoa Dân Quốc đă từ chối
nhờ Toà án Công lư Quốc tế xét xử theo đề
nghị của Nhà cầm quyền thuộc địa
Pháp, đại diện cho Nhà nước Việt Nam vào
năm 1932 về chủ quyền Paracel Islands (Hoàng Sa, Nam
Sa), và 1937 liên quan đến Spratly Islands (Trường
Sa, Nam Sa), và năm 1947 liên quan đến Đường
Chữ U. Tuy
nhiên, quyền chủ quyền và quyền tài phán
của Phi Luật Tân và Trung Quốc ở South China Sea
đă được PCA phán ngày 12-07-2016. Nội
dung phán xét dài 497 trang kèm theo 11 trang phán quyết đă
được PCA công bố hôm 12 tháng 7 năm 2016 làm
sáng tỏ những tranh căi triền miên trong cộng
đồng quốc tế liên quan đến Biển Nam
Trung Hoa. Toà
xác nhận có thẩm quyền xét xử vụ kiện
và kết quả chung cuộc ràng buộc các bên liên
quan phải thi hành dù cho Trung
Quốc từ chối tham gia.
Toà
cũng đă xem xét quan điểm của Bắc Kinh
khi xét xử mà không phán quyết về “chủ
quyền” hoặc “giới hạn về biên
giới” quốc gia. Phán
quyết xoáy vào 4 trọng tâm: Đường
9 Đoạn; quan hệ pháp lư của các thực
thể trên biển; quyền lợi trong EEZ; cách hành
xử của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa. Toà
phán “không có bất kỳ bằng chứng nào cho
thấy về mặt lịch sử Trung Quốc
đơn phương kiểm soát Biển Nam Trung Hoa nên
chẳng có cơ sở pháp lư để Bắc Kinh
đ̣i ‘quyền lịch sử’ các vùng biển bên
trong Đường 9 Đoạn”. Toà
phán “các thực thể nổi khi thuỷ triều cao
nhất như Scarborough Shoal, Johnson Reef (Đá Gạc Ma),
Cuarteron Reef (Đá Tư Nghĩa), Fiery Cross Reef (Đá
Chữ Thập) được quyền có hải
phận 12 hải lư mà không có EEZ và Thềm lục
địa.
Itu Aba (đảo Ba B́nh, Thái B́nh Đảo, Ligaw),
lớn nhất tại Biển Đông cũng không
được quyền có EEZ. Các thực thể ch́m
khi thuỷ triều cao nhất như Subi Reef (Đá
Xu-Bi), Hughes Reef (Đá Tư Nghĩa), Mischief Reef (Đá Vành
Khăn), Second Thomas Shoal (Băi Cỏ Mây) chỉ có vùng an
toàn không quá 500 mét. Cấu
trúc địa lư (đảo nhân tạo) do Trung
Quốc xây ở Spratly Islands chẳng dựa vào
lịch sử mà xét theo nguyên thuỷ của nó nên không
tạo cơ sở để được có chủ
quyền 12 hải lư”.
Toà
phán “không có cơ sở pháp lư để Trung
Quốc yêu sách quyền lịch sử đối
với tài nguyên tại các vùng biển bên trong
Đường 9 Đoạn”. V́ ngư dân Trung Hoa cũng
như các quốc gia khác, kể cả các công ty
Nhật Bản (vào các thập niên 1920, 1930) đến
Spratly Islands với tính cách khai thác ngắn hạn. Toà
phán “Trung
Quốc đă vi phạm Công ước về Quy định
Quốc tế nhằm Ngăn ngừa Va chạm trên
Biển (Convention on the International Regulations for Preventing
Collisions at Sea) năm 1972, và Điều khoản 94
của Công ước liên quan tới an toàn hàng
hải”. Toà
phán “hai
nhóm đảo Paracel Islands và Spratly Islands không hội
đủ điều kiện Quần Đảo nên không
được quyền có Vùng Đặc quyền Kinh
tế và Thềm lục địa”. Trung
Quốc đă can thiệp vào công tác khai thác dầu khí
và ngư nghiệp của Phi Luật Tân; xây dựng
đảo nhân tạo; không ngăn ngư dân Trung
Quốc đến đánh cá trong EEZ của Phi Luật
Tân. Ngư dân Phi Luật Tân có quyền đánh cá
truyền thống tại Scarborough Shoal. Toà
ghi nhận Trung Quốc đă xây dựng đảo nhân
tạo tại Mischief Reef trong EEZ của Phi Luật Tân gây
nguy hại không thể khắc phục được
tới hệ sinh thái rặng san hô, phá hoại vĩnh
viễn bằng chứng về điều kiện
tự nhiên. PCA
lưu ư Điều 11 của Phụ lục VII của
UNCLOS quy định
“Phán quyết của PCA phải được các bên
liên quan tranh chấp tuân hành”
nên không cần có thêm tuyên bố nào khác. Mặc
dù vụ kiện của Manila và Bắc Kinh, nhưng, Phán
quyết của PCA đă đặt nền tảng pháp
lư quan trọng cho sự tranh chấp về quyền
chủ quyền và quyền tài phán giữa Trung
Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Việt Nam, Mă Lai Á,
Brunei. Indonesia
và Tân Gia Ba cũng có thể vận dụng Phán
quyết của PCA để bảo vệ quyền
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Phán
quyết của PCA vượt quá sự mong đợi
của nguyên đơn Phi Luật Tân và các quốc gia
duyên hải Đông Nam Á lẫn cộng đồng
quốc tế. Trái
lại, Trung
Quốc thất vọng năo nề nên phản ứng như
trong cơn giận dữ lại càng chứng tỏ
một cường quốc vô-trách-nhiệm và coi thường
luật pháp quốc tế. Trên
thế giới hiện c̣n khoảng 416 vụ tranh
chấp về ranh giới biển, thềm lục địa
cần được hoạch định, trong đó
khu vực Đông Nam Á chiếm 15, không kể Đường
Chữ U. Nghị
quyết 2625 ngày
24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc quy định: “Các
quốc gia có nghĩa vụ không đe dọa hay sử
dụng vũ lực để vi phạm các biên
giới quốc tế hiện có của một quốc
gia khác, hoặc coi đe doạ sử dụng vũ
lực như biện pháp để giải quyết các
tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh
chấp về đất đai, biên giới giữa các
quốc gia”. Như
thế, lănh thổ quốc gia không thể là đối
tượng chiếm đóng bằng vũ lực trái
với tinh thần Hiến chương Liên Hiệp
Quốc. Phán
quyết của PCA biểu lộ hai
vấn
đề quan trọng: (1) Trước luật pháp
quốc tế mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, giàu
hay nghèo, mạnh hay yếu đều b́nh đẳng.
Không ai được quyền chèn ép nước khác.
(2) Dù
cho PCA chưa có quyền chế tài, nhưng, phán
quyết của nó trở thành án lệ, luật
quốc tế, không thể thay đổi như
nhận xét của Tiến sĩ Alexander Vuvinh thuộc
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Châu Á-Thái B́nh
Dương. Phán
quyết này mang lại lợi ích cho nhiều quốc
gia, nhưng, họ sẽ làm ǵ để bảo vệ
luật pháp quốc tế? Giáo
sư Thayer chua chát “Phản
ứng tổng quát của ASEAN đối với phán
quyết của PCA hoàn toàn mờ nhạt, tắt
ngấm phù hợp với chính sách vốn có của
ASEAN nên chẳng nêu tên Trung Quốc trong các văn
kiện ngoại giao”. Tổng
thống Rodrigo Duterte tuyên bố sẽ không đề
cập tới phán quyết của PCA nhằm cải
thiện mối quan hệ thân hữu với Trung
Quốc. Món
quà quư giá này đă giúp Bắc Kinh kéo Mă Lai Á,
Việt Nam trở lại với chính sách thương lượng
song phương của Trung Quốc, đối chọi
với chủ trương quốc-tế-hoá tranh
chấp trên Biển Nam Trung Hoa. Thái
độ của ASEAN bộc lộ sự thất
vọng đối với Chính sách tái cân bằng Châu
Á-TBD của Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng
John Kerry.
Hai nhân vật này chỉ muốn yên thân trước
khi trao lại gánh nặng cho người kế
nhiệm nên không tận dụng sức mạnh
ngoại giao để kiềm chế Trung Quốc thay
cho sự thiếu vắng cơ chế của PCA. Được
thế, Bắc Kinh tung thêm ngón đ̣n kinh tế
(viện trợ không hoàn lại và tăng cường
đầu tư hạ tầng) làm cho 4 quốc gia duyên
hải Đông Nam Á nhũn như con chi chi và ASEAN
bị chia rẽ một cách công khai. Bắc
Kinh thua kiện lại được chính nguyên
đơn Manila chịu đầu hàng vô-điều-kiện
trong khi các nạn nhân khác cũng đua nhau quỳ
luỵ Trung Quốc. Chính
quyền Donald Trump không điều chỉnh chính sách
“ngoại giao kiên nhẫn” bằng lời nói bay bướm
mà hành động nhằm cảnh cáo Trung Quốc
chớ coi thường luật pháp quốc tế và
giẫm đạp lên quyền và lợi ích của các
quốc gia yếu hơn. Trump
đang ra sức củng cố các mối quan hệ
đồng minh và đối tác, đồng thời, xây
dựng các liên minh quân sự mới tại Châu Á-TBD
hầu có thể "cuốn chiếu tham vọng vô
bờ của Bắc Kinh". Cộng
đồng nhân loại muốn sống chung yên ổn và
phát triển cần có một hệ thống pháp
luật hữu hiệu để ngăn chặn t́nh
trạng cá lớn nuốt cá bé, cường quốc chèn
ép nhược tiểu, tôn trọng quyền lợi
của nhau. Mọi
tranh chấp (thực hay giả) nếu không thoả
hiệp được qua nhiều ṿng đàm phán
buộc phải đưa ra các toà án trọng tài
quốc tế để phân xử theo đúng luật
pháp hiện hành. Mạnh
và ác như Đức Quốc Xă, Đế quốc
Nhật Bản, Liên Xô vẫn sụp đổ v́ không
tuân hành luật pháp quốc tế. Trách
nhiệm bảo vệ và duy tŕ hệ thống luật
pháp quốc tế thuộc về nghĩa vụ của
mỗi người trong cộng đồng nhân loại
nếu muốn quả đất này là tài sản chung.
Đại-Dương |