Bối cảnh dẫn tới trận Hoàng Sa (Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng) |
Ngày 22 tháng 6, 1972 trong một buổi mật
đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai
ở Bắc Kinh, Cố vấn Mỹ Henry Kissinger đă
cho ông Chu biết rằng: "Nếu có một thời gian vừa đủ
giữa lúc chúng tôi rút quân và những ǵ xẩy ra sau
đó th́ vấn đề gần như chắc
chắn rằng có thể khoanh gọn, như chuyện
nội bộ của Đông Dương" và
"sau khi chúng tôi đă không c̣n can dự nữa th́
…rất ít khả năng chúng tôi sẽ quay trở
lại, rất ít khả năng." Như
vậy là ván bài Việt Nam đă được khoanh
gọn, và tới đầu năm 1974 th́ chắc TQ cho
rằng "khoảng thời gian vừa đủ"
đă chấm dứt: Bắc Kinh muốn trắc nghiệm
xem Mỹ có quay trở lại hay không. Cho
nên, ngay đầu năm, Trung Quốc đă lấn
chiếm Hoàng Sa. Dù
trong hoàn cảnh nghiệt ngă, Hải quân VNCH vẫn
chống trả. Ngày 18 tháng 1, Tổng thống Thiệu
bay ra tận Đà Nẵng, lấy giấy ra viết tay
thẳng cho Phó Đề đốc Hồ Văn
Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên
hải. Trên
đầu trang ông viết: 'Chỉ thị cho Tư
lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải': "Thứ
nhất là t́m đủ mọi cách ôn ḥa mời các
chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lănh thổ VNCH.
Thứ hai, nếu họ không thi hành th́ được
nổ súng cảnh cáo trước mũi
các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố th́
toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo
vệ sự vẹn toàn lănh thổ VNCH." Viết
lệnh xong, ông Thiệu cất giọng: "Anh
Thoại, đến đây và đọc trước
mặt tôi đây, có ǵ không rơ ràng th́ cho tôi biết
ngay từ bây giờ." T́m
hiểu thêm, chúng tôi được biết rằng sau
trận hải chiến, Tổng thống Thiệu đă
ra lệnh cho Không Quân VNCH bay ra Hoàng Sa oanh kích để
phản công, nhưng rồi lệnh được
rút lại. Tại
sao như vậy? Ngày nay th́ ta đă có chứng cớ
và văn bản để trả lời. Trước
hết về lệnh cho Không Quân ra khơi để
phản công, chúng tôi phối kiểm với Đại
tá Nguyễn Quốc Hưng, (Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành
Quân, Bộ Tư lệnh Không quân, phụ trách toàn
bộ 19 phi đoàn khu trục của VNCH) th́ ông đă
xác nhận là đúng. Trong
số những quân nhân tham gia phi vụ không kích này,
số nhân chứng c̣n sống hiện nay th́ ngoài ông
Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon) c̣n có các
Thiếu tá Phạm Đ́nh Anh (California), Đàm Tường
Vũ (Arizona), Vũ Viết Quư (California), và Hồ Văn
Giầu (Las Vegas). Ông
kể lại nhiều chi tiết, tóm tắt như sau:
vào 8 giờ tối ngày 19 tháng 1/1974, Tư lệnh Không
quân nhận được mật lệnh của
Tổng thống phải dùng phản lực cơ
chiến đấu siêu thanh F5-E để oanh kích
phản công địch trên đảo Hoàng Sa. Ngày
hôm sau đoàn phi công đă cất cánh hai lần để
ra khơi, một lần vào buổi trưa và một
lần buổi chiều, mỗi lần gồm hai phi
tuần. Nhưng
vừa bay được khoảng trên một trăm dặm
th́ nhận được đặc lệnh phải
quay trở về đáp và hủy bỏ ngay các phi
vụ không kích này. Lư
do là Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu
ngừng kế hoạch oanh tạc và nhấn mạnh
rằng sẽ không có "top cover" (yểm trợ
trong trường hợp bị phi cơ của Trung
Quốc từ Hải Nam lên không chiến) và cũng không
có "rescue" (cứu vớt nếu bị bắn rơi). Mật
điện Bộ Ngoại Giao Mỹ (19 /1/1974): Can ngăn
Tổng thống Thiệu Cùng ngày, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân VNCH bay ra Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để chỉ huy lực lượng tham chiến tại Hoàng Sa. Ngày 19 tháng 1 là ngày có trận hải chiến, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại gửi mật điện can ngăn Tổng thống Thiệu đừng đi thêm bước nữa.
Bức điện đó
như sau: Ngày 19 tháng 1/1974 Người gửi:
Ngoại Trưởng - Washington DC Nơi nhận: Ṭa Đại sứ Sài G̣n Mật điện
Bộ Ngoại Giao 012641 1. Xung đột quân
sự tại Hoàng Sa đă đưa đến thương
vong cho VNCH với hai chiến hạm bị tên lửa
STYX của Trung Quốc bắn ch́m. Chính phủ VNCH có yêu
cầu Mỹ giúp t́m kiếm và cứu vớt các
nạn nhân. T́nh h́nh thêm phức tạp v́ báo cáo là trên
đảo Pattle (do VNCH đóng quân) lại có một nhân
viên dân sự Mỹ làm việc cho Văn pḥng Tùy viên
ở Đà Nẵng. Chúng tôi không hiểu tại sao người
này lại có mặt ở đó. 2. Bộ Ngoại Giao
đă yêu cầu Bộ Quốc Pḥng ra lệnh cho
Hải quân Hoa Kỳ tránh khỏi khu vực này . Hai ngày trước
đây (17 tháng 1) chúng tôi có bàn luận với Đại
sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ ư
muốn của chúng tôi là t́nh h́nh phải được
hạ nhiệt… 3. Thông cáo của
Bộ Ngoại Giao gửi cho báo chí về vụ này
sẽ nói theo những điểm như sau: -- Chính phủ Hoa Kỳ
không đứng về phe nào trong việc tranh chấp
Hoàng Sa nhưng hết sức mong muốn là sự tranh
chấp được giải quyết trong ḥa b́nh. -- Lực lượng quân
sự Mỹ không dính líu ǵ vào xung đột này. 4. Chúng tôi đang yêu
cầu Ṭa Đại sứ ở Sàig̣n cố vấn
chính phủ VNCH chỉ nên có những hành động
tối thiểu để tự vệ và để
cứu vớt nạn nhân (và người nhân viên
Mỹ ở trên đảo) nhưng làm tất cả
những ǵ có thể để tránh đụng độ
trực tiếp thêm nữa với lực lượng
Trung Quốc. Việc mà VNCH hay chúng ta không cần chút nào
trong lúc này là đụng độ giữa Trung
Quốc và Chính phủ Việt Nam về mấy ḥn
đảo, dẫn tới vai tṛ bất chấp của
Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam. KHẨN - MẬT Hậu quả
của mật điện Hoàng Sa ngày 19/1/1974 thật là
lớn lao, nó dẫn đến t́nh trạng hỗn
loạn tại Biển Đông ngày nay. Để
mất Hoàng Sa và c̣n nhắn nhủ Trung Quốc
rằng Mỹ không có dính líu ǵ vào tranh chấp
hải đảo, rằng quân lực Mỹ đă
được lệnh rút ra khỏi vùng này. Như
vậy là Trung Quốc được tự do tung hoành.
Từ tung hoành tới lộng hành. Cái kẹt là sau khi
lộng hành với các quốc gia sở tại, Trung
Quốc lộng hành với chính Mỹ. Cho nên Mỹ
phải xoay trục để trở về với
Biển Đông.
|