Đảo Ch́m niên biên kư sự |
Mỗi năm hoa đào nở, lại thấy ông
đồ già…
Chuyến này về đến sân bay Nội Bài vào
một ngày cận Tết, cụ giáo ngẫn ngẫn
nḥm phố xá đông người qua. Cụ làm như
đi t́m ông đồ vẫn ngồi đấy, qua
đường không ai hay, thế nhưng va vào
mắt cụ là mấy chú ḅ vàng chụm đầu
vào nhau mặt mày “căng” thấy rơ. Cụ nghĩ
ắt hẳn là họ đang “điều nghiên”
đám người dân Thái B́nh đ̣i ruộng cày
bừa sắp biểu t́nh đâu đây? Hơ!
Cụ bụng bảo dạ với những người
muôn năm cũ…trước 75, những thương
phế binh xuống đường đ̣i đất
cắm dùi cũng ”vô tư” thôi, cứ “thỏa mái”…chạy
đầy đường. “Sự cố” này
ắt là phải hỏi chú em họ của cụ cho
ra nhẽ mới hả dạ. Cho đến ngày
về, nói dối phải tội chứ, chứ
mỗi lần nom nḥm mấy khuôn mặt nhăn nhúm
“hơi bị phản cảm”, cụ sợ thiêu cháy
dái. Nhưng ấy là chuyện sau.
Chuyện bây giờ với c̣n ai trồng
khoai đất này, cụ và chú em đều là…dân
Thái lọ.
Dào! Về chú em họ ư! Ừ
th́ lần ṃ về năm 54, trong khi cả nhà đang
lóng chóng chuyện “ri cư”, thầy bu thằng em
dẫn nó từ
Thái B́nh ṃ về dinh tê ở nhà cụ. Loanh quanh
mấy tháng đánh bi, đánh đáo, thế mà thân
nhau ra tṛ. Cụ rong ruổi đi, chú em lớ quớ
ở lại. Chuyến về thăm bản quán
dạo nọ, cụ đảo qua gặp người
anh em xă hội chủ nghĩa này, mới ớ chú ta
là phó biên tập tờ Nhân Dân. Ra cái điều nhà
giáo dầy chữ, cụ vén môi hỏi bỡn: Chú
làm ǵ mà…cây đa cây đề quá thế?.
Thằng em cười lủng lẳng: Báu
ǵ thưa bác, phó cối…th́ nào có khác ǵ tủ
lạnh chạy đầy đường!. Rồi
“đột biến” thằng em đốc chứng
hưu non, ngày ngày vật lộn với chữ nghĩa.
Cụ gặng hỏi cớ sự ǵ lạ nhẩy?
Chú em hâm hâm rằng: Khó nói
lắm bác, để ít nữa em sẽ…kinh qua
nhiều hơn.
Nghe thấy…kinh khiếp. Lu bu rồi hai anh em cũng
phớt đời quên tuốt.
Lần này vừa mở cửa chú
em ôm lấy cụ ”hữu nghị” thắm
thiết, trà đàm một chặp, chú em nó nháo nhác
xin kiếu v́ đến giờ phải đi
gặp…”người anh em”. Ngỡ nó là dân
cửu vạn quơ cào “tút” thuốc lá để
“chiêu đăi” cụ. C̣n chuyện sơn hà nửa
gánh giang sơn một chèo, bộ nó cho chó gặm xương
chăng? Đang lầng quầng, nó đưa xấp
giấy và nói, ngồi nhà, cụ cứ chịu khó
ngốn hết mớ chữ này là nó về ngay. Hai
anh em sẽ nón lá áo tơi ra quán chợ, trơ
vơ trên bến nước sông đầy, sầu
nghiêng mái quán mưa tong tả…
Xấp
giấy dầy tới mười trang có hơn!
Dầy khiếp! Chữ nghĩa chú em ǵ mà nhiều quá
thể, mà chuyện khỉ ho c̣ gáy ǵ đây chả
biết nữa? Vừa mới chong mắt qua mấy hàng
chữ nhún nhín, cụ chớ phở ra ngay v́ cái
thằng viết lách ǵ cứ như niên biên, kư
sự không bằng mà cụ th́ chúa ghét với niên
đại, niên kỷ. Chả nhẽ ngồi không búng
ghét đuổi ruồi, thế là cụ đành
bấm bụng tụng như…tụng kinh và đợi
chú em về để chén rượu men lành
lạnh ngón tay, ôn
lại những ngày mưa gió cũ…
***
Ôn
lại những ngày mưa gió cũ…Giời ạ! Cú
rằng có, vọ rằng không, ngay trang đầu chú
em của cụ đă “động năo động t́nh”
như thế này đây:
“…Năm 1958, ông Đồng là thủ tướng
lâu đời nhất hành tinh, ông ngồi lỳ
ở chức vụ đến nỗi ông Giầu
(Trần Văn Giầu) người ít làm mất ḷng
ai cũng phải mai mỉa: Cái
đít nó biết nhớ cái ghế. Chuyện là ông
công nhận chủ quyền Trung Quốc trên quần
đảo Ḥang Sa, Trường Sa bằng vào văn
kiện ngày 14 tháng 9 là sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung
Quốc”
Dào! Rơ ra văn bản trên th́ cụ
biết từ đời tám kiếp nào rồi. Nói
cho ngay, hồi ấy cụ đọc mà chẳng
“tiếp thu” cho mấy với 12 hải lư ven
biển có là bao, trong khi Ḥang Sa, Trường Sa
nằm xa tít mù khơi. Cớ sự ǵ cái nhà ông
thủ tướng gửi cái công hàm thừa thăi
đến ngớ ngẩn ấy. Nhưng qua mấy hàng
dưới đây cụ mới ăn vẹt ở ṃn
là…
Là theo công ước Liên Hiệp Quốc về
luật biển năm 1978, vùng biển 12 hải lư là
thuộc chủ quyên của nước đó. Cũng
trong 12 hải lư này, có thêm một ḥn đảo,
lại tích lũy thêm 12 hải lư nữa. Nếu có
một mỏm đá hay một mảng san hô nhô lên
khỏi mặt biển, dù nhỏ đến đâu th́
cũng có độc quyền khai thác tài nguyên vùng
trời phía trên, hay dưới đáy biển 200
hải lư. Nhờ bài viết của chú em, cụ
mới ḅn mót thêm ra rằng sau 24 năm. Tức là
từ năm 1954 có những chan tương đổ
mẻ của các quốc gia liên đới: Như năm
1978, khi không nước
Và văn bản của chú em “bài bản”
vấn đề…”nhạy cảm và tế
nhị” như sau:
10 giờ sáng ngày 19-1-1974 hải quân của chính
quyền VNCH khai hỏa v́ Trung Quôc mang tầu chiến
tới chiếm Ḥang Sa. Về phía ta, ông đại tá
trợ lư trưởng phái đ̣an quân sự bốn
bên đang họp với họ trong Camp Davis ở Tân
Sơn Nhất. Ông tiếp cận được là
Trung Quốc đă dùng vũ lực chiếm đảo
này với tổn thất của Ngụy quyền
miền Nam có 58 thủy binh hy sinh, với đầy
đủ chi tiết danh tính, danh hiệu như sau:
Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 bị trúng
đạn và ch́m, Hạm trưởng Thiếu tá
Ngụy Văn Thà ở lại chết theo tàu với
24 thủy binh hy sinh và 26 mất tích. Khu trục
hạm Trần Khánh Dư của Trung tá Vũ Hữu
San bị hư hại, 2 thủy binh hy sinh. Tuần dương
hạm Trần B́nh Trọng của Trung tá Phạm
Trọng Quỳnh bị hư hại nhẹ, 2 người
nhái hy sinh. Tuần dương hạm Lư Thường
Kiệt bị trúng đạn, 15 thủy binh được
coi là mất tích.
Là bộ đội chính quy, ông đại tá
bị kích động nên điện bản tin về
cho bạn ông trong Bộ ngọai giao tham khảo có nên
chính thức lên tiếng hổ trợ tinh thần chính
quyền miền
Chẳng phải đợi lâu, cụ giáo
lật trang kế tụng tiếp một đoạn
trong Nhật Kư Trần
Quỳnh, cựu tùy viên của ông Duẩn (Lê
Duẩn) kể lại:
“…Ngay sau khi Trung quốc chiếm Ḥang Sa,
Thủ tướng Phạm văn Đồng dẫn
một phái đ̣an sang Trung quốc xin viện trợ
gồm có Nguyễn Duy Trinh và tôi. Phái đ̣an đi
nhờ một máy bay của họ. Trung Quốc đă
dàn xếp để tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày hôm
đó đăng bài ca tụng chiến thắng Ḥang
Sa của họ và cố ư để tờ báo này trên
máy bay cho phái đ̣an ta đọc. Hôm sau gần đến
giờ hai bên gặp nhau, Chu Ân Lai thông báo cho phái
đ̣an ta biết là ông ta hơan cuộc tiếp
kiến một giờ đồng hồ và khuyến cáo
phái đ̣an ta trong khi chờ đợi nên xem
truyền h́nh. Trong một giờ để phái đ̣an
ta ngồi chờ đó, truyền h́nh Trung Quốc
chiếu cảnh một cô gái ngâm thơ ca tụng
chiến thắng Ḥang Sa của họ. Chương tŕnh
đặc biệt này được thực hiện
không phải để cho gần một tỷ khán
gỉa Trung Quốc mà chỉ để dành riêng cho
gần chục người của phái đ̣an ta.
Nhất là cho Thủ tướng Phạm văn Đồng
xem. Dù vậy, trong buổi họp chính thức với
Trung Quốc chiều hôm đó, phái đ̣an ta không
một ai dám đả động đến vấn
đề này…”.
Ngừng lại một chút, cụ lờ đờ
như đom đóm đực v́ với ông Phạm Văn
Đồng này cũng ấm ớ lắm chứ
chẳng chơi. Thảng như năm 54 kư hiệp
định chia đôi đất nước ở Vĩ
tuyến 17 tại sông Bến Hải. Sau này, ông thư
kư trong đoàn đàm phán Hiệp định Genève
tiết lộ: Về sau
Phạm Văn Đồng thừa nhận, khi
Cụ hong hanh nhớ ra ông đại tá trong Camp
Ngày 4-4-72, khi quân đội miền Bắc
tấn công Quảng Trị, người Mỹ cần
áp lực từ Bắc Kinh với Hà Nội. Kissinger
đă phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa,
đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp
Quốc để trao một “bức điện
miệng” nhắn Chu Ân Lai: Hải
quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại
tại khoảng cách mười hai dặm kể
từ quần đảo Hoàng Sa.
Cứ theo chú em vơ bèo vạt
tép th́ năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà
vợ Nguyễn Thị Nga, khi đang giỗ giấc
ngủ trưa và ông gối đầu lên đùi bà
để bà nhổ tóc bạc:
“Khi Nixon thương lượng với Trung
Quốc, nó đưa điều kiện nếu Trung
Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra miền Bắc
th́ Mỹ sẽ nhường đảo Hoàng Sa cho
Trung Quốc.
Trước kia Trung Quốc có hứa với ḿnh
nếu Mỹ đánh miền Bắc th́ Trung Quốc
sẽ can thiệp. Nhưng sau chuyến đi của
Nixon, Trung Quốc tuyên bố: Mi
không đụng đến ta, ta không đụng đến
mi. Tiếp đến, Mỹ cho máy bay B52, F111A
bắn phá liên tục 12 ngày ở Hà Nội, Hải
Pḥng và đê điều miền Bắc. Sau đó,
Chu Ân Lai gặp anh (Lê Duẩn) ở Hồ Tây. Ông ta
đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không
bắt. Anh nói: Các
đồng chí đă bán đứng chúng tôi. Các
đồng chí đă lấy xương máu chúng tôi
để trả gía Mỹ. Chúng tôi biết nhưng
chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến
cùng.
Khi tiễn đưa Chu Ân Lai, thay v́ ra tận chân
cầu thang máy bay, Lê Duẩn đă dừng lại
ở ngay cửa nhà ga sân bay Gia Lâm. Các quan chức VN
tất nhiên cũng phải đứng lại. Phái
đ̣an Trung Quốc và Chu Ân Lai gần như lủi
thủi bước lên máy bay đi về. Sau
chuyến đi này, Trung Quốc bắt đầu
“kiếm chuyện” trên vùng biên giới và mặt
biển.
***
Hơ! Kiếm chuyện ǵ nữa đây? Thế
là cái đầu cụ giáo được thể
cứ rối inh cả lên:
Năm 75, sau cuộc chiến thắng miền
Chỉ tội nghiệp cho ông Nghị, trước
đó ít lâu đă bị Mao Trạch Đông cóc cáy: Tên
ăn mày, lúc nào cũng ngửa bát đ̣i đ̣i xin
thêm.
20-12-1976 ông Duẩn chính thức thay ông Hồ,
từ bí thư thứ nhất cải danh là
“tổng” bí thư, quyền hạn như
“tổng thống” phía tư bản và nghiêng về
phía Nga Xô. Năm 1977, ông Duẩn trở lại Trung
Quốc một lần nữa và…xuống giọng
với Hoa Quốc Phong: Chúng
tôi như những đứa em nhỏ, luôn luôn sát cánh
bên những người anh. Cuộc đàm phán
mặc dù để nối lại bang giao và xin
viện trợ, nhưng Trung Quốc chỉ muốn nói
đến vùng biển Trường Sa, VN muốn thêm
vào Ḥang Sa. Hai bên thỏa thuận bằng cách không
nhắc tới một phân giới đặc biệt
nào, mỗi bên tùy tiện suy diễn theo cách riêng
của ḿnh. Chung cuộc vẫn chẳng đạt
được kết quả ǵ, giống như
kỳ trước lại về tay không.
Đến đây, cụ nổi trôi
với Ḥang Sa bị chiếm v́ người Mỹ lúc
ấy đă rút ra, với chiến thuật tầm
ăn dâu trước sau cũng đến Trường
Sa như họ khơi ra ở trên. Nhưng sao phải
đợi đến năm 1988?. Cụ lan man đọc tiếp th́ hóa
ra cớ sự ǵ cũng có đầu dây mối
rợ:
1-11-1978 ông Duẩn, ông Đồng
dẫn đầu phái đ̣an chính phủ sang Mạc
Tư Khoa để cùng kư bản hiệp ước
hợp tác và hữu nghị. Theo đó hai nước
liên minh với nhau về kinh tế và quân sự.
Điều 6 của hiệp ước này là:
“Nếu một trong hai nuớc bị tấn công, nước
kia sẽ dùng biện pháp quân sự thích nghi để
đối phó”. VN cho Nga Xô sử dụng hải
cảng Cam Ranh để đối đầu với
Hạm đội 7 của Mỹ. Ngay cả có thể
dùng Đà Nẵng làm đầu cầu quân sự
mong kềm chế Trung Quốc ṭan vùng nam Thái B́nh Dương.
Nga Xô mang vào Cam Ranh 25 chiến hạm kể
cả tầu ngầm cùng 16 oanh tạc cơ Badger,
một phi đội Mig 23 và phi cơ quan sát tầm
xa. Về nước ông Duẩn làm hai việc cần
kíp là dựng tượng Lê Nin ḥanh tráng cao cả
chục thước và sửa đổi hiến pháp
với trang đầu ghi: “Trung Quốc là kẻ thù
lâu đời và nguy hiểm nhất”. Trước
kia ông Duẩn khúm núm làm đàn em họ Hoa không
được th́ chuyến này, cũng qua Nhật Kư
Trần Quỳnh: “Nhờ cúi đầu rạp
xuống chào Brezhnew 2 lần, nên được
viện trợ gần 2 tỷ rúp”.
Năm 1982 Brezhev chết, đánh dấu sự suy
sụp ṭan diện kinh tế theo cùng hai lănh tụ
kế tiếp qúa già và bệnh tật. Người
kế vị là Gorbachev phát động cởi mở
với Mỹ, Trung Quốc và tái cấu trúc kinh
tế. Nhân lúc Nga Xô đang lúng túng, Trung Quốc
bắt đầu lấn áp với mộng bá
quyền. Từ năm 1982 tới 1985, Mỹ sửa
sọan rút ra khỏi căn cứ quân sự ở Phi
Luật Tân, đồng thời phối hợp
giữa kinh tế và quân sự, ng̣ai lư do dầu
hỏa, Trung Quốc tiến hành kế họach lâu dài
trên mặt biển được gọi là Viễn
dương pḥng vệ (Jinyang Funwu) do Tư lệnh
hải quân Lưu Ḥa Thanh (Liu Huaquin) thiết lập.
Trong đó giai đọan thứ nhất chiếm Trường
Sa lập tuyến ṿng đai ngăn chặn Mỹ
từ Đại Hàn xuống Phi Luật Tân, Đài
Loan. Giai đọan thứ hai sẽ nới rộng
tới Nhật Bản và Úc.
Giời ạ! Tới tao đoạn này, chú em
ăn mắm ngắm về sau như thế này đây:
Năm 1986 ông Duẩn bị bệnh nặng, ông
Thọ (Lê Đức Thọ) tới bệnh viện
đ̣i ông Duẩn viết “chúc thư” để
chức tổng bí thư cho ông ta nhưng ông Duẩn
không chịu. Ông Thọ t́m chỗ dựa nên t́m ông
Linh (Nguyễn Văn Linh) nói:
Kỳ đại hội này tôi sẽ sắp xếp
để cho đồng chí làm tổng bí thư.
Theo cuốn “Làm người đă khó, làm người
xă hội chủ nghĩa c̣n khó ơn” của Đ̣an
Duy Thành tiết lộ th́ việc ông Duẩn không
cất nhắc ông Thọ, có thể chỉ v́
chuyện bà Hồ Thị Nghĩa là bác sĩ. Bà
vừa là người t́nh của ông Duẩn, cũng
vừa là người chăm lo ông Duẩn ở
bệnh viện. Ông Thọ tới đây thăm ông
Duẩn lắm bận t́m cớ…“đụng
chạm thân mật” với bà Nghĩa nên từ
đó mới thành chuyện. Chuyện là theo bà Lê
Thị Muội, con gái ông Lê Duẩn, sau này cứ
thấy ông Lê Đức Thọ đến thăm
bố bà ở biệt thự số 7 Hồ Tây là ông
Lê Duẩn lại…“phẩy tay đuổi đi”.
Ông Lê Duẩn qua đời, người kế
nhiệm là Trường Chinh do ông Duẩn chỉ
định. Sau đấy Trường Chinh bị ông
Thọ ép từ chức và đưa ông Linh lên làm
tổng bí thư.
***
Cứ như chuyện Đổng Trác với
Lữ Bố hí Điêu Thuyền không bằng! Nḥm
xuống hàng dưới chả thấy lộn
thừng lộn chăo ǵ sất? Cụ giáo mặt
thuỗn ra: Ủa! Có một chuyện sao chú em không
đưa vào đây? Thôi th́ để lát nữa vê,
cụ sẽ kể cho chú em nghe.
Chuyện là lúc đầu người Lê
Duẩn chọn là Tố Hữu, nhưng ông thi sĩ
kiêm kinh tế gia v́ vụ “in tiền” để tránh
lạm phát ở miền
Chả hiểu bàn bạc vặt vănh ǵ mà
về đến nhà, bỗng nhiên tướng Tấn
gục xuống bàn. Bạn bè tướng lănh
chạy tới, trong đó có tướng Giáp. Một
ông tướng rất gần gũi với ông
Thọ, hỏi: “Tấn ơi, đứa nào hại
mày?”. Tướng Tấn được
đưa vào bệnh viện th́ mất.
Sau đến lượt tướng Hoàng Văn
Thái, lịch sử phi chính thống xếp những cái
chết này là “nghi án”. V́ khi tướng Tấn
mất, ông Thọ là người phụ trách Ban
bảo vệ sứ khỏe trung ương. Cơ
quan quyết định tới từng viên thuốc
cho các nhà lănh đạo.
Chả hiểu nghĩ sao cụ không dậu đổ
b́m leo nữa, v́ chuyện óc eo trên thể nào chú em
chả hay biết nên được xem như không…có.
Và cụ lại lót đót theo niên biên kư sự…
Ông Nguyễn Văn Linh bay qua Nga Xô nhận
chỉ thị: “Không đổi mới th́ chết”
của Gorbachev là bắt tay với tư bản và ḥa
hơan với Trung Quốc. Tháng 7-1987 ông Linh ra nghị
quyết số 2 gồm hai đề mục: Mục 1
rút câu Trung Quốc là kẻ thù ra khỏi trang đầu
của hiến pháp. Mục 2 là tránh đụng
chạm với quân đội Trung Quốc ở ng̣ai
biển Đông.
Ấy vậy mà nghị quyết chưa khô
mực, cứ theo chú em thao tác th́…
Th́ ngày 14-2-1988, Trung Quốc đưa 2 hạm
đội với 4 tàu chiến tới Trường
Sa. Ngày 15-4-1988, tàu HQ 505, HQ 604, HQ 605, và HQ 701 của ta
tới đảo ch́m Đá Lớn, Cô Lin, Len Đao và
Gạc Ma. Sáng 14-3-1988 tiến đến gần đảo
Gác Ma.
Sáng hôm ấy, một tổ 3 người trên tàu
HQ 605 được lệnh Trung tá Trần Hữu Thông
cử lên đảo Gạc Ma bảo vệ quốc
kỳ. Hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm
và 40 quân đổ bộ lên đảo. Trước
đó không ai nghĩ Trung Quốc sẽ bắn.Trung
Quốc bắn chết Thiếu úy Nguyễn Văn Phương
và chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, đâm
trọng thương Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh.
Từ chiến hạm của ḿnh, Trung Quốc bắn
pháo 100mm làm ch́m tàu HQ 604, Đại úy thuyền trưởng
Nguyễn Phi Trứ và nhiều sĩ quan, chiến sĩ
đă hy sinh. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ HQ
505 cho ủi băi lên đảo Cô Lin nhưng bị
bắn ch́m. Cùng ngày tàu HQ 605 cũng bị tàu Trung
Quốc bắn ở đảo Len Đao. Thủy
thủ đoàn bơi về đảo Sinh Tồn. Các
chiến sĩ hải quân chỉ được trang
bị súng AK, nhưng khi lên đảo họ cất súng
vào kho v́ trước đó không ai nghĩ Trung
Quốc sẽ bắn. Trung Quốc đă bắn như
văi đạn vào những người lính đang
đứng giữa đảo, trong tay không một
tấc sắt.
Hải quân chịu tổn thất: 3 tàu bị cháy,
64 sĩ quan, chiến sĩ hy sinh, 11 người bị
thương. Nhưng chủ quyền tại các đảo
Cô Lin và Len Đao đă đuợc bảo vệ.
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma. Riêng tàu HQ
701 không bị thiệt hại v́ đă được
lệnh lao thẳng cắm đầu vào đảo ch́m
Đá Lớn, lấy cả con tàu làm bia chủ
quyền.
Đến nước nôi này, cụ giáo phát
hiện ra đoạn viết đầy “ấn tượng”
của chú em:
Không quân VN cũng có tham dự, có
viên trung úy nằm vùng Nguyễn Thành Trung nay là đại
tá. Trong khi ấy cùng 2 Mig của Trung Quốc đang
bay thị uy trên trời, v́ không đủ xăng, máy
bay cả hai bên chỉ ở lại hai, ba phút rồi
bay về. Vậy mà không một phản ứng
quốc tế nào, kể cả Nga Xô với điều
6 của bản thỏa ước liên minh quân sự
với VN.
Từ nhóm đảo này, Trung Quốc
dần dần chiếm thêm những ḥn đảo
nhỏ khác. Để từ đó có thêm những vùng
EEZ 200 hải lư chung quanh để thăm ḍ dầu
hỏa…
Cụ giáo lẫn đẫn thêm nữa th́: Trong
trận Hoàng Sa, Phó Đề đốc Hồ Văn
Kỳ Thoại cho hay Đệ Thất Hạm đội
của người Mỹ ở gần đấy nhưng
án binh bất động, ngay cả không cứu
vớt 15 hải quân VNCH bị đắm tàu của
tuần dương hạm Lư Thường Kiệt.
***
Nhà chú em nóng như luộc, ngồi sưng
cả đít. Vậy mà mắt cụ cứ dính vào
chữ, làm như 36 cái răng đóng trăng cái lưỡi,
v́ dường như chú em đang nhỏ to với
cụ…
Cuối năm 1977, ông Duẩn thăm Cần
Giờ, được nhà báo hỏi về t́nh h́nh
biên giới Việt Miên, ông trả lời: Nếu
chúng ta đánh Miên, Trung Quốc đánh ta thôi. Ngày
29-1-1979, Đặng Tiểu B́nh đến
Tiếp, chú em tháo động những diễn
biến với niên đại, niên kỷ…
Đặng Tiểu B́nh vừa mới chỉ
được phục hồi chức vụ phó
thủ tướng là đă sửa soạn đánh
chiếm Hoàng Sa. Tháng 1-1974 Hoàng Sa của VNCH bị
đánh. Tháng 9-1975, ông Duẩn qua Bắc Kinh xin
viện trợ trong cái tâm trạng ngoảnh mặt
sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở
sợ Tề ghen. Tuy nhiên ông cũng đă yêu cầu
Đặng Tiểu B́nh đàm phán vấn đề
Hoàng Sa, nhưng đă bị Đặng Tiểu B́nh
từ chối. Đồng thời v́ ông Duẩn không
chịu kư thông cáo chung “chống bá quyền
Năm1975, miền
Ngày 19-1-1974, tướng Vơ Nguyên Giáp nghe tin
miền
“Kịp thời đánh chiếm lại các
đảo vùng Nam Hải (Hoàng Sa). Đặc biệt
là đảo Nam Sa (Trường Sa). Việc này
chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để
cán bộ có trách nhiệm biết”.
Và nhắc nhớ thêm:
“Chỉ đánh các đảo quân Ngụy
miền
Ngày 11-4-1975, Hải quân miền Bắc đă
giải phóng Trường Sa.
***
Đầu óc cụ rỗng rễnh thế nào
ấy, bỗng dưng gặp lại hai chữ Trường
Sa, cụ ngẫn ngẫn qua một bài viết mới
đây của một anh lính thú gác đảo trên
biển ở trong nước:
“…Trước khi đến xứ Đảo
Ch́m, tôi muốn mời bạn đọc ghé qua
một ḥn đảo nổi. Lính Đảo
ch́m gọi là Thủ đô Trường Sa. Thủ
đô Trường Sa là một ḥn đảo rất
bé. Nó chỉ là một vũng cát lờ phờ, to
chừng cái nong phơi thóc, vừa đủ chỗ
để dựng một cái lều bạt dă
chiến. Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương
cũng đă đến đây, đă ngủ một
đêm trên ḥn đảo này trong một chuyến
đi tuần biển. Chiều ấy, ngồi bên Tư
lệnh trên mặt cát nóng bỏng như rang, mặc
dù mặt trời đă lặn xuống biển
từ lâu rồi, anh lính
trẻ quê xứ Nghệ
coi Tư lệnh như một người đồng
đội thân thiết. Anh lắc lắc đầu
gối Tư lệnh: Và
sáng sớm hôm sau, khi Tư lệnh đánh xuồng
trở lại đảo th́ thấy anh chàng xứ
Nghệ đang cởi trần, ś sụp lặn
ngụp cùng với chiếc xẻng. Nhưng anh không xúc
cát đổ xuống biển, mà lấy cán xẻng
khẽ bẩy từng tảng đá ch́m sâu dưới
mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên,
đắp quanh chân đảo, giữ cho cát khỏi
bay. Anh
lính cười khục khục, gương mặt
nhấp nhoá nước. -
Mà, mà, đúng ra, đúng ra con chỉ "buông
neo" cho Tổ quốc khỏi bị trôi đi thôi!...”
***
Và cụ lại quắn đầu với Trường
Sa c̣n đang rối rắm th́ cụ như lươn
bị bỏ giỏ cua của chú em. Và chú em họ
cụ như giỏ có quai, chài có chóp như thể
như thế này đây:
25-4-1988, chính phủ miền Bắc đă dựa
vào văn kiện của chính phủ miền Nam trước
kia qua Ngọai trưởng Trần văn Đỗ công
bố chủ quyền đất nước tại
Hội Nghị Ḥa B́nh Thế Giới ở San Francisco
năm 1951. Trong kháng thư chính phủ ta ghi rơ:
“Sau hội nghị, năm 1956 chính quyền Sài
G̣n đă tiếp quản Ḥang Sa, Trường Sa khi Pháp
rút khỏi Đông Dương. Quần đảo Trường
Sa có hơn 200 đảo, cồn đất, mỏm
đá, san hô, chính quyền miền Nam đă tiếp
quản được hơn 30 đảo lớn
nhất. Sắc luật hành chánh của chính phủ
miền Nam đă đặt Ḥang Sa trực thuộc
tỉnh Quảng Nam và Trường Sa thuộc tỉnh
Phước Tuy và cho binh lính hải quân cũng như
truyền tin đóng ở đấy”.
Quan hệ giữa Mỹ-Nga mỗi ngày một
thắm thiết nên Trung Quốc thấy cần
phải dễ dăi hơn với VN hơn. Ngay trong ngày
quốc khánh 2-9-1990 VN, họ mời ông Linh, ông Mười
(thủ tướng Đỗ Mười) sang họp
bí mật gấp chuyện thỏa hiệp giữa hai
nước kèm theo lời khuyến cáo: “Các đồng
chí đến đây không nươc nào biết. Chúng
tôi cảnh giác các đồng chí vấn đề này”.
Đặng Tiểu B́nh cho mời cả ông Giáp và
“cố vấn tối cao” của chính phủ là ông
Đồng nữa. Nhưng không có ông Nguyễn Cơ
Thạch, người mà Trung Quốc đă đặt
ra ŕa trong các cuộc tiếp xúc song phương.
Tới Bắc Kinh, đồng đẳng với ông
Giáp là Bộ trưởng quốc pḥng Diệp
Kiếm Anh đă không ra sân bay đón. Ông Giáp ngỏ
ư muốn gặp Dương Đắc Chí, người
chỉ huy trận chiến biên giới Việt-Hoa năm
1979 như một thiện chí ḥa giải. Nhưng Dương
Đắc Chí từ chối một cách khinh miệt,
công khai nói là mồ của binh sĩ chết ở biên
giới chưa xanh cỏ, ông ta không thể gặp
được những người phản bội. Tướng
Giáp gần như đă bị làm nhục trong
suốt chuyến đi này.
Người bị mất mặt nhất là ông
Đồng, ông tỏ t́nh hữu nghị ôm hôn
thắm thiết Phó Thủ tướng Trung Quốc Lư
Tiên Niệm, mấy phút sau Lư Tiên Niệm chính
thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng với
Công hàm 1958”. Cũng chẳng giấu giếm, Đặng
Tiểu B́nh lánh mặt không muốn gặp ông Đồng,
cũng không thèm gửi lời giải thích hay chào
mừng, ngay cả bằng điện thọai. Lư do
từ “bài học” dành cho VN năm 79 không thành công
như ư muốn nên họ Đặng vẫn cay đắng,
không nhiệt t́nh ủng hộ việc kết thân
với VN. Hơn nữa với cuộc chiến ở
biên giới ấy, VN c̣n chế diễu vóc dáng
của Đặng Tiểu B́nh bằng câu nói trong
những buổi học tập nội bộ: “Chính
trị Trung Quốc không cao hơn Đặng Tiểu
B́nh”.
Trước khi đi ông “cố vấn tối
cao” đồng t́nh với ông Linh là sẽ nhượng
bộ tối đa. Cả phái đ̣an hùng hậu
chỉ được thứ trưởng ngoại
giao tiếp, ông Đồng chưa kịp lên tiếng
th́ đă bị họ chỉ trích rằng năm 1958,
ông Đồng đă công nhận chủ quyền
của họ trên quần đảo đó sao nay
lại tiếp quản mấy ḥn đảo…”nhỏ”
ở Trường Sa?”.
Ông Đồng trả lời gượng
gạo và kết cuộc chẳng đạt được
ǵ khả quan. Về lại bộ chính trị, ông
Linh và ông Đồng căi nhau và ông Linh đổ
lỗi cho ông Đồng chính là người kư văn
kiện 1958 chấp nhận biên giới lănh hải
của Trung Quốc, ông Đồng bào chữa: Lúc
đó thời chiến tranh nên tôi phải làm thế.
Và thú nhận là: Ḿnh
hớ và dại.
Cụ thầm nhủ
rằng chuyện…chính trị chính em ǵ mà cứ như
phường tuồng ấy?
V́: “Các đồng chí đến đây không nước
nào biết”. Ấy
vậy mà khi phái đ̣an về, c̣n đang ngồi trên
máy bay th́ “Chính trị Trung Quốc không cao hơn
Đặng Tiểu B́nh” đă
tung tin phái đ̣an sang cầu cạnh. Cụ lắc
đầu chịu chết nghĩ không ra?
Rồi bỗng dưng không đâu cụ ḥai
niệm đến Lê Chiêu Thống sang Tàu cầu
viện. Vua Tàu bắt vua Ta đợi từ giờ
ngọ đến giờ dậu. Mồ cha không khóc
lại khóc cái tổ mối, cụ…ḥai cảm ông
Giáp, ông Đồng…ngồi đồng có được
họ chiêu đăi cao lương mỹ vị như
Tổng thống Nít-Xân chăng? Hay là bị bỏ
đói như vua Lê ḿnh th́ cũng rơ khổ.
Trong cơi mụ mị với bẩy mươi chưa
què, chớ khoe rằng trọn, nên cụ ngậm ngùi
nhai văn nhá chữ tiếp cho phải đạo
với…văn dĩ tải đạo của chú em:
Năm ông Mười lên làm tổng bí thư,
15-2-1992 Trung Quốc công bố luật hàng hải
của họ bao gồm gần hết biển Đông
và đe dọa: “Sẽ
dùng quân sự để ngăn chặn những vi
phạm chủ quyền của Trung Quốc”. Cùng
với lời công bố, cũng như để
dằn mặt, họ cho quân chiếm đảo Ba
Đầu trong quần đảo Trường Sa.
Tiếp đến, họ chính thức mạnh
mẽ cảnh cáo VN: “Không nên làm điều ǵ gây
phương hại cho t́nh hữu nghị mới tái
lập”. Ba tháng sau ông Mười sang gặp Giang
Trạch Dân tại ṭa Nhân Dân Đại Sảnh
ở Bắc Kinh. Cũng ngay lúc đó, ngay ở pḥng
bên cạnh, họ đang kư kết với hăng
thầu Crestone của Mỹ khai thác dầu hỏa
trong vùng đảo Tu Chính, nơi hai nước đang
tranh chấp. Ông Mười không có phản ứng nào
về việc này. Trái lại v́ “Nh́n nét mặt anh
Hai Trung Quốc”, v́ “Mặt trời ở xa (Nga Xô),
Trung Quốc ở gần” nên vẫn thành khẩn cám
ơn họ về…những giúp đỡ quư báu trước kia.
27-5-1992, Trung Quốc cắm mốc chủ
quyền đảo Đa Lạc trong quần đảo
Trường Sa thuộc nước họ. Mặc dù
đảo Đa Lạc chỉ là một trong những
đảo ch́m (*), nhưng hành động lấn át
của Trung Quốc gây cuộc tranh luận gắt gao
trong bộ ngọai giao, ông Mười lập
luận: V́ Trung Quốc cũng
là nước xă hội chủ nghĩa, chúng ta
cần phải liên kết với họ, nên bỏ qua
những xích mích nhỏ nhặt. Ông Cầm (Bộ
trưởng ngọai giao Nguyễn Mạnh Cầm)
phản đối: Chúng ta
nỗ lực duy tŕ quan hệ với Trung Quốc. Nhưng
đồng thời cũng phải bảo vệ
chủ quyền và ṭan vẹn của lănh thổ.
***
Ngúc ngắc với Đa Lạc là đảo ch́m,
cụ lại quay quả với bút kư của anh lính
thú xứ Nghệ gác đảo trên biển ở
trong nước đang lờ phờ trong đầu
cụ:… -
Cậu lính trẻ vỗ vai tôi, nói nhỏ: ṿm
mây hoang vu, khô héo. Đảo đâu? Trên
quầng xanh rờn rợn ấy, xập xoè một
lều bạt. Cái lều hoang sơ, ngơ ngẩn như
lều vịt. Mái lều trũng xuống v́ phân chim.
Những vệt phân lâu ngày trắng xoá. Đảo
đấy! Nó là cái dải nước xanh phơn
phớt nằm dưới chân lều bạt. Thế
mà trong sách địa lư, người ta lại định
nghĩa: Đảo là một khoảng đất nhô
lên giữa biển khơi, bốn xung quanh là sóng gió,
mây nước. Bịa! Toàn là bịa! Làm ǵ có
chuyện hoang đường như thế, hăy nh́n
một sự thật đang lồng lộng hiện
ra ở phía trước mặt kia ḱa: Đảo
ch́m.
Già rồi, lợn đầu cau cuối th́ cũng
phải quay về xấp giấy nhuôm nhuôm của chú
em thôi. Và chú em cụ buông tuồng như dưới
đây:
Năm !997, ông Phiêu (Lê Khả Phiêu) thay ông Mười,
thêm một lần bị Trung Quốc vỗ mặt.
Họ đem dàn khoan nổi Kantan cùng hai tầu thăm
ḍ 206 và 208 kéo tới Trường Sa và thành lập
trung tâm du lịch trên đảo Đông Hưng ở
Ḥang Sa. VN phản đối bằng miệng nhưng
vô hiệu. Thế nhưng cuộc thương
thuyết về biên giới và mặt biển đă
được ông Phiêu sọan thảo từ lúc
nhậm chức, và…không tham khảo với bộ
ngọai giao.
Đầu tháng 12-1999 thỏa ươc này thành
h́nh, Bộ trưởng ngọai giao Nguyễn Mạnh
Cầm đành miễn cưỡng kư kết tại Hà
Nội. Cho đến nay, chính phủ VN không dám công
bố công khai, quốc hội mang tiếng là đă thông
qua thỏa ước đó, nhưng hầu hết
chẳng ai được biết nội dung thỏa
ước ấy, ngay cả bản đồ biên
giới hai nước vẫn c̣n che giấu.
Thỏa ước được ḥan
tất nhờ những nhượng bộ của ông
Phiêu, V́ ông hứa với Gianh Trạch Dân sẽ
giải quyết vấn đề biên giới trước
năm 2000 và mặt biển vào năm 2001. Về biên
giới bao gồm 314 cột mốc th́ có…142 cột
lấn sâu vào lănh thổ VN.
C̣n mặt biển tính theo đường ranh
giới Brevié cũ của hiệp ước Pháp-Hoa năm
1887 th́ ở vịnh Bắc Việt mất đi…hơn
10 ngàn cây số.
Dào! Lợn rọ chó thui ǵ chẳng biết
nữa, chú em khuềnh khoàng cóc cáy thêm:
Ngay sau đó ông Trần Khuê bị bắt v́
phổ biến điện thư trên mạng gửi
Giang Trạch Dân phản đối thỏa ước
này. Tiếp, Luật sư Lê Chí Quang với bài tham
luận Cảnh giác Trung
Quốc và tiết lộ chi tiết việc nhường
đất và biển. Nguyễn Vũ B́nh bị gán
tội gián điệp với bài viết Suy
nghĩ về thỏa ước Việt-Trung. V́
nghe nói biên giới bao gồm 314 cột mốc th́ có
142 cột lấn sâu vào lănh thổ VN., Bùi Minh
Quốc tới tận ải Nam Quan xem cột mốc
mang số 18, có tên Trấn
Nam quan ngoại theo các biên bản phân giới công
ước Pháp - Thanh 1887 có bị rời 100 thước
hay không th́ cũng bị túm tó luôn.
Đại tá Lê Minh Nghĩa, Chủ
tịch ủy ban biên giới của VN, phụ trách
đàm phán với Trung Quốc tiết lộ: “Sau
thế chiến thứ II, Trung Quốc luôn luôn
muốn bành trướng lănh thổ của họ.
Họ từng bước thực thi chiến lược
lấn đất của họ, trừ khi có cuộc
đề kháng của ta”. Ông trưng ra thác Bản Giốc ḥan ṭan
thuộc VN, theo sách Địa
chí Cao Bằng mà nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia năm 2000 ghi
rơ thuộc Đàm Thúy, huyện Trùng Khánh. Nhưng
đă bị Trung Quốc sát nhập vào đất
họ từ năm 1979.
Tŕnh về trung ương, ông Phiêu phủi tay: Chuyện
cũ rồi. Mà những ǵ bộ chính trị đúc
kết đúng là đúng.
Ông Phiêu có ba cái nhất là lệ thuộc vào
Trung Quốc nhất. Nhượng đất đai và
mặt biển cho Trung Quốc nhiều nhất.
Tổng bí thư cũng ngắn nhất, chỉ có hơn
3 năm. Ông Phiêu bị mang ra bộ chính trị
kiểm điểm và bị hạ bệ v́ ng̣ai
chuyện cất chức cố vấn của ông Mười,
ông Anh. Lại c̣n đặt máy điện thọai
nghe lén 2 ông này. Nhân báo Tiền Phong, tháng 2-2991,
cục A25 của công an chuyên ngành báo chí bắt
được gián điệp cho Trung Quốc là
Phạm Văn Dũng và “hai nữ đồng
bọn”. Ngay sau đó ông Mười cho phổ
biến bản báo cáo ông Phiêu có t́nh nhân là Đặng
Diệu Hà, nay đang giao lưu với cô em tên Đặng
thị Thu Hà và bạn cô này Vũ thị Dung.
Cả hai nữ đồng
bọn vừa bị bắt v́ hoạt động
cho…”ngọai quốc”. Xong chuyện, ông Mười
xoa tay: Nó đá tao, tao
đá nó.
***
Nhiệm kỳ ông Mạnh (Nông Đức
Mạnh) làm tổng bí thư, ông Dũng (Nguyễn
Tấn Dũng) làm thủ tướng, như thông
lệ giống mấy lần trước ông Mạnh
qua thăm Trung Quốc để nhận khuyến cáo
và cũng để họ mượn dịp biểu
dương thực tế.
Và ông Mạnh gọi đó là “Một
chuyến đi lịch sử”.
Chuyện lịch sử là sau khi phê
chuẩn hiệp ước phân định vịnh
Bắc Bộ Việt ngày 15-4-2004. Ngày 19 tháng 11, Trung
Quốc biểu dương thực tế bằng cách
dùng tầu Nam Hải lại kéo dàn khoan nổi Kantan 3
đến vùng biển tranh chấp. Tệ hại hơn
nữa, khi ông Dũng đang tham luận với Vơ
Đại Vỹ về biên giới biển trong hai ngày
27 và 28 tháng 12 cùng năm, họ loan báo trên đài phát
thanh bắt giữ 9 tầu đánh cá và 80 ngư
phủ VN. Hai tuần sau, đài BBC loan tin trong đêm
9-1-2005, tầu tuần họ bắn chết 8 ngư
phủ.
Báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ tường
thuật là “Tầu lạ mang cờ nước ng̣ai”.
Ngày 3-7-2007, ông Dũng họp với Ôn Gia Bảo
về vành đai bờ biển dọc theo vịnh
Bắc Việt, một tầu đánh cá VN bị
hải quân Trung Quốc bắn chết một ngư dân
và làm bị thương nhiều người khác.
Họp xong, chính phủ VN ra thông cáo:
“Nhất trí nghiêm chỉnh nhận thức chung,
xử lư thỏa đáng trên biển, ǵn giữ
ổn định biển Đông ở cấp cao hai nước”.
Cụ nhăn mặt với
những…quan chức cầm đầu cả nước
ǵ mà “nhất trí” ít học, thiếu “cơ
sở văn hóa” với “xử lư”, “cấp
cao” như vậy, thi chú em đă bới bèo t́m
bọ thêm:
Những người chủ trương nhượng
bộ để cầu ḥa, mong giữ vững chế
độ và quyền lực của phe nhóm và ngay
cả quyền lợi của chính họ là ông Linh, ông
Anh, ông Mười và ông Phiêu. Hai nước chính
thức quan hệ ngọai giao khi ông Mười và ông
Kiệt sang Trung Quốc vào tháng 11-1991. Theo thời
gian, với kinh tế dính liền với quân sự,
Trung Quốc đă thay đổi v́ dân số tăng
gia, họ nh́n biển Đông như một nguồn
dầu hỏa khổng lồ mà theo họ gọi là
“Vùng không gian sinh tồn mới”. V́ vậy mỗi lần có tranh chấp, phái
đ̣an VN lại bối rối khi Trung Quốc…thu
hồi đất cũ là Ḥang Sa từ năm 1974, chính
phủ VN không có một lời phản đối. V́
đảo cũ này, họ đưa ra luận cứ
rất vu vơ là họ khám phá ra từ đời…nhà
Hán, người Hoa đến Ḥang Sa từ đời…nhà
Tùy.
Sau khi họ đánh Trường Sa vào năm
1988, Bộ ngọai giao khuyến nghị chính phủ:
“Mặc dù Trung Quốc là nước xă hội
chủ nghĩa nhưng họ chỉ nghĩ đến
quyền lợi của họ”. Nhờ tiếp thu
rộng răi với nước ng̣ai tân tiến, cũng
ngay sau năm 1988, ông Bộ trưởng ngọai giao
Nguyễn Cơ Thạch đă đề xuất
với Bộ chính trị chính sách ngọai giao
mới là “phá thế bao vây”
với lời lẽ: Chúng
ta chẳng thể giữ măi suy nghĩ của 40 năm
trước, là chỉ có phe xă hội chủ nghĩa
mới quyết định sự phát triển của
ḷai người. Mà chúng ta không nên phủ nhận thành
tựu của phe tư bản trong 200 năm vừa
qua.
Do
một số nhà ngọai giao tiết lộ v́ bất
măn với Bộ chính trị “lúc nào cũng phải
nh́n theo nét mặt của anh hai Trung Quốc”,
trong văn kiện đáp lại qua cuộc tranh
chấp vừa rồi, ông Thạch công nhận có lá
thư của ông Đồng nhưng lập luận:
“Trong bối cảnh lịch sử cuộc chiến
đấu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai
quần đảo trên biển Đông. Lời tuyên
bố của nhà lănh đạo chúng tôi với qúy
quốc trước kia là cần thiết. Điều
đó không liên quan ǵ đến nền tảng pháp lư
và lịch sử về chủ quyền của VN trên
hai quần đảo Trường Sa và Ḥang Sa”.
Và đưa ra luận chứng của Odgaard:
“Việc khám phá ra một ḥn đảo thật ra không
có nghĩa là có chủ quyền ở đảo đó.
Trung Hoa không có một họat động hành chính, quân
sự hay bất cứ điều ǵ khác trên vùng
đảo Trường Sa trước năm 1988”.
Để trả lời đất cũ của
họ từ đời nhà Hán, nhà Tùy, phát ngôn viên
bộ ngọai giao đưa ra chứng tích cùng
cổ vật qua báo Sài G̣n Giải Phóng. Báo này
đăng một bài biên khảo của Hà Văn
Tấn, Viện trưởng Viện Khảo Cổ
viết là đă đào được những di tích,
di chỉ đồ sứ của VN từ thế
kỷ 13 ở các đảo Nam Nết, Song Từ Tây,
Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Pha Vinh, An Bang để
chứng minh chủ quyền lâu đời của VN
trong vùng Trường Sa. Trung Quốc phản đối
th́ trống đánh xuôi kèn thổi ngược,
lấn lướt qua Bộ ngọai giao, Bộ chính
trị đổ lỗi là: “Chỉ là tin tức
của báo địa phương”.
Trắng mắt như con tinh,
cụ nh́n trang giấy kế tiếp của chú em ḷi
tói ra…tin tức địa phương về đại
sứ Trung Hoa tại Hà Nội là Trương Đức
Duy, vốn là thông dịch, rất thạo tiếng
Việt. Ông lục lọi Sách giáo khoa địa lư
lớp 9 phổ thông của Bộ giáo dục VN
viết:
“…Từ những quần đảo Nam Sa, Tây
Sa, Hải Nam, Đài Loan, cụm đảo Bành
Hổ, cụm đảo Chu Sơn là h́nh cánh cung
tạo nên bức Vạn lư trường thành Trung
Quốc…”. Mẫn Lực, tác giả Mười
năm chiến tranh Trung Việt, trang 138 viết:
“Những bản đồ trong sách giáo khoa đều
in rơ những ḥn đảo Tây Sa, Nam Sa đều là
lănh thổ của Trung Quốc”. Trang 55 viết: “Năm
1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đă thông báo cho Thủ tướng Châu Ân Lai rơ ràng
xác nhận hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa thuộc
Trung Quốc”.
Chẳng phải đợi mười năm
chiến tranh Trung Việt. Năm 1987, một biên
tập viên tờ Tuổi Trẻ phản hồi: “Hơn
nữa, lời văn của bản tuyên bố
của ông Phạm Văn Đồng không hề nói rơ
ràng minh bạch là công nhận chủ quyền của
Trung Quốc trên đảo Hoàng Sa. Bức công hàm
chỉ nói: “Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định
ấy (ấn định lănh hải 12 dặm của
Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lư của Trung
Quốc mà thôi”.
Và Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ bị
mất chức v́ câu dưới đây của người
biên tập:
“Ông Phạm Văn Đồng chỉ là người
thừa hành chứ không phải là tác giả Công hàm
14-9-1958. V́ trước khi kư công hàm này, ông Phạm Văn
Đồng có đưa vấn đề ra bàn ở
“cấp cao nhất” nữa. Cấp cao nhất này không
ai ngoài ông Hồ Chí Minh”.
***
Đọc
đến đoạn “Bùi Minh Quốc mầy ṃ
tới tận ải Nam Quan xem có đúng là cột
mốc có bị rời 100 thước hay không th́ cũng
bị túm tó luôn”. Ấy vậy mà chú em vẫn chưa
về, đến giờ ra phi trường vào
Vừa tiêu pha th́ giờ…cụ vừa dông dài
suông đuột là vào Sài G̣n, thể nào cụ cũng
đi dọc theo con kinh Nhiêu Lộc - Thị Nghè t́m
con đường có tên: Hoàng
Sa để chụp một tấm ảnh. Nhưng
cụ vội bỏ ngay ư định dại dột
ấy đi, v́ gần đây nhà thơ Lư Đợi
cũng chỉ v́ chụp tấm bảng tên đường
ấy mà bị nhúm đấy thôi.
Trên đường ra sân bay Nội Bài trong
một ngày cận Tết,
bên phố vắng người qua. Qua đường,
không ai hay, cụ chỉ hay biết nhăm chú ḅ vàng
hôm nảo hôm nào đang chúi đầu vào nhau đọc
báo về Hoàng Sa, Trường Sa th́ phải. Thấy
mặt mũi mấy chú nhăn nhúm “hơi bị căng”
thấy rơ, nh́n đă thấy “hoàn cảnh”,
bụng dạ cụ nhói lên một cái như bị
thốn hay là chú em Thái lọ bị cùm rồi cũng
nên. Tên nhà thơ Lư Đợi như một gợi
nhớ, cụ hong hanh nhớ đến bài thơ
của nhà văn, nhà thơ Trần Mạnh Hảo có
cái tựa đề dài ngoằng ngoẵng V́
biểu t́nh phản kháng Tàu chiếm đất
của Ta mà bị bỏ tù. Cùng thi tứ, ông nhà
thơ này giải luận ra rằng: “Nếu như
vua Quang Trung, Lê Lợi có sống dậy cùng dân
chống Tàu xâm lăng th́ cũng bị bắt
chứ họ chẳng kiêng nể một ai”.
Dào! Nhà thơ, nhà văn ǵ mà nhiều quá
thể, chả thấy nhà xác,…nhà tù đâu và
cụ nghĩ vậy. Chưa kịp nghĩ tiếp th́
trong một chốn đi về, chợt cụ u u minh
minh mờ nhân ảnh tới hai cụ vua Lê Lợi,
Quang Trung đang cỡi voi hướng về “quăng trường”
Ba Đ́nh để cùng dân đi biểu t́nh
chống Tàu xâm lăng. Và đang đi vào…nhà tù
Hỏa Ḷ!
Hơ! Bỗng khi không nom nḥm thấy mấy chú
ḅ vàng là cụ sợ như ḅ thấy nhà táng!
Thế là cụ len lén giấu biến xấp giấy
của chú em vào cái túi xách tay và chỉ ngóng về
đến nhà ôm lấy cái bàn gơ để mơ
sớm chuông chiều, để quân tử hiếu
cổ với một chút tâm tư ngă hữu thốn
tâm vô dự ngữ mà nôm na là ta
có tấc ḷng chưa ngỏ được. Nói cho
ngay, trong cơi mụ mị với trời đất
đang nhùng nhằng, với bẩy mươi chưa
què, chớ khoe rằng trọn, cụ chỉ muốn
trọn vẹn với bài tạp văn, tạp bút:
“Hải bất dương ba”.
Ngộ
Không Phi Ngọc Hùng
(hoàn
tất năm 2008
thêm
bớt cuối năm 2013) Nguồn:
Sau
bức màn đỏ - Hoàng Dung Bên
thắng cuộc – Huy Đức Đảo
ch́m – Trần Đăng Khoa *** Về
sử phẩm với đảo ch́m, đảo
nổi xin
xem bài viết Hải
bất dương ba |