GIẢI QUYẾT VỤ CHỦ QUYỀN HOÀNG SA BẰNG
PHÁP LƯ HAY CHÍNH TRỊ Đại-Dương |
Bắc
Kinh đưa Giàn khoan Hải Dương 981 vào
hoạt động trong Vùng Đặc quyền Kinh
tế Việt Nam kể từ 2 tháng 5 và dự trù rút
đi vào 15-08-2014 đă tạo ra vụ khủng
hoảng trực tiếp giữa Việt Nam và Trung
Cộng; gián tiếp với Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Ấn Độ, Úc Đại Lợi cũng như
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, ASEAN. Biến
cố bất ngờ này làm nảy sinh yếu tố
quốc-tế-hoá về tranh chấp trên Biển Nam
Trung Hoa, tức Biển Đông, tức Biển Đông
Nam Á. Bắc
Kinh chống đối quyết liệt việc
quốc-tế-hoá vấn đề Nam Hải mà hôm
09-06-2014 đă gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc
kèm thêm 5 phụ lục nhằm biện minh cho hoạt
động của Giàn khoan 981. Việt Nam bị
tố cáo có hành vi quấy nhiễu, vi phạm an toàn
lưu thông hàng hải, làm tổn hại đến
hoà b́nh, an ninh khu vực nên Bắc Kinh cũng yêu
cầu Liên Hiệp Quốc phổ biến công hàm này
đến tận 193 quốc gia hội viên. Hà
Nội từng chủ trương vấn đề liên
quan đến Hoàng Sa chỉ được giải
quyết giữa Trung Cộng và Việt Nam mà vẫn
gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để thông
báo t́nh h́nh thực tế tại khu vực Quần
đảo Hoàng Sa, tức Paracel Islands, tức Tây Sa. Vụ
khủng hoảng chủ quyền Quần đảo Hoàng
Sa nên giải quyết bằng cách nào? Công
hàm của Bắc Kinh ngày 9 tháng 6 xác nhận
"Quần đảo Tây Sa là một phần vốn
có của lănh thổ Trung Quốc, không ǵ bác bỏ
được". Lập
luận của Bắc Kinh dựa theo Luật La Mă
được áp dụng từ thế kỷ thứ
5 đến 19 cho phép nhận chủ quyền một ḥn
đảo cho "người thấy trước"
đă bị Định ước Berlin 1885 thay
thế. Định
ước này quy định việc chiếm hữu
hợp pháp của một ḥn đảo phải
hội đủ 3 điều kiện: chiếm
hữu khi đảo ở trong t́nh trạng vô chủ
hoặc đă từ bỏ chủ quyền; phải công
khai cho mọi người biết; chiếm hữu
bằng biện pháp hoà b́nh". V́ đuối lư nên
Trung Hoa Dân Quốc từ chối ra trước Toà án
Trọng tài Quốc tế với Pháp vào các năm
1932, 1937, 1947 (năm Trung Hoa vẽ Đường 11
Vạch). Nhiều
học giả và sử gia bị sụp bẫy
Bắc Kinh khi cố sức giải thích Công hàm
Phạm Văn Đồng năm 1958 qua các biến
cố chính trị mang tính cách đổi chác. Hăy
thận trọng, nếu không, sẽ ảnh hưởng
tới t́nh trạng pháp lư của Hoàng Sa. Chuyên
gia quốc tế và người Việt hải
ngoại t́m cách chứng minh Công hàm Phạm Văn
Đồng chỉ là "hành vi đơn phương"
nhằm công nhận chiều rộng 12 hải lư theo
tuyên bố của Bắc Kinh mà chẳng liên quan ǵ
đến chủ quyền Quần đảo Hoàng Sa. Lời
hứa là 1 trong 5 loại cam kết đơn phương
ràng buộc tác giả nếu nó xuất phát từ
một ư muốn tạo ra hậu quả pháp lư,
chứ không phải chỉ là một lời tuyên
bố hàm chứa một ư định chính trị. Từ
khi thành lập nền Cộng Hoà vào năm 1911, Trung
Hoa chủ trương hải phận 3 hải lư.
Hội nghị quốc tế năm 1956 chỉ kết
luận "Luật quốc tế không cho phép mở
rộng hải phận quá 12 hải lư". Do
đó, Bắc Kinh quyết định Tuyên bố
hải phận 12 hải lư vào ngày 4 tháng 9 năm 1958
nhằm ngăn chặn Hoa Kỳ hộ tống tàu
của Đài Loan tiếp tế cho đảo Kim Môn cách
3 hải lư. Trung Cộng mở cuộc pháo kích dữ
dội bằng Không quân và Hải quân từ 23 tháng 8
vào đảo này. Hoa Kỳ tiếp tục duy tŕ
hoạt động tiếp tế nên khủng
hoảng dần dần chấm dứt. Liên
Xô tức tốc gửi công hàm đến Bắc Kinh
"hoàn toàn tôn trọng quyết định của
Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ... đă
chỉ thị cho các cơ quan liên hệ triệt
để tôn trọng hải phận 12 hải lư
của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa". Nghĩa ngữ
của Công hàm Phạm Văn Đồng gần như
sao ư bản chính chứng tỏ yếu tố chính
trị là chính chứ không phải pháp lư. Đông
Đức và Lỗ Ma Ni cũng theo gương Liên Xô
do tâm lư Chiến tranh Lạnh. Sau
Công hàm Phạm Văn Đồng không thấy tuyên
bố của Trung Cộng nên thiếu đặc điểm
có đi có lại để ràng buộc. Thẩm
quyền từ bỏ hoặc chuyển nhượng lănh
thổ thuộc về Quốc hội Việt Nam
chứ không do thủ tướng. Hội
nghị Potsdam năm 1945 cho phép Quân đội của
Tưởng Giới Thạch giải giới quân
Nhật ở Hoàng Sa mà không được thu hồi
nên lẽ ra Trung Hoa Dân Quốc phải trả lại
cho Việt Nam. Năm
1949, Tổ chức Khí tượng Thế giới
chấp nhận đơn ghi danh 3 trạm khí tượng
do Pháp xây dựng ở các đảo Phú Lâm, Hoàng Sa
thuộc Quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba B́nh
của Trường Sa. Năm
1950, Chính phủ Pháp đă chính thức trao lại
quyền quản trị và bảo vệ Hoàng Sa cho Chính
phủ Quốc Gia Việt Nam. Tại
Hội nghị Hoà b́nh San Francisco năm 1951, Nhật
Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên
tất cả đảo ở Thái B́nh Dương,
ngoại trừ Quần đảo Senkaku đang do quân
Mỹ trấn đóng. Lập tức Thủ tướng
Trần Văn Hữu của Quốc Gia Việt Nam tuyên
bố Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Không
một vị đại diện nào, kể cả Trung
Hoa Dân Quốc phản đối. Ngoại
trưởng Andrei Gromyko của Liên Xô đề
nghị Nhật Bản thừa nhận chủ
quyền của Trung Cộng tại Hoàng Sa và những
đảo xa hơn về phía Nam đă bị 38/51
quốc gia tham dự bác bỏ. Đầu
năm 1959, Việt Nam Cộng Hoà bắt 82 lính Trung
Cộng giả dạng ngư dân đă bí mật
đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy
Mộng, Quang Ḥa, thuộc nhóm Nguyệt Thềm do
Việt Nam Cộng Hoà trấn đóng, cùng với 5 tàu
đánh cá vũ trang giải về Đà Nẵng, sau
đó được trao trả lại cho Bắc Kinh. Nghị
quyết 2526 ngày 24-10-1970 của Đại Hội
đồng LHQ viết "Thụ đắc lănh
thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử
dụng vũ lực đều không được
thừa nhận là hợp pháp”. Các
điều trên chứng tỏ Trung Cộng cưỡng
chiếm Hoàng Sa năm 1974 hoàn toàn bất-hợp-pháp.
Khu ḷng chảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hoà
đă diễn ra vụ hải chiến giữa Hải
quân Việt Nam Cộng Hoà và Hải quân Trung Cộng
năm 1974. Quần
đảo Hoàng Sa trải dài từ vĩ tuyến
thứ 15 đến 17 trực thuộc quyền
quản trị của Việt Nam Cộng Hoà h́nh thành
từ Hiệp định Geneve năm 1954. Quốc
gia này nối tiếp công việc quản trị Hoàng
Sa không gián đoạn từ thời quân chủ,
thời Pháp thuộc, thời Quốc gia Việt Nam
với tư cách một nhà nước độc
lập, tự chủ. Do
đó, công hàm Phạm Văn Đồng của
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không có giá trị pháp
lư đối với Quần đảo Hoàng Sa do
Việt Nam Cộng Hoà quản trị. Tranh
chấp chủ quyền Quần đảo Hoàng Sa
từ năm 1909 và Trường Sa từ những năm
1930 nên bất cứ chính quyền nào của Việt
Nam cũng đều tuyên bố chủ quyền đối
với 2 quần đảo đó. Thông
cáo ngày 24-05-1956, Việt Nam Cộng Hoà nhấn
mạnh "Toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa luôn
luôn là một phần lănh thổ Việt Nam". Dù
mất đi yếu tố vật chất trên Quần
đảo Hoàng Sa, nhưng người Việt Nam
vẫn duy tŕ yếu tố tinh thần bằng công hàm,
tuyên bố phản đối việc chiếm đóng
trái phép của Trung Cộng và quyết bảo tồn
các quyền đă có từ xưa. Chưa bao giờ
người Việt Nam tuyên bố từ bỏ
chủ quyền Hoàng Sa. Việt
Nam cần thu thập dữ kiện để phản
bác lập luận của Bắc Kinh liên quan đến
tấm bản đồ năm 1972, sách giáo khoa năm
1974 trên phương diện pháp lư. Không
nơi nào mà các quốc gia dù lớn hay nhỏ
được b́nh đẳng trước các Toà án
Quốc tế. Do đó, chủ quyền do Toà án
Quốc tế phân xử có giá trị vĩnh cửu. Thắng
lợi trước Toà án Quốc tế cho phép người
Việt Nam có quyền hợp pháp để đ̣i
hoặc thu hồi lănh thổ do mồ hôi và xương
máu của Tổ Tiên truyền lại. Phiên
Toà Quốc tế có vô số cạm bẫy đ̣i
hỏi trí tuệ và kinh nghiệm dồi dào về
tranh tụng nên Việt Nam cần sự trợ giúp
tận t́nh của các chuyên gia pháp lư lỗi lạc
trên thế giới mới mong chiến thắng. Đại-Dương
|