Hoa Kỳ kết liễu sự mập mờ của Trung quốc về đường chín đoạn |
Lần
đầu tiên Hoa Kỳ đă bày tỏ một cách rơ
ràng rằng đường chín đoạn do Trung
quốc và Đài loan vẽ ra trên Biển Đông là
trái với luật pháp quốc tế. Trong buổi tường
tŕnh trước Uỷ Ban Đối Ngoại của
Quốc hội Hoa Kỳ, trợ lư ngoại trưởng
phụ trách Đông Á và Thái B́nh Dương Danny
Russel đă nói: “Theo luật pháp quốc tế, các
đ̣i hỏi chủ quyền ở biển Biển
Đông phải dựa trên các yếu tố từ
đất liền. Tất
cả những tuyên bố chủ quyền từ “đường
chín đoạn” của Trung quốc mà không dựa
trên các quyền chủ quyền trên đất
liền đều trái với luật pháp quốc
tế. Cộng đồng thế giới yều
cầu Trung quốc phải giải thích, nếu không
th́ phải điều chỉnh những tuyên bố
chủ quyền dựa trên đường chín đoạn,
để tuân thủ theo các nguyên tắc của
luật pháp quốc tế.” Với
diện tích rộng hơn 1,4 triệu dặm vuông,
Biển Đông có hàng trăm các đảo và
quần đảo nhỏ, các rặng san hô, mà
phần lớn là không có người ở hay không
đủ điều kiện sinh sống. Trung quốc
thừa hưởng ư tưởng về đường
chín đoạn từ chính quyền quốc dân đảng
của Tưởng Giới Thạch, đó là một
đường vẽ mập mờ bao quanh tất
cả các ḥn đảo ở Biển Đông, mà vùng
nước trong đó Trung quốc đ̣i hỏi
chủ quyền. Dựa theo Công Ước của Liên
Hợp Quốc về Luật Biển (U.N. Convention on
the Law of the Sea – UNCLOS), được thương
thảo vào những năm 70 và 80, các quốc gia ven
biển được yêu sách quyền độc
quyền khai thác các nguồn tài nguyên ngư nghiệp
và khoáng sản trong “vùng đặc quyền kinh
tế” (Exclusive Economic Zones – EEZ), đó là vùng nước
rộng 200 hải lư tính từ bờ biển hay xung
quanh các ḥn đảo có người ở. Không có
điều luật nào trong công ước UNCLOS cho phép
đ̣i hỏi quyền chủ quyền mà không dựa
vào nguyên tắc tính từ đất liền này.
Dựa trên nguyên tắc này của UNCLOS, Hoa Kỳ xem
các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông mà
không dựa trên các ḥn đảo có người sinh
sống là hoàn toàn vô giá trị. Tuyên bố của
trợ lư ngoại trưởng Russel đă làm rơ
luận điểm này của Hoa Kỳ. Có
thể thấy rơ sự quan tâm của Hoa Kỳ dưới
chính quyền của Tổng thống Obama đến t́nh
h́nh Biển Đông. Chỉ dấu đầu tiên
của sự quan tâm đó là tuyên bố được
biết đến rộng răi của Ngoại trưởng
Clinton tại một hội nghị quốc tế
tại Hà nội vào năm 2010, trong đó bà nêu ra các
nguyên tắc trong chính sách của Hoa Kỳ ở
Biển Đông: đó là tôn trọng tự do hàng
hải, giải quyết các bất đồng một
cách hoà b́nh, tự do thương mại, thương
thuyết để tiến tới thành lập một
Bộ Qui Tắc Ứng Xử (Code of Conduct – COC)
nhằm giải quyết các bất đồng, và
vấn đề liên quan ở đây, là các đ̣i
hỏi chủ quyền vùng ở các vùng biển
phải dựa trên các chủ quyền hợp pháp trên
đất liền. Tuyên bố của bà Clinton đă
đụng chạm đến một chủ đề
rất mập mờ mà trước đó ít
được nhắc đến, nó làm cho Biển
Đông trở thành một điểm nóng về
ngoại giao, một chủ đề tranh luận
giữa các nhà phân tích và các chuyên gia về an ninh
quốc gia, và trong một vài trường hợp, nó
làm cơ sở cho các tranh căi của các bên đang
tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Trong khi các nước Đông Nam Á như Việt Nam.
Philippines, Malaysia, và Brunei nhiệt liệt ủng
hộ, tuyên bố này làm Trung quốc rất tức
giận. Ngoại
trưởng Clinton đă đưa ra tuyên bố này
để phản hồi cho những bất an ngày
một gia tăng giữa các nước láng giềng
của Trung quốc về việc nước này đang
ngày càng mạnh bạo hơn trong các đ̣i hỏi
chủ quyền thông qua các phương cách chính
trị và quân sự, trong một môi trường
thiếu vắng các cơ chế ngoại giao để
làm giảm thiểu các căng thẳng. Trong khoảng
giữa năm 1994 và 1995, đă có một giai đoạn
căng thẳng tương tự khi Trung quốc
tiến hành xây dựng các công tŕnh ở rặng san
hô Mischief nằm trong quần đảo Trường
Sa mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Những
đổ vỡ mang tính hệ quả trong mối quan
hệ giữa Trung quốc và các nước Đông
Nam Á đă làm cho các lănh đạo Trung quốc khi
ấy, mà dẫn đầu là ngoại trưởng
Tiền Kỳ Tham, phải thương thảo với
các nước ASIAN một bản Tuyên Bố Ứng
Xử (Declaration of Conduct – DOC), và một cam kết
rằng các bên sẽ không có những hành động
làm thay đổi nguyên trạng. Mặc dù thỉnh
thoảng vẫn xảy ra những vụ tấn công tàu
cá do một trong các bên, hoặc một trong những
quốc gia liên quan, mà chủ yếu là Việt Nam, cho
phép các công ty thăm ḍ dầu khí trong vùng tranh
chấp, những biến cố này đă không châm ng̣i
cho các cảnh báo chiến tranh. Tuy
nhiên, trong nhiều năm gần đây, đă có
những lo ngại gia tăng trong vùng và ngay tại Hoa
Kỳ là Trung quốc đă không c̣n thích thú với các
giải pháp ngoại giao nữa, mà nay đang quay sang
sử dụng các phương cách quân sự và
luật pháp để thúc đẩy các tuyên bố
chủ quyền ở Biển Đông. Các tuyên bố
nhắm vào giới ngoại giao Hoa Kỳ là Trung
quốc xem Biển Đông như một “quyền
lợi cốt lơi” mà liên quan nó Trung quốc sẽ
không chấp nhận sự can thiệp làm tăng căng
thẳng từ bên ngoài. Trong năm 2012, Trung quốc
đă xua đuổi ngư dân Philippines ra khỏi ngư
trường truyền thống của họ nằm
xung quanh băi cạn Scarborough, nằm cách các đảo
lớn của Philippenes ít hơn 125 dặm, rồi
từ đó cho cảnh sát biển liên tục
kiểm soát. Cũng trong năm 2012, Trung quốc
thiết lập một đơn vị hành chánh và quân
sự bao gồm nhiều phần của quần đảo
Hoàng sa. Ngay khi vừa thiết lập vùng nhận
dạng pḥng không ở biển Hoa Đông vào cuối
năm 2013, người phát ngôn bộ ngoại giao
Trung quốc tuyên bố ư định thành lập
một vùng nhận dạng pḥng không tương
tự ở Biển Đông, chắc chắn sẽ
chồng lấn với ít nhất vài khu vực đă
được thiết lập bởi các nước
khác. Biển
Đông là một vấn đề phức tạp
đối với Hoa kỳ. Chúng ta không có đ̣i
hỏi nào trong vùng đó. Chúng ta đă không, và
sẽ không nên ngả theo phe nào trong các tuyên bố
chủ quyền. Cho dù bất kỳ nước nào
thiết lập được khả năng phát huy
sức mạnh từ các đảo ở Biển
Đông cũng sẽ khó ḷng mà đe doạ
được tàu bè và quân đội Hoa kỳ
hoạt động trong vùng. Mặc dù có những
đánh giá về tiềm năng dầu hoả và khí
đốt, khả năng khai thác thương mại
là không thể trong tương lai gần. Tuy
nhiên, Hoa kỳ có các mối quan tâm trọng yếu
ở biển Biển Đông. Đó là: •
Để bảo đảm tự do hàng hải, không
phải v́ quyền lợi của bất cứ nước
cụ thể nào, mà đó là một quyền quốc
tế quan trọng trong một khu vực mà 50% các tàu
chở dầu phải đi qua, một hải lộ
lớn của kinh tế thế giới, và là nơi mà
các tàu hải quân Hoa kỳ được gửi
đến và hoạt động thường xuyên
theo luật pháp quốc tế.
Có
những áp lực giữa các yếu tố khác nhau
trong quyền lợi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không
muốn thấy Trung quốc đạt được
quyền kiểm soát trong khu vực thông qua việc áp
bức. Nhưng cùng lúc, Hoa Kỳ không muốn
Biển Đông trở thành nơi đối đầu
hay xung đột giữa Mỹ và Trung quốc. Sự
thách thức các đ̣i hỏi của Trung quốc,
nếu không tuân theo các thông lệ quốc tế và
phù hợp với các nguyên tắc của Hoa Kỳ, có
thể kích thích chủ nghĩa dân tộc Trung hoa và
sự hoài nghi nhắm vào chủ đích của Hoa
Kỳ, và thậm chí kích thích các hành xử hung
bạo hơn của Trung quốc trong vùng nhắm vào
các bên tranh chấp khác nếu như Hoa Kỳ không có
những đáp trả hiệu quả. Mặt khác,
một Hoa kỳ thụ động sẽ làm lu mờ
các quan tâm kể trên, và sẽ làm cho các bên tranh
chấp khác tin rằng Hoa Kỳ bỏ rơi họ và
cả những nguyên tắc của ḿnh, qua đó có
thể làm cho chính sách “xoay trục” của chính
quyền Obama về Châu Á trở thành tṛ hề, làm
mất đi sự đón nhận của khu vực
đối với sự hiện diện và ảnh hưởng
của Hoa Kỳ. Qua
việc công khai không chấp nhận đường
chín đoạn, trợ lư ngoại trưởng Russel
và chính quyền Obama đă vạch ra một sự
giới hạn đúng chỗ. Họ đă làm rơ là
những phản đối của chúng ta dựa trên
nguyên tắc, dựa trên luật pháp quốc tế,
chứ không phải chỉ để nhắm vào Trung
quốc. Nếu cách tiếp cận của chúng ta
với vấn đề Biển Đông vẫn
tiếp tục dựa trên nền tảng của nguyên
tắc và luật pháp quốc tế, Hoa Kỳ có
thể đạt được những mục tiêu
đề ra, bảo vệ quyền lợi của các
bên tranh chấp mà không phải đối đầu
với Trung quốc trong vấn đề chủ
quyền. Những
việc ǵ khác mà Hoa Kỳ nên làm? Rất nhiều
thứ: • Hoa Kỳ nên đảm bảo rằng cách tiếp cận của ḿnh không bị xem là đơn phương. Đôi khi các quốc gia khác ngoài mặt th́ im lặng nhưng bên trong vẫn ủng hộ. Chính quyền Hoa Kỳ nên làm rơ với các bên tranh chấp khác, cũng như các nước ASIAN khác như Singapore và Thái Lan, là chúng ta kỳ vọng ở họ một sự phản đối công khai đối với đường chín đoạn theo luật pháp quốc tế. • Hoa Kỳ nên thảo luận với Đài Loan để làm rơ quan đểm của họ về đường chín đoạn, làm rơ rằng những đ̣i hỏi của họ phải dựa theo UNCLOS. •
Hoa Kỳ nên tiếp tục nỗ lực cho việc
đàm phán để tạo ra một Bộ Qui
Tắc Ứng Xử (COC) giữa Trung quốc và các nước
ASIAN, như chúng ta đă và đang làm từ lúc
ngoại trưởng Clinton thông báo về mục tiêu
đó ở Hà nội. Thực tế là, quyết
định gần đây của Trung quốc và các nước
ASIAN trong việc bắt đầu các cuộc đối
thoại về COC là một thắng lợi từ tuyên
bố của ngoại trưởng Clinton. • Hoa Kỳ nên khuyến cáo Trung quốc không thành lập bất cứ một vùng nhận dạng pḥng không mới nào trên Biển Đông. Mặc dù việc làm rơ quan điểm về vấn đề này một cách công khai là cần thiết, các cuộc đối thoại ngoại giao kín dường như có tác dụng ảnh hưởng hơn với Bắc Kinh. •
Hoa Kỳ nên thảo luận với tất cả các
bên tranh chấp về những đồng thuận
khả thi trong việc khai thác khoáng sản và ngư
nghiệp mà không liên quan đến chủ quyền,
bao gồm việc hợp tác đầu tư giữa
các công ty. •
Thượng nghị viện nên chuẩn thuận
UNCLOS. Điều đó sẽ cho phép Hoa Kỳ có thêm
tính chính danh khi tham gia một cách chủ động và
hiệu quả vào các quyết định về tương
lai Biển Đông. Tất cả các ngoại trưởng
tiền nhiệm của Hoa Kỳ đều ủng
hộ một quyết định như vậy.
Hải quân Hoa Kỳ cũng như các nguyên soái
hải quân và tư lệnh Thái B́nh Dương, cũng
như phần lớn các công ty Hoa Kỳ có liên quan, cũng
đều ủng hộ. Thay v́ nói, chúng ta hăy bắt
tay vào làm thôi. Liêm
Nguyên chuyển ngữ
|