Hoàng Sa Và Trường Sa Trong Hội Nghị San Francisco 1951 Trần Gia Phụng: |
Thế
chiến thứ hai chấm dứt năm 1945, nhưng
cho đến năm 1951 Hội nghị tại San
Francisco (Hoa Kỳ) giữa Nhật Bản và các nước
Đồng minh mới diễn ra để Nhật
Bản xác định lập trường ḥa b́nh,
từ bỏ chủ quyền trên các vùng đất
Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến, bàn
chuyện Nhật Bản bồi thường cho các
nạn nhân và tù binh chiến tranh, cũng như
quyết định chấm dứt quân đội nước
ngoài chiếm đóng Nhật Bản và trao trả
chủ quyền lại cho Nhật Bản. 1.-
NHẬT BẢN THẤT TRẬN Nhật
Bản xâm lăng Măn Châu năm 1931, lập ra Măn Châu
Quốc năm 1932, đưa vị vua cuối cùng
của nhà Thanh là Phổ Nghi (Pu Yi, trị v́ Trung Hoa
1908-1912) lên làm giám quốc v́ nhà Thanh gốc người
Măn Châu. Nhật chiếm Nam Kinh (Trung Hoa) ngày 13-12-1937,
gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng trong 6 tuần
lễ, giết hại khoảng 300,000 dân Trung Hoa. Nhật
đưa quân đến Đông Dương năm
1940, nhưng vẫn để Pháp cai trị Đông Dương.
Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công Pearl
Harbor (Hawaii), tàn phá hạm đội Hoà Kỳ ở
Thái B́nh Dương, giết hại 2,400 người
Hoa Kỳ. Hôm sau (8-12-1941), Hoa Kỳ và Anh tuyên
chiến với Nhật Bản. Quân đội
Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái
Lan (8-12-1941), bắc Mă Lai (8-12), tấn công Manila (8-12),
đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm
Bataan (9-4-1942), và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942). Trong
khi chiến tranh diễn ra càng ngày càng ác liệt
tại Đông Á giữa lực lượng Đồng
minh (gồm quân đội Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa
Quốc Dân Đảng) với quân đội Nhật
Bản, th́ Liên Xô vẫn tiếp tục bang giao
với Nhật Bản v́ Liên Xô kư ḥa ước
bất tương xâm với Nhật Bản từ ngày
13-4-1941. Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên
tử đầu tiên xuống Hiroshima (Nhật
Bản). Liên Xô biết chắc chắn Nhật
Bản sẽ đầu hàng, liền mời đại
sứ Nhật tại Moscow đến bộ Ngoại
giao Liên Xô lúc 5 giờ chiều ngày 8-8-1945 và ngoại
trưởng Liên Xô Mikailovich Molotov thông báo cho đại
sứ Nhật Bản biết rằng Liên Xô quyết
định tuyên chiến với Nhật. (Basil Collier,
The Second World War: a Military History, Gloucester, Mass: Pater Smith,
1978, tt. 529-530.) Sáng
sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn quân qua chiếm Măn
Châu và vùng đông bắc Trung Hoa, chỉ vài giờ
trước khi Hoa Kỳ dội thêm quả bom nguyên
tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. Liên Xô
tiến quân chiếm luôn cả miền bắc bán
đảo Triều Tiên. Cuối cùng, Nhật hoàng
quyết định đầu hàng ngày 14-8-1945.
Hiệp ước đầu hàng được kư
kết trên chiến hạm Missouri, thả neo trong
vịnh Đông Kinh, do đại tướng Mac Arthur
chủ tŕ. 2.-
HỘI NGHỊ SAN FRANCISCO Sau
chiến tranh, đất nước Nhật Bản
kiệt quệ, kinh tế suy thoái. Nhật Bản thay
đổi chính sách, từ bỏ chế độ quân
phiệt, từ bỏ tham vọng đế quốc,
ban hành hiến pháp ḥa b́nh ngày 3-11-1946, có hiệu
lực từ 3-5-1947. Theo hiến pháp mới, Nhật
Bản theo đại nghị chế, Nhật hoàng
chỉ c̣n giữ địa vị tượng trưng.
Đặc biệt điều 9 chương II hiến
pháp quy định Nhật Bản không có có Hải,
Lục, Không quân và chính phủ Nhật Bản từ
nay không được quyền tuyên chiến. Hội
nghị 51 nước tham dự theo thứ tự ABC là:
Argentina, Australia, Belgium, Bolivia, Brazil, Cambodia, Canada, Ceylon,
Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Czechoslovakia, Dominican Republic,
Ecuador, Egypt, El Salvador, Ethiopia, France, Greece, Guatemala, Haiti,
Honduras, Indonesia, Iran, Iraq, Japan, Laos, Lebanon, Liberia, Grand
Duchy of Luxembourg, Mexico, Netherlands, New Zealand, Nicaragua, Norway,
Pakistan, Panama, Peru, Republic of the Philippines, Poland, Saudi Arabia,
Soviet Union, Syria, Turkey, Union of South Africa, United Kingdom of
Great Britain and Northern Ireland, United States of America, Uruguay,
Venezuela, Viet Nam. 3.-
THÁI ĐỘ CỦA CÁC NƯỚC CỘNG SẢN Trong
51 nước trên đây, có ba nước lúc đó
theo chế độ cộng sản là Czechoslovakia
(Tiệp Khắc, chưa chia hai), Poland (Ba Lan) và Soviet
Union (Liên Bang Xô Viết hay Liên Xô). Cả Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan) lẫn Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa
(Trung Cộng) đều không được mời
tham dự, v́ hội nghị không biết mời ai là
đại diện cho Trung Hoa tại hội nghị. Trung
Cộng không được mời tham dự hội
nghị nên ngoại trưởng Trung Cộng lúc
bấy giờ là Chu Ân Lai lên tiếng phủ đầu
ngày 15-8-1951: “Chính phủ Nhân dân Trung ương nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa một lần nữa tuyên
bố: Nếu không có sự tham dự của Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị,
soạn thảo và kư một ḥa ước với
Nhật Bản th́ dù nội dung và kết quả
của một hiệp ước như vậy có như
thế nào, chính phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa cũng
coi ḥa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp và
v́ vậy vô hiệu.” (People’s China, tập IV, số
5 ngày 1-9-1951, do Quốc Tuấn trích dẫn trong bài
“Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa
liên quan tới vấn đề chủ quyền hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường sa”, tập
san Sử Địa số 29, Sài G̣n: tháng 1-3/1975, tr.
221.) Lập
trường của Trung Cộng là đ̣i hỏi
chủ quyền của Trung Cộng trên các quần
đảo duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt
Nam. Trung Cộng không tham dự hội nghị, nhưng
đ̣i hỏi của Trung Cộng được đại
diện Liên Xô tŕnh bày trong phiên họp ngày 5-9-1951.
Andrei Gromyko, đại diện Liên Xô, phản đối
bản dự thảo ḥa ước v́ cho rằng
đây là bản dự thảo do Hoa Kỳ và Anh
soạn thảo, chưa đáp ứng được
những yêu cầu cần thiết cho một nền ḥa
b́nh với Nhật Bản. Lời phản đối
của Gromyko bị các thành viên khác trong hội
nghị la ó. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.) Lư
do đại diện Liên Xô bị hội nghị la ó
có thể v́ bản dự thảo đă được
gởi trước để các nước tham
khảo, nhưng Liên Xô không trả lời, mà măi
đến khi hội nghị bắt đầu,
mới lên tiếng làm mất thời giờ hội
nghị và đại diện các nước không
chuẩn bị trước với chính phủ của
họ. Cũng có thể các nước Đồng
minh biết rằng trong chiến tranh chống Nhật
Bản, Liên Xô chờ đợi đến phút chót,
Nhật Bản bị sụp đổ, Liên Xô mới
tham chiến để chia phần nên các đại
biểu không cảm phục. Sau
khi chủ tịch hội nghị can thiệp, kêu
gọi tái lập trật tự hội trường,
th́ Gromyko mới tiếp tục phát biểu, đưa
ra trước sau 13 điểm tu chính (sửa đổi
5 điểm cũ và đưa thêm 8 điểm
mới), trong đó có một tu chính là sửa đổi
khoản (b) và khoản (f), điều 2 chương
II, liên quan đến các hải đảo dọc duyên
hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Andrei Gromyko
cho rằng các đảo Paracels (Hoàng Sa) và các đảo
khác về phía Nam, được xem là lănh thổ
của Trung Cộng, và yêu cầu bổ sung vào
hiệp định là các hải đảo đó
thuộc chủ quyền của Trung Cộng. (Xin xem tài
liệu đính kèm số 1.) Tuy nhiên, Gromyko không
đưa ra bằng chứng cụ thể nào về
chủ quyền của Trung Cộng đối với
các đảo trên. Trong
cuộc biểu quyết ngày 7-9-1951, tất cả
những tu chính của Liên Xô do Gromyko đưa ra,
trong đó có cả tu chính khoản (b) và khoản (f)
điều 2 chương II, tất cả đều
bị hội nghị bác bỏ. Kết quả
biểu quyết cụ thể là 46 phiếu chống,
3 phiếu thuận của ba nước cộng
sản (Tiệp Khắc, Ba Lan và Liên Xô), 1 phiếu
trắng và Nhật Bản không bỏ phiếu. Tỷ
lệ bác bỏ là 46/51. 4.-
Ư KIẾN CỦA VIỆT NAM Đại
diện Việt Nam tại hội nghị San Francisco là
thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam
(QGVN) Trần Văn Hữu. Chính phủ QGVN do cựu
hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Theo
hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 Pháp giải
kết ḥa ước bảo hộ 1884 và trao trả
độc lập lại cho Việt Nam. Chính thể
QGVN chính thức được thành lập ngày
14-6-1949. Đạo dụ ngày 1-7-1949 chia Việt Nam làm
ba phần: Bắc, Trung và Nam Phần. Hai ngày sau,
quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm
ba vị thủ hiến phụ trách ba phần, trong
đó thủ hiến Trung Phần là dược sĩ
Phan Văn Giáo. Ngày
14-10-1950, khi Pháp quyết định giao lại
quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ QGVN, thủ
hiến Phan Văn Giáo, đại diện chính
phủ, đến tận quần đảo Hoàng Sa
để nhận bàn giao chủ quyền quần đảo
nầy. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu
1939-1975, tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr.
196.) Nguyên
dưới thời vua Bảo Đại (trị v́
1926-1945), Pháp thiết lập ṭa Đại lư Hành chánh
quần đảo Hoàng Sa ngày 15-6-1932. Vua Bảo Đại
ban dụ số 10 ngày 30-3-1938 sáp nhập quần đảo
Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên, nên
năm 1950, thủ hiến Trung Phần Phan Văn Giáo,
đại diện chính phủ tiếp nhận
việc bàn giao của Pháp. Ngoài
thủ tướng Trần Văn Hữu, phái đoàn
chính phủ QGVN c̣n có các ông: Nguyễn Trung Vinh
(tổng trưởng bộ Tài chánh), Nguyễn Duy
Thanh (tổng trưởng bộ Kế hoạch và Tái
kiến thiết), và Bửu Kính.
5.-
KẾT LUẬN Hội
nghị ḥa b́nh giữa Nhật Bản và 50 nước
trên thế giới tại San Francisco, riêng về
vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, liên hệ
đến Việt Nam, có thể rút ra hai kết
luận: TRẦN
GIA PHỤNG TÀI
LIỆU ĐÍNH KÈM trích từ:
Tài liệu 5: Chương II, điều 2, khoản (f) Hiệp ước Ḥa b́nh với Nhật Bản
|