Bốn
trong số các chiến hạm của Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa đă tham gia hải chiến Hoàng
Sa 1974 (DR)
Đôi
lời trước khi viết:
Đă 25 năm kể từ ngày tôi tham dự trận
hải chiến Hoàng Sa, tôi chưa từng tŕnh
bầy hay viết mô tả lại về trận đánh
này, ngay cả có nhiều lần tôi đă thất
hứa với các bậc tiên sinh yêu cầu tôi
thuật lại chi tiết của cuộc đụng
độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một
điều duy-nhứt không thể chối căi
được là các chiến hữu các cấp
của Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa trong trận
hải chiến đă anh dũng chiến đấu
bằng phương tiện và kinh nghiệm có trong tay
để chống lại một kẻ xâm lăng
truyền kiếp của dân tộc hầu bảo
vệ lănh thổ của Tổ quốc. Trước
một thù địch có sức mạnh gấp
bội, dù cuộc chiến có hạn chế hay kéo dài
hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta
vẫn phải tạm lùi bước trước các
cuộc cường tập của đối phương
để t́m kiếm một cơ hội thuận
tiện khác hầu khôi phục lại phần đất
đă bị cưỡng chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ Măo, tôi viết những
gịng này để tưởng niệm anh linh các
liệt sĩ đă hy sinh khi cùng tôi chiến đấu
chống kẻ xâm lăng trên các mảnh đất
xa vời của Quốc Tổ, một số đă vĩnh
viễn nằm lại trong ḷng biển Hoàng Sa như
để thêm một chứng tích lịch sử
của chủ quyền quốc gia, một số khác
đă bỏ ḿnh trên biển cả khi t́m đường
thoát khỏi sự tàn bạo của người phương
bắc.
Có nhiều chiến hữu Hải quân đă từng
hăng say viết lại một trang sử oai hùng
của Hải quân và toàn Quân lực Việt Nam
của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa, nhưng
đă thiếu xót nhiều chi tiết chính xác mà vào
những năm trước 1975 chưa được
phép phổ biến, và cũng v́ phải lưu
lạc khắp thế giới tự do nên các
chiến hữu đó đă không thể liên lạc
để tham khảo cùng tôi.
Nhiều chi tiết về giờ giấc và về
vị trí bạn và địch, cũng như tên
họ của các cấp có liên hệ tới biến
cố, v́ không có tài liệu truy lục, nên chỉ có
thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi
chỉ tường thuật trung thực những chi
tiết theo khía cạnh của một người
chỉ huy chiến thuật được biết và
cũng mong mỏi các chiến hữu nào c̣n có
thể nhớ chắc chắn các chi tiết quan
trọng khác, tôi sẽ sẵn sàng tiếp nhận qua
ṭa soạn này, để sửa lại tài liệu này
cho đúng.
Hà Văn Ngạc
*
"Tân xuân Giáp Dần Hoàng Sa chiến
Nam ngư hải ngoại huyết lưu hồng"
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo
sấm Trạng Tŕnh đă được truyền
khẩu rất nhanh khi Hải đội Đặc
nhiệm Hoàng Sa trở về tới Đà Nẵng vào
sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do
chính Hải quân đại tá Nguyễn Viết Tân
(thủ khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ
chức vụ Chỉ huy trưởng Sở Pḥng
vệ Duyên hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày
đó tới nay đă đúng 25 năm, và do sự
khuyến khích của các bậc thượng trưởng
của Hải quân Việt Nam, những chi tiết
về diễn tiến chưa tùng tiết lộ
của trận hải chiến cần được
ghi lại để làm chứng liệu lịch
sử.
Sau trận hải chiến, những ưu và khuyết
điểm về chiến thuật và chiến lược
của Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa (HQVNCH) đến
nay nếu nêu ra th́ sẽ không c̣n một giá trị
thực tiễn nào để có thể làm những bài
học cho những biến cố kế tiếp. V́
vậy một vài điều nếu có nêu ra tại
đây th́ chỉ để ghi lại t́nh trạng và
khả năng khi Hải quân VNCH khi đă phải
đương đầu với Trung cộng, là
một quốc gia vào thời-điểm đó, đă
sẵn có một lực lượng hùng hậu
về Hải-Lục-Không-quân gấp bội của
VNCH.
Một điểm hănh diện cho Hải quân VNCH lúc
bấy giờ là đă không những phải sát cánh
với lực lượng bạn chống lại
kẻ nội thù là cộng sản (CS) miền bắc
trong nội địa, lại vừa phải bảo
vệ những hải đảo xa xôi, mà lại c̣n
phải chiến đấu chống kẻ xâm lăng,
đă từng biết bao lần dầy xéo đất
nước trong suốt lịch sử lập quốc
và dành quyền độc lập của xứ
sở.
So-sánh với các cuộc hành quân ngoại biên vào các
năm 1970-71 của Quân lực VNCH sang đất
Kampuchia va Hạ Lào, th́ quân lực ta chỉ chiến
đấu ngang ngửa vơi CSVN ẩn náu trên đất
nước láng giềng mà thôi. Phải thành khẩn
mà nhận rằng Hải quân VNCH ngoài nội thù c̣n
phải chống ngoại xâm mà đă rất khó tiên
liệu để chuẩn bị một cuộc
chiến chống lại một lực lượng
Hải quân Trung cộng tương đối dồi
dào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng.
HQVN ta đă có những gánh nặng về hành quân
để yểm trợ lực lượng bạn và
hành quân ngăn chận các vụ chuyển quân lén lút
của Việt cộng qua biên giới Miên Việt
trong vùng sông ng̣i cũng như các vụ tiếp
tế quân dụng của chúng vào vùng duyên hải.
Trước khi đi vào chi tiết của trận
hải chiến lịch sử này, chúng ta thử
nhắc sơ lược lại cấu-trúc nhân
sự của thượng tầng chỉ huy và
của các đơn vị tham chiến của Hải
quân vào lúc biến cố:
- Tư lệnh Hải quân: Đề đốc
Trần Văn Chơn
- Tư lệnh phó Hải quân: Phó Đề đốc
Lâm Ngươn Tánh
- Tham mưu trưởng Hải quân: Phó Đề
đốc Diệp Quang Thủy
- Tư lệnh Hạm đội: Hải quân đại
tá Nguyễn Xuân Sơn
- Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải: Phó Đề
đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
- Chỉ huy trưởng Hải đội tuần dương:
Hải quân đại tá Hà Văn Ngạc, (Hải-đội
3) và là sĩ quan chỉ huy chiến thuật trận
hải chiến.
- Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4: Hải quân
trung tá Vũ Hữu San
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ5:
Hải quân trung tá Phạm Trọng Quỳnh
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16:
Hải quân trung tá Lê Văn Thự
- Hạm trưởng Hộ tống hạm HQ10:
Hải quân thiếu tá Ngụy Văn Thà (truy thăng
Hải quân trung tá)
- Trưởng toán Hải kích đổ bộ:
Hải quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh.
LƯ DO TÔI ĐĂ CÓ MẶT TẠI HOÀNG SA
Rất nhiều chiến hữu trong Hải quân đă
không rơ nguyên cớ nào mà tôi đă có mặt để
đích thân chỉ huy tại chỗ trận hải
chiến Hoàng Sa. Sự có mặt của tôi bắt
nguồn từ khi tôi được Hội đồng
Đô đốc chỉ định tôi tăng phái cho
Vùng I duyên hải khoảng từ cuối năm 72
đầu 1973. Lư do tăng phái của tôi đến
Vùng I duyên hải tôi không được biết trước
cho đến khi tôi tới Quân Khu 1, tôi mới
được biết nhiệm vụ chính của tôi
là chuẩn bị một trận thư-hùng giữa
Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa và Hải quân
Bắc-Việt mà lúc đó, tin t́nh báo xác nhận là
Cộng sản đă được viện-trợ các
cao tốc đĩnh loại Komar của Nga-sô trang
bị hỏa tiễn hải hải (surface to surface).
Vào thời gian đó Hải quân VNCH chỉ có khả
năng chống đỡ thụ động loại vũ
khí này. Cuộc hải chiến tiên liệu có thể
xẩy ra khi lực lượng Hải quân Cộng
sản tràn xuống để hỗ trợ cho quân
bộ của chúng khi chúng muốn tái diễn cuộc
cường tập xuất phát từ phía bắc sông
Bến Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972
để khởi phát các cuộc tấn công suốt
mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hai
tuần lễ hầu nghiên cứu để thiết
kế. Kế hoạch chính của cuộc hải
chiến này là xử dụng nhiều chiến hạm
và chiến đỉnh (WPB và PCF) để giảm
bớt sự thiệt hại bằng cách trải
nhiều mục tiêu trên mặt biển cùng một lúc.
Song song với việc này là các chiến hạm và
chiến đĩnh phải xử dụng đạn
chiếu sáng và hỏa pháo cầm tay như là một
cách chống hỏa tiễn thụ-động. Ngoài
ra Hải quân cũng cần đặt ra sự
yểm-trợ của pháo binh của Quân đoàn I
để tác xạ ngăn chặn và tiêu diệt
lực lượng Hải quân CS tại phía bắc
Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía
nam để đủ tầm phóng hỏa tiễn. Sau
khi đă thuyết tŕnh tại BTL HQ Vùng I duyên hải
cùng các Chỉ huy trưởng các đơn-vị duyên-pḥng
và duyên-đoàn, Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải
chấp thuận kế hoạch và đưa kế
hoạch lên thuyết tŕnh tai BTL Quân-đoànI và Quân-Khu
I.Buổi thuyết-tŕnh tại BTL/Quân-đoàn I do
đích thân trung tướng Ngô Quang Trưởng
chủ tọa, ngoài Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải
c̣n có đại tá Hà Mai Việt trưởng pḥng 3
Quân đoàn, đại tá Khiêu Hữu Diêu, đại
tá Nguyễn Văn Chung chỉ huy trưởng pháo binh
Quân đoàn và một số rất ít các sĩ quan
phụ tá. Nhu cầu yểm trợ pháo binh cho cuộc
hải chiến được chấp thuận ngay và
chỉ huy trưởng pháo binh Quân đoàn hứa
sẽ phối trí pháo binh, đặc biệt là pháo
binh 175 ly để thỏa măn kế hoạch của
Hải quân, khi được yêu cầu. Kể
từ khi được chỉ định tăng phái,
tôi thường có mặt tai Vùng I duyên hải
mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công việc
của tôi tại Hải đội, nhưng chưa
lần nào BTL HQ, BTL Hạm đội hoặc Vùng I Duyên
hải chỉ thị tôi phải có mặt trong vùng.
Khi có mặt tại vùng tôi thường t́m hiểu t́nh
h́nh tổng quát tại Quân khu I cũng như đi
hoặc tháp-tùng Tư lệnh HQ vùng I duyên hải thăm
viếng các đơn vị lục quân bạn
cấp sư đoàn, lữ đoàn hay trung đoàn.
Trở lại trận hải chiến Hoàng Sa, vào
khoảng ngày 11 tháng Giêng năm 1974, chỉ khoảng
vài ngày sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger
rời Trung cộng, th́ đột nhiên Ngoại trưởng
Trung cộng lại một lần nữa tuyên bố
về chủ quyền của họ trên các quần
đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi rất lưu-ư
tin này v́ tôi đă chỉ huy công-cuộc đặt
quân trú-pḥng đầu tiên trên đảo Nam Yết
vùng Trường Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau,
v́ Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc
c̣n bận công cán ngoại quốc, th́ phát ngôn viên
Bộ Ngoại giao VNCH bác bỏ luận cứ của
Trung cộng và tái xác nhận một lần nữa
chủ quyền của VNCH trên các quần đảo
đó.
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, tôi từ Sài G̣n đi Vũng
Tàu để chủ tọa lễ trao quyền chỉ
huy Tuần dương hạm HQ5 Trần B́nh Trọng
đang neo tại chỗ, cho tân hạm trưởng là
HQ trung tá Phạm Trọng Quỳnh (tôi không c̣n
nhớ tên cựu hạm trưởng). Khi trở
về Sài G̣n, lúc theo dơi bản tin tức hàng ngày
của đài truyền-h́nh th́ thấy Ngoại trưởng
Vương Văn Bắc hùng hồn và nghiêm trọng
khi tuyên bố chủ quyền của VNCH trên 2
quần đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi thấy
có chuyện bất ổn có thể xẩy ra tại Vùng
I duyên hải nhất là Việt cộng có lẽ
được Trung cộng hỗ trợ tạo ra t́nh
thế rắc rối ngoài hải đảo để
thu hút lực lượng của HQVN, và đương
nhiên CS sẽ lợi dụng để tràn xuống dưới
vĩ tuyến 17 như đă dự liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông báo đến
Tư lệnh Hạm đội; tôi lên phi trường
Tân Sơn Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng
không quân sự. Tôi gặp ngay một vị thượng
sĩ Không quân trưởng trạm và nói là tôi
cần đi gắp ra Đà Nẵng. Vị thượng
sĩ tŕnh với tôi là danh sách hành khách đă đầy
đủ cho chuyến bay và giới thiệu tôi
gặp vị trung úy phi công trưởng phi cơ C130.
Sau khi tŕnh bày lư do khẩn cấp đi Đà
Nẵng của tôi, vị phi công trưởng trang
trọng mời tôi lên phi cơ ngồi vào ghế
phụ trong pḥng phi công.
Đến Đà Nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới
kêu điện thoại cho HQ đại tá Nguyễn
Hữu Xuân, Tư lệnh phó Vùng cho xe đón tôi
tại phi trường. Đến BTL/HQ Vùng I duyên
hải tôi mới được biết chi tiết
những ǵ đang xảy ra tại Hoàng Sa, và
được biết thêm là chiếc tuần dương
hạm HQ5, mà tôi vừa chủ tọa trao quyền
chỉ huy ngày hôm qua tại VũngTàu sẽ có
mặt tại quân cảng vào buổi chiều tối
cùng với biệt đội hải kích.
Tư lệnh HQ vùng I duyên hải cũng cho tôi hay và
giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có
thủ bút của Tổng thống vừa tới thăm
bản doanh trước đây, nhưng tôi không
hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ bút
v́ tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng tư
giữa Tổng thống và một vị Tướng
lănh. Vị Tư lệnh này c̣n cho tôi hai chọn
lựa: một là chỉ huy các chiến hạm ngay
tại BTL Vùng, hai là đích thân trên chiến hạm.
Tôi đáp tŕnh ngay là: Tôi sẽ đi theo các
đơn vị của tôi. Từ ngày được
thuyên chuyển về Hạm đội, không như các
vị tiền nhiệm, tôi thường xa Bộ
chỉ huy để đi theo các chiến hạm trong
công tác tuần dương. Mỗi chuyến công tác,
sự hiện diện của tôi đă mang lại cho
nhân viên chiến hạm niềm phấn khởi sau
nhiều ngày phải xa căn cứ. Tôi thường
lưu ư các vị hạm trưởng đến
việc huấn huyện nội bộ hoặc thao dượt
chiến thuật với chiến hạm khác khi
được phép.
Đến khoảng buổi chiều th́ Tư lệnh
vùng I duyên hải c̣n hỏi tôi có cần thêm ǵ, tôi
tŕnh xin thêm một chiến hạm nữa v́ cần
hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp
bị tấn công trên hải tŕnh, chứ không
phải v́ số lượng chiến hạm Trung
cộng đang có mặt tại Hoàng Sa. Chiếc
Hộ tống hạm (PCE) HQ10 Nhựt Tảo được
chỉ định xung vào Hải đoàn đặc
nhiệm, với lư do chính là chiếc Hộ tống
hạm này đang tuần dương ngay khu vực
cửa khẩu Đà Nẵng nên giảm bớt
thời gian di chuyển, chiến hạm chỉ có
một máy chánh khiển dụng mà thôi. Ngoài ra vị
Tư lệnh HQ vùng c̣n tăng phái cho tôi HQ thiếu tá
Toàn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ
thiếu tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi
chưa biết khả năng nên trong suốt thời
gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm vụ giữ liên
lạc với các BTL cho vị sĩ quan này. Tôi dùng cơm
chiều gia đ́nh cùng Tư lệnh HQ Vùng tại tư
thất trong khi chờ đợi Tuần dương
hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư lệnh HQ Vùng
đích thân đi bộ tiễn chân tôi ra cầu quân
cảng. Sau trận chiến, vị Đô đốc này
có thổ lộ cùng tôi là ông đă tưởng
đó là bữa cơm cuối cùng của ông với
tôi. Như vậy là trận hải chiến đă
dự liệu là sẽ có thể xẩy ra, và
chắc vị Đô đốc đă mật tŕnh
về Tư lệnh Hải quân thường có
mặt tại BTL.
Tuần dương hạm HQ5 rời bến khoảng
09:00 tối và tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng
Sa cho Hạm trưởng HQ5 là vị hạm trưởng
thâm niên hơn. (Ghi chú của Trần Đỗ
Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm trưởng
HQ5 là trung tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm
niên hơn Hạm trưởng HQ5 là thiếu tá Thà
thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện diện
của tôi trên chiến hạm này đă làm tân
hạm trưởng, vừa nhậm chức 2 ngày trước,
được vững tâm hơn v́ chắc tân
hạm trưởng chưa nắm vững được
t́nh trạng chiến hạm cũng như nhân viên
thuộc hạ. Các chiến hạm đều giữ
im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định
kỳ về vị trí.
NHỮNG DIỄN TIẾN NGÀY HÔM TRƯỚC TRẬN
HẢI CHIẾN
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến
hạm HQ5 và HQ10 đă đến gần Hoàng Sa, và
trong tầm âm thoại bằng máy VRC46 (hậu thân
của máy PRC25 nhưng với công xuất mạnh hơn)
để liên lạc bằng bạch văn, v́
tầm hữu hiệu của máy chỉ ở trong vùng
Hoàng Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm trưởng
HQ4 HQ trung tá Vũ hữu San, lúc đó đang là sĩ
quan thâm niên hiện diện, để được
am tường thêm t́nh h́nh cũng như thông báo
về sự hiện diện của tôi, vừa là
Chỉ huy trưởng Hải đội vừa là
để thay thế quyền chỉ huy mọi
hoạt động, theo đúng thủ tục ghi trong
Hải quy.
Sau khi được tŕnh bầy chi tiết các
diễn tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm trưởng
này và chia sẻ những khó khăn mà vị này đă
trải qua trong những ngày trước khi tôi có
mặt tại vùng.
Vào khoảng xế trưa, th́ cả 4 chiến
hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4,
HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập trung trong vùng ḷng
chảo của quần đảo Hoàng Sa và Hải
đoàn đặc nhiệm được thành h́nh.
Nhóm chiến binh thuộc Tuần dương hạm
HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đă đổ bộ và
trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam
Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng
(Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được
giữ nguyên vị trí pḥng thủ để giữ
đảo. Sau khi quan sát các chiến hạm Trung
cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang Ḥa
(Duncan), tôi quyết định ngay là hải đoàn
sẽ phô trương lực lượng bằng
một cuộc thao diễn chiến thuật tập
đội để tiến về phía đảo
Quang Ḥa với hy vọng là có thể đổ
bộ hải kích như các chiến hạm ta đă làm
trước đây. Lúc này trời quang đăng, gió
nhẹ và biển êm. Tất cả chiến hạm
đều phải vào nhiệm sở tác chiến, nhưng
các dàn hải pháo và vũ khí đại liên phải
ở trong thế thao diễn. Khởi hành từ nam
đảo Hoàng Sa để tiến về đảo
Quang Ḥa, 4 chiến hạm vào đội h́nh hàng
dọc, dẫn đầu là Khu trục hạm HQ4, theo
sau là tuần dương hạm HQ5 làm chuẩn
hạm đă có trương hiệu kỳ hải
đội, thứ ba là tuần dương hạm HQ16
và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc độ
chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến
hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn
(tức1000 yard), phương tiện truyền tin là
kỳ hiệu và quang hiệu, và âm thoại bằng
VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử dụng để tránh
hiểu lầm ám-hiệu vận chuyển chiến
thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải đoàn
vận-chuyển vào đội-h́nh hướng về
phía đảo Quang Ḥa th́ hai chiến hạm Trung
cộng loại Kronstad mang số hiệu 271 và 274
bắt đầu phản-ứng bằng cách vận
chuyển chặn trước hướng đi
của hải đoàn, nhưng hải đoàn vẫn
giữ nguyên tốc độ, trong khi đó th́ hai
chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số
389 và 396 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây
là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt ḿn
loại T43 cùng 2 chiếc ngư thuyền ngụy trang
402 và 407, ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư)
của họ vẫn nằm nguyên vị trí sát bờ
bắc đảo Quang Ḥa. Tôi đă không chú tâm đến
2 chiếc chiến hạm nhỏ của địch v́
cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà
thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về
trận hải chiến Hoàng Sa, HQ thiếu tá Trần
Đỗ Cẩm truy ra theo số hiệu là loại
trục lôi hạm và chắc trang bị vũ khí
nhẹ hơn) c̣n hai chiếc tầu tiếp tế
ngụy trang như ngư thuyền th́ không đáng
kể.
Hành động chận đường tiến
của chiến hạm ta đă từng được
họ xử dụng trong mấy ngày trước đây
khi các chiến hạm ta đổ quân lên các đảo
Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng để xua
quân của Trung cộng rời đảo. Chiếc
Kronstad 271 bắt đầu xin liên lạc bằng quang
hiệu để xin liên lạc, Tuần dương
hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công điện
bằng Anh ngữ: "These islands belong to the People
Republic of China (phần này tôi nhớ không
chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny"
(Phần này tôi nhớ rất kỹ v́ tôi có phụ
nhận quang hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện
khái-quát như sau: "Please leave our territorial water
immediately"
Công điện của chiến hạm Trung cộng
được lập đi lập lại ít nhất
3 lần sau khi họ nhận được công điện
của Hải đoàn đặc nhiệm VNCH, và
chiến hạm ta cũng tiếp tục chuyển
lại công điện yêu cầu họ rời
khỏi lănh hải của VNCH.
V́ 2 chiến hạm Kronstad Trung cộng cố t́nh
chặn đường tiến của Hải đoàn
đặc nhiệm với tốc độ khá cao,
nếu Hải đoàn tiếp tục tiến thêm th́
rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi
đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo
Hoàng Sa và vẫn giữ t́nh trạng ứng trực cũng
như theo dơi các chiến hạm Trung cộng, họ cũng
lại tiếp tục giữ vị trí như cũ
tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Ḥa.
Sự xuất hiện thêm 2 chiến hạm của
HQVN vào trong vùng chắc chắn đă được
chiếc Kronstad 271 của Trung cộng, được
coi như chiến hạm chỉ huy, báo cáo về
Tổng hành dinh của họ, và việc tăng
viện có thể được coi như đă
được chuẩn bị.
Với hành động quyết liệt ngăn
chặn ta không tiến được đến đảo
Quang Ḥa, tôi cho rằng họ muốn cố thủ
đảo này. Việc đổ bộ quân để
xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi
hy vọng, chỉ có thể phải thực hiện
bất thần để tránh hành động ngăn
chặn của họ và có lực lượng hải
kích với trang phục người nhái, may ra họ có
thể phải nhượng bộ, như Tuần dương
hạm HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đă thành công
trong mấy ngày trước đó. Nếu họ
tấn công thay v́ nhượng bộ, Hải đoàn
đặc nhiệm buộc phải sẵn sàng
chống trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu cầu Tuần dương
hạm HQ16 chuyển phái đoàn công binh của Quân
đoàn I sang Tuần dương hạm HQ 5 bằng
xuồng. Phái đoàn công binh Quân đoàn I do thiếu
tá Hồng hướng dẫn đă vào gặp tôi
tại pḥng ăn sĩ quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ
quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng. Tôi cho cả hai
hay là t́nh h́nh sẽ khó tránh khỏi một cuộc
đụng độ nên tôi không muốn các nhân viên
không Hải quân có mặt trên chiến hạm và tôi
sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu
Tuần dương hạm HQ5 cấp cho tất cả
một ít lương khô. Riêng ông Kosh th́ tôi yêu
cầu Hạm trưởng HQ5 đưa cho ông 1
bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất
cả phái đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào
họ khi xuồng bắt đầu hướng
về đảo Hoàng Sa. Kể từ giờ phút
đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại
ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu cầu ông
cho trả lại Tuần dương hạm HQ5
bịch thuốc lá Capstan v́ thuốc lá này thuộc quân
tiếp-vụ của chiến hạm xuất ra
ứng trước. Riêng thiếu tá Hồng th́ tôi
đă có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào
năm 1996, cũng theo lời ông th́ ông đă viết
xong vào trước năm 1975, một cuốn kư
sự về thời gian bị bắt làm tù binh trong
lục địa Trung Hoa nhưng không được
Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho xuất
bản v́ chưa phải lúc thuận tiện. Vào
khoảng 10 giờ tối, tôi trực tiếp nói
chuyện bằng vô tuyến với tất cả
hạm trưởng để cho hay là t́nh h́nh sẽ
khó tránh được một cuộc đụng
độ, và yêu cầu các vị này chuẩn bị
các chiến hạm và huy động tinh thần nhân
viên để sẵn sàng chiến đấu. Tôi
biết rơ cuộc chiến nếu xẩy ra th́
tất cả nhân viên đều không đủ kinh
nghiệm cho các cuộc hải chiến, v́ từ lâu
các chiến hạm chỉ chú tâm và đă thuần
thuộc trong công tác tuần dương ngăn
chặn hoặc yểm trợ hải pháo mà thôi,
nếu có những nhân viên đă phục-vụ trong các
giang đoàn tại các vùng sông ng̣i th́ họ chỉ
có những kinh nghiệm về chiến đấu
chống các mục tiêu trên bờ và với vũ khí
tương đối nhẹ hơn và dễ dàng
trấn áp đối phương bằng hỏa
lực hùng hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh
hành quân, tôi không c̣n nhớ được xuất
xứ, có thể là của Vùng I duyên hải,
được chuyển mă hóa trên băng tần SSB
(single side band) (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm:
đây là công điện Mật/Khẩn chiến
dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do
BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân
Hoàng Sa 1). Lệnh hành quân vừa được
nhận vừa mă dịch ngay nên không bị
chậm-trễ, và lệnh này ghi rơ quan niệm hành quân
như sau: tái chiếm một cách ḥa b́nh đảo
Quang Ḥa. Lệnh hành quân cũng không ghi t́nh h́nh địch
và lực lượng trừ bị nhưng những
kinh nghiệm từ trước tới nay nhất là
trong hai năm tôi đảm nhận trách vụ Tham mưu
phó hành quân tại BTL/HQ, tôi dự đoán Trung
cộng, v́ đă thiết lập một căn cứ
tiền phưong tại đảo Phú Lâm thuộc nhóm
Tuyên Đức nằm về phía đông bắc đảo
Hoàng Sa sát vĩ tuyến 17, nên họ đă có
thể đă phối trí tại đây lực lượng
trừ bị, và hơn nữa trên đảo Hải
Nam c̣n có một căn cứ Hải quân rất
lớn và một không lực hùng hậu với các
phi cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn
là từ Đà Nẵng ra. Việc Trung cộng lấn
chiếm những đảo không có quân trú pḥng
của ta trong vùng Hoàng Sa, đă phải được
họ chuẩn bị và thiết kế chu đáo
từ lâu trước khi tái tuyên bố chủ
quyền. Trong khi đó việc HQVNCH phát hiện
sự hiện diện của họ chỉ có từ
khi Tuần dương hạm HQ16 được
lệnh đến thăm viếng định kỳ và
chở theo phái đoàn Công binh Quân đoàn I ra thám sát
đảo để dự kiến việc thiết
lập một phi đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn tất nhận lệnh hành quân, tôi chia
Hải đoàn thành hai phân đoàn đặc
nhiệm: Phân đoàn I là nỗ lực chính gồm
Khu trục hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5
do Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4 chỉ huy;
Phân đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần
dương hạm HQ16 và Hộ tống hạm HQ10 do
Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16
chỉ huy. Nhiệm vụ là phân đoàn II giữ nguyên
vị trí trong ḷng chảo Hoàng Sa để tiến
về đảo Quang Ḥa vào buổi sáng. Phân-đoàn
I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây
rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam
đảo Quang Ḥa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày
19 để đổ bộ biệt đội
hải kích. Phân đoàn I phải đi bọc ra phía
tây quần đảo thay v́ đi thẳng từ
đảo Hoàng Sa xuống đảo Quang Ḥa là để
tránh việc các chiến hạm Trung cộng có
thể lại vận chuyển ngăn chặn
đường tiến của chiến hạm như
họ đă làm vào buổi chiều, vả lại
việc hải hành tập đội về đêm
trong vùng có băi cạn và đá ngầm có thể gây
trở ngại cho các chiến hạm, nhất là Khu
trục hạm c̣n có bồn SONAR (máy ḍ tiềm
thủy đĩnh), hy vọng hải tŕnh như
vậy sẽ tạo được yếu tố
bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông
bắc, việc đổ bộ vào phía tây nam sẽ
tránh được sóng biển cho xuồng bè. Nên ghi
nhận tại điểm này là kể từ năm
1973, toán cố vấn HQ Hoa Kỳ tại Hạm đội
mà trưởng toán là HQ đại tá Hamn (tên họ)
đă nhiều lần yêu cầu tháo gỡ máy Sonar trên
các khu trục hạm. Phó đề đốc
Nguyễn Thành Châu (lúc đó c̣n mang cấp HQ đại
tá) Tư lệnh Hạm đội đă trao nhiệm
vụ cho tôi thuyết phục họ giữ máy
lại để dùng vào việc huấn luyện. Măi
đến khi HQ đại tá Nguyễn Xuân Sơn
nhận chức Tư lệnh Hạm đội
một thời gian, tôi vẫn tiếp tục liên
lạc với toán cố vấn, và sau cùng họ
mới bằng ḷng giữ máy lại với tính cách
để huấn luyện. Thực ra một khu
trục hạm mà thiếu máy thám xuất tiềm
thủy đĩnh th́ khả năng tuần thám và
tấn công sẽ giảm đi nhiều.
DIỄN TIẾN TRẬN HẢI CHIẾN NGÀY 19 THÁNG 1 NĂM
1974
Đúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân
đoàn I đă có mặt tại tây nam đảo
Quang Ḥa, thủy triều lớn, tầm quan sát trong ṿng
1.50 đến non 2.00 hải lư, trời có ít mây
thấp nhưng không mưa, gió đông bắc
thổi nhẹ, biển tương đối êm tuy có
sóng ngầm. Phân đoàn I tiến sát đảo
khoảng hơn 1 hải lư, Tuần dương
hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để
thuận tiện đổ bộ hải kích. Hai
chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rơ
rệt nên thấy họ đă vận chuyển lúng túng
và không thực hiện được hành động
ngăn cản như họ đă từng làm vào
chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất
ngờ là hai chiếc chủ lực địch
lại có mặt cùng một nơi để sẵn sàng
đối đầu mà tôi không phải t́m kiếm
họ, như tôi đă coi họ như là muc tiêu chính.
Họ đă phải luồn ra khỏi khu ḷng chảo
vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dơi
được đuờng tiến quân của Phân
đoàn I hay không. Vào giờ này th́ họ đă
phải biết rơ là Tuần dương hạm HQ5 là
chiến hạm chỉ huy của ta và cũng đă
phải biết được hỏa lực của
chiếc khu trục hạm.
Biệt đội hải kích do HQ đại úy
Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy đă được tôi
chỉ thị là không được nổ súng và lên
bờ yêu cầu toán quân của họ rời đảo.
Trong biệt đội này có một chiến sĩ
hải kích Đỗ Văn Long và luôn cả HQ đại
úy Nguyễn Minh Cảnh là những chiến sĩ
đă tham dự cuộc hành quân đầu tiên
Trần Hưng Đạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng
do tôi chỉ huy để xây cất doanh trại và
đặt quân trú pḥng đầu-tiên trên đảo
Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa vào
cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt đội hải kích
xuồng xuồng cao su, tôi đích thân ra cầu thang căn
dặn và nhấn mạnh về việc đổ
bộ mà không được nổ súng, và khi bắt
liên lạc được với họ th́ yêu
cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ bộ sẽ thành
công v́ quân Trung cộng trên đảo đă phải
tổ chức bố pḥng cẩn mật tiếp theo
sự thất bại của họ trên các đảo
khác đă nói ở trên, trong khi đó biệt đội
hải kích lại không có được hỏa
lực chuẩn bị băi đổ-bộ. Một
lần nữa tôi lại chỉ thị cho các hạm
trưởng chuẩn bị để chiến đấu.
Nếu cuộc đổ bộ thất bại th́
với hỏa lực của 2 khẩu 76 ly tự động
trên Khu trục hạm HQ4, một chiến hạm
chủ lực của Hải đoàn đặc
nhiệm, sẽ có đủ khả năng loại ít
nhất là hai chiến hạm chủ lực Trung
cộng ra khỏi ṿng chiến không mấy khó khăn,
c̣n quân bộ của Trung cộng trên đảo th́ tôi
tin chỉ là một mục tiêu thanh toán sau cùng. Tôi c̣n
có ư định là sẽ điều động
chiếc khu trục hạm vượt vùng hơi
cạn trực chỉ hướng bắc vào thẳng
vùng ḷng chảo để tăng cường cho Phân
đoàn II nếu cần sau khi đă loại xong 2
chiếc Kronstad mà tôi luôn luôn cho là mục tiêu chính.
Tôi rất vững ḷng vào hỏa lực của
chiến hạm chủ lực v́ tôi đă được
tường tŕnh đầy đủ về khả năng
của hải pháo 76 ly tự động khi Khu
trục hạm này yểm trợ hải pháo tại vùng
Sa Huỳnh trong nhiệm kỳ hạm trưởng
của HQ trung tá Nguyễn Quang Tộ.
Biệt đội hải kích tiến vào đảo
bằng 2 xuồng cao su, từ chiến hạm ta,
việc quan sát sự bố pḥng của Trung cộng
trên đảo không được rơ ràng. Các
chiến hạm Trung cộng cũng không có phản
ứng ǵ đối với xuồng của hải kích.
Theo báo cáo của Biệt đội trưởng
hải kích th́ chiến sĩ hải kích Đỗ Văn
Long là người đầu tiên tiến vào đảo
và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đă
bị hỏa-lực trong bờ bắn tử thương
ngay tại băi biển. HQ trung úy Lê Văn Đơn
(xuất thân từ bộ binh) tiến vào để thâu
hồi tử thi của liệt sĩ Long cũng
lại bị tử thương ngay gần xuồng nên
tử thi vị sĩ-quan này được thâuhồi
ngay. Việc thất bại đổ bộ được
báo cáo ngay về BTL HQ vùng I duyên hải và chừng ít
phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) th́ đích thân Tư
lệnh HQ VNCH hay Tư lệnh Vùng I duyên hải ra
lệnh vắn tắt có hai chữ: "khia
hỏa" bằng bạch văn cho Hải đoàn
đặc nhiệm và không có chi tiết ǵ khác hơn.
Tôi nhận biết được khẩu lệnh trên
băng siêu tần số SSB (single side band) không
phải là của nhân viên vô tuyến mà phải là
của cấp Đô đốc, nhưng từ đó
đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư
lệnh Hải quân mà tôi đă quen thuộc giọng
nói, nên tôi đă không kiểm chứng thêm về sau.
Tôi trở nên yên tâm hơn v́ khẩu lệnh khai
hỏa đă giải tỏa trách nhiệm của tôi
ghi trong phần quan niệm của lệnh hành quân là
tái chiếm một cách ḥa b́nh. Tôi đích thân vào máy
siêu tần số tŕnh ngay là chưa có thể khai
hỏa được v́ phải chờ triệt
thối Biệt đội hải kích về chiến
hạm, họ c̣n trên mặt biển và ở vào
vị thế rất nguy hiểm. Riêng tử thi
của liệt sĩ hải kích Đỗ Văn Long tôi
lệnh không cho vào lấy v́ có thể gây thêm thương
vong. Tôi tin rằng tử thi của liệt sĩ Long
sẽ không khó khăn để thâu hồi khi toán quân
bộ Trung cộng được tiêu diệt sau đợt
các chiến hạm của họ bị loại hoàn toàn
khỏi ṿng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt đội
hải kích được hoàn tất thu hồi
về Tuần dương hạm HQ5 với HQ trung úy Lê
Văn Đơn tử thương. Trong khi đó th́
tôi chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn
bị tấn công, mỗi chiến hạm tấn công
một chiến hạm địch, và bám sát địch
trong tầm hải pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), v́
loại hải pháo này có nhịp tác xạ cao, dễ
điều chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi
không tin tưởng nhiều vào hải pháo 127 ly và
khả năng điều khiển chính xác của nhân
viên v́ hải pháo chỉ có thể tác xạ từng
phát một, nạp đạn nặng nề và
chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực
xạ.
Tất cả các chiến hạm phải cùng khai
hỏa một lúc theo lệnh khai hỏa của tôi
để tạo sự bất ngờ và sẽ gây
thiệt hại trước cho các chiến hạm
Trung cộng. V́ tầm quan sát c̣n rất hạn
chế, nên từ Tuần dương hạm HQ5 không
quan sát được Tuần dương hạm HQ16 và
Hộ tống hạm HQ10 cũng như hai chiến
hạm khác và hai ngư thuyền ngụy trang của
Trung cộng nên tôi không rơ các chiến hạm này bám
sát các chiến hạm Trung cộng được bao
nhiêu, nhưng tôi đă tin rằng Phân đoàn II không
có bận tâm về việc đổ bộ nên có
nhiều th́ giờ hơn để thi hành kế
hoạch tấn công và sẽ dễ dàng chế
ngự được hai chiến hạm phụ
của địch cùng hai ngư thuyền. Riêng
Tuần dương hạm HQ5 và Khu trục hạm HQ4
đă nghiêm chỉnh thi hành lệnh. Trước khi
ban hành lệnh khai hỏa tôi hỏi các chiến
hạm đă sẵn sàng chưa và nhấn mạnh
một lần nữa là phải khai hỏa đồng
loạt để đạt yếu tố bất
ngờ. Các hạm trưởng đích thân trên máy
VRC46 lần lượt báo cáo sẵn sàng. Tôi rất
phấn khởi v́ giờ tấn công hoàn toàn do tôi
tự do quyết định, không phải lệ
thuộc vào lệnh của thượng cấp và vào
ư-đồ chiến thuật của địch. Địch
lúc này đă tỏ ra không có một ư định ǵ
cản trở hay tấn công chiến hạm ta.
Hải quân đại tá Đỗ Kiểm, Tham mưu
phó hành quân tại BTL HQ c̣n đặc biệt cho tôi
hay là có chiến hạm bạn ở gần, nhưng
với sự hiểu biết của tôi, tôi không có
một chút tin tưởng ǵ vào đồng minh này v́
kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa Kỳ và Trung
cộng đă chấm dứt sự thù nghịch nên
Hải quân của họ sẽ không một lư do ǵ
lại tham dự vào việc hỗ trợ HQVN trong
vụ tranh chấp về lănh thổ. Họa chăng
họ có thể cứu vớt những người
sống sót nếu các chiến hạm HQVN lâm nạn.
Nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc
t́m kiếm những nhân viên từ Hộ tống
hạm HQ10 và các toán đă đổ bộ lên
trấn giữ các đảo đă đào thoát để
trở về đất liền, chúng ta không nhận
thấy một hành động nhân đạo nào
từ phía đồng minh kể cả của phi cơ
không tuần.
Khoảng 10:24 sáng th́ lệnh khia hỏa tấn công
được ban hành và tôi vào trung tâm chiến báo
trực tiếp báo cáo bằng máy siêu tần số
SSB, tôi đă cố ư giữ ống nói sau khi tôi
chấm dứt báo-cáo để tiếng nổ
của hải pháo cũng được truyền
đi trên hệ thống này. Cuộc khai hỏa
tấn công đă đạt được yếu
tố bất ngờ cho các chiến hạm địch
v́ tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành động
của chiến hạm cũng tương tự như
trong những vài ngày trước, khi HQVN đổ quân
trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy
Mộng và nhất là cuộc phô diễn lực lượng
của hải đoàn đặc nhiệm ngày hôm trước
HQVN đă không có một hành động khiêu khích nào,
mà c̣n chấp thuận giữ liên lạc bằng quang
hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây
gần đảo Quang Ḥa, hướng mũi về phía
tây là mục tiêu của Tuần dương hạm
HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía
đông, đặt mục tiêu về phía tả
hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng
đạn ngay từ phút đầu, vận chuyển
rất chậm chạp nên đă là mục tiêu
rất tốt cho Tuần dương hạm HQ5.
Hỏa lực của chiếc Kronstad 271 này không gây
nhiều thiệt hại cho Tuần dương hạm
HQ5, nhưng có thể đă gây thiệt hại
nặng cho Hộ tống hạm HQ10 nằm về phía
bắc. Khu trục hạm HQ4 nằm về phía tây nam
của Tuần dương hạm HQ5 đặt
mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía
bắc tức là tả hạm của chiến
hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở
ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và
phải chờ sửa chữa. Việc này đă làm
đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi
bối rối. Sau vài phút th́ chiến hạm này xin
bắn thử và kết quả là vẫn bị
trở ngại và cần tiếp tục sửa
chữa thêm, nhưng tôi vẫn c̣n chút hy vọng. Khu
trục hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ
thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết
quả, tuy nhiên chiến hạm này vẫn phải
tiếp tục bám sát mục tiêu của ḿnh trong
tầm các loại đại liên nên đă bị
thiệt hại nhiều bởi hỏa lực của
chiếc Kronstad 274, và đại liên đă không áp
đảo được hỏa lực của địch.
Trên Tuần dương hạm HQ5, tôi xử dụng
chiếc máy PRC25 trước ghế hạm trưởng
bên hữu hạm của đài chỉ huy để
liên lạc với các chiến hạm, tôi vừa
rời ghế để ra ngoài quan sát hai phía th́
một trái đạn loại nổ mạnh gây
một lỗ lủng khoảng nửa thước
đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút
này trở đi tôi phải vào tận trung tâm
chiến báo để dùng máy VRC46. Hạm trưởng
Tuần dương hạm HQ5 đứng cạnh đài
chỉ huy bên tả hạm với sĩ quan hải pháo
để dễ quan sát mục tiêu được
chỉ định, nên tôi thường nói trực
tiếp với hạm trưởng tại nơi này.
Trung tâm chiến báo của chiến hạm này chỉ
quen thuộc dùng radar vào việc hải hành, vả
lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều
nhiễu xạ nên tôi không được rơ về
vị trí của Phân-đoàn II và các chiến hạm
của địch c̣n nằm trong khu ḷng chảo Hoàng
Sa.
Sau chừng 15 phút th́ Tuần dương hạm HQ16 báo
cáo là bị trúng đạn hầm máy, tầu bị
nghiêng nên khả năng vận chuyển giảm sút,
buộc phải lui ra ngoài ṿng chiến để
sửa chữa và cũng không c̣n liên lạc
được với Hộ tống hạm HQ10, không
biết rơ t́nh trạng và chỉ thấy nhân viên
đang đào thoát. Tôi nhận thấy một
tuần dương-hạm đă vận chuyển
nặng nề mà chỉ c̣n một máy và bị nghiêng,
nếu tiếp tục chiến đấu th́ sẽ là
một mục tiêu tốt cho địch, nên tôi đă
không ra phản lệnh. Ngoài ra, Hạm trưởng
Tuần dương hạm HQ16 là một vị sĩ
quan ít tích cực hơn, nên tôi không mấy tin tưởng
là vị này có thể vượt qua được các
khó khăn kỹ thuật để cố gắng
tiếp tục tấn công. Khu trục hạm HQ4 đă
bị thiệt hại nhiều sau khi phải bám sát
chiến hạm địch trong tầm đại liên,
nên tôi ra lệnh cho Khu trục hạm HQ4 phải rút
ra khỏi ṿng chiến ngay và chỉ thị cho
Tuần dương hạm HQ5 yểm trợ cho
chiếc này khi tiến ra xa, v́ tất nhiên Hải
đội đặc nhiệm không thể để
bị thiệt hại một khu trục hạm mà
Hải quân VNCH chỉ có tổng cộng 2 chiếc mà
thôi.
Khi khu trục hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến,
lại không bị chiếc Kronstad 274 truy kích hoặc tác
xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này
của địch có phần rảnh tay hơn để
tấn công Tuần dương hạm HQ5 vào phía
hữuhạm hầu giảm bớt hỏa lực
của chiến hạm ta như để cứu văn
chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này th́
tin tức từ BTL Hải quân tại Sài G̣n do chính
Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi đội
khu trục cơ F5 đă cất cánh để yểm
trợ cho Hải đoàn đặc nhiệm. Do sự
liên lạc từ trước với BTL sư đoàn
I Không quân tại Đà Nẵng, tôi hiểu là phi cơ
F5 chỉ có thể yểm trợ trong ṿng 5 tới 15
phút mà thôi v́ khoảng cách từ Đà Nẵng
tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự
trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ
cất cánh, BTL Hải quân đă cho rằng tin này có
thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu.
Một điều nữa là từ trước
tới giờ phút đó tôi chưa được
thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào
giữa Không quân và Hải quân nên tôi rất lo âu
về sự nhận dạng của phi công để
phân biệt giữa chiến hạm của HQVN và
chiến hạm Trung cộng, nhất là lúc có mây mù
thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm
mục tiêu. Máy VRC 46 trong trung tâm chiến báo phải
chuyển sang tần số không hải và đích thân
tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc
với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng
ngay trung tâm chiến báo từ hữu hạm, sát
gần ngay nơi tôi đứng, làm trung tâm bị phát
hỏa. Các nhân viên trong trung tâm c̣n măi núp sau bàn
hải đồ th́ tôi nhanh tay với một b́nh
cứu hỏa gần chỗ tôi đứng dập
tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngă v́ vấp
chân vào bàn hải đồ, bàn chân trái bị đau
mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp tục liên
lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10
phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải
ngưng và chuyển tần số về liên lạc
với các chiến hạm khác v́ cuộc giao tranh
đă đến độ khốc liệt hơn. Sau
phút này th́ Tuần dương hạm HQ5 bị trúng
nhiều đạn làm sĩ quan trưởng khẩu
127 ly tử thương và hải pháo bị bất
khiển-dụng v́ phần điện điều
khiển pháo tháp tê liệt, và máy siêu tần số
SSB không c̣n liên lạc được v́ giây trời
bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu
kỳ hải đội bị rách nát phần đuôi.
Tôi ra ngoài quan sát phía tả hạm và được
nghe báo cáo là hầm đạm phát hỏa. Tôi nói
ngay với hạm trưởng là cần phải làm
ngập hầm đạn. Khẩu hải pháo 40 ly
đơn tả hạm bị bất khiển dụng
v́ bị trúng đạn vào khối nạp đạn
và khẩu 40 ly hữu hạm bị hư hại
nhẹ. Tôi yêu cầu hạm trưởng là chỉ nên
cho tác xạ từng viên mà thôi, v́ nhu cầu pḥng không
rất có thể xẩy ra trong một thời gian
ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng
cách xa chừng 8 đến 10 hải lư, xuất
hiện một chiến hạm của Trung cộng
loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép
hỏa tiễn loại hải hải (Ghi chú của
Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh
tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao tranh
với một tốc độ cao, quan sát được
bằng mắt viễn kính và không một chiến
hạm nào báo-cáo khám phá được bằng radar
từ xa. Tôi dự đoán loại chiến hạm này
ít khi được điều động từng
chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất
một chiếc theo sau. Với t́nh trạng của
Hải đội đăc nhiệm: một hộ
tống hạm bị loại khỏi ṿng chiến;
một tuần dương hạm bị thương nơi
hầm máy; một khu trục hạm và một
tuần dương hạm chỉ c̣n hỏa lực
rất hạn chế; cộng với nguycơ bị
tấn công bằng cả hỏa tiễn hải
hải cũng như bằng phi cơ rất có
thể xẩy ra, nên tôi triệt thoái phần c̣n
lại của lực lượng là Khu trục
hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5 ra khỏi vùng
Hoàng Sa tiến hướng đông nam về phía Subic
Bay (Hải quân công xưởng của Hoa-Kỳ
tại Phi Luật Tân). Tôi cũng cầu nguyện
Đức Thánh Trần, Thánh Tổ của HQVNCH ban cho
tôi một trận mưa để giảm tầm quan
sát và khả năng tấn công của phi cơ địch.
Sau khi hai chiến hạm c̣n lại rút ra khỏi vùng
giao tranh chừng 10 phút th́ một trận mưa
nhẹ đă đổ xuống toàn vùng quần đảo
Hoàng Sa. Các chiến hạm ta đă không bị truy kích
và phi cơ địch cũng chưa xuất hiện.
Mục đích tôi hướng về phía đông nam là
để tránh bị phục kích của tiềm
thủy đĩnh Trung cộng tại hải tŕnh Hoàng
Sa Đà Nẵng, và khi ra ngoài xa lănh hải th́
nếu c̣n bị tấn công bằng phi cơ hoặc
tiềm thủy đĩnh th́ may ra đồng minh
Hải quân Hoa Kỳ có thể cấp cứu chúng tôi
dễ dàng hơn theo tinh thần cấp cứu hàng
hải quốc tế. Nếu chúng tôi không c̣n bị
tấn công th́ việc đến Subic Bay Phi Luật Tân
để xin sửa chữa trước khi hồi hương
là một điều khả dĩ được thượng
cấp chấp thuận.
Tuần dương hạm HQ5 phải mất gần
một giờ mới kéo lên được giây
trời khẩn cấp để tái lập sự liên
lạc bằng máy siêu tần số SSB. Hầm đạn
phía mũi của chiến hạm đă bị làm
ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc độ
có bị thuyên giảm. Chính trong thời gian mất liên
lạc, BTL tại Sài G̣n cũng như tại Đà
Nẵng rất bối rối cho sự an toàn của
hai chiến hạm và bản thân tôi. Chính Tư
lệnh Hạm đội tại Sài G̣n cũng đă
đưa tin mất liên lạc đến với gia
đ́nh tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến hạm HQ4 và HQ5
đă cách Hoàng Sa chừng 10 hải lư, trời
nắng và quang đăng. Tư lệnh Hải quân đích
thân ra lệnh cho cả hai chiến hạm phải
trở lại Hoàng Sa và đánh ch́m nếu cần, tôi
nhận được giọng nói của Đô đốc.
Lệnh đă được thi hành nghiêm chỉnh
ngay tức khắc. Sau khi liên lạc vô tuyến siêu
tần số được điều ḥa trở
lại th́ mọi báo cáo chi tiết về tổn
thất và t́nh trạng lúc bấy giờ của các
hai chiến hạm được chuyển đầy
đủ. Trên Tuần dương hạm HQ5 tôi cũng
được thông báo về Tuần dương
hạm HQ16 sẽ được Tuần dương
hạm HQ6 tới hộ tống về Căn cứ
Hải quân Đà Nẵng.
Đến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai
chiến hạm đang trở về Hoàng Sa, quá ngang ḥn
Tri Tôn, nghĩa là c̣n cách đảo Hoàng Sa chừng 1
giờ rưỡi hải hành nữa, th́ hai chiến
hạm được phản lệnh trở về
Đà Nẵng. Lúc này trời đă nắng, mây cao nên
rất dễ dàng cho việc hải hành. Trong một
cuộc đến thăm Tư lệnh HQVNCH tại tư
dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, th́ vị Đô
đốc này đă tiết lộ rằng nếu
biết được sớm t́nh trạng của
Hải đoàn đặc nhiệm th́ Tư lệnh
đă cho lệnh trở về căn cứ trước
sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn
ra lệnh cho các chiến hạm giữ nguyên nhiệm
sở tác chiến và nhất nhất các nhân viên không
ở trong nhiệm sở pḥng máy phải túc trực
trên boong để tránh tổn thất về nhân
mạng trong trường hợp bị tiềm
thủy đĩnh Trung cộng phục kích bằng ngư
lôi. Nhưng may mắn là điều tôi dự
liệu đă không xẩy ra. Các chiến hạm đă
khởi sự ngay thu dọn các tổn thất về
vật liệu và thu hồi các dư liệu tác
xạ.
Tôi ṭ ṃ mở đài phát thanh BBC vào sáng sớm ngày
20, th́ họ chỉ vỏn vẹn loan tin một
trận hải chiến đă xẩy ra trong vùng
quần đảo Hoàng Sa giữa Hải quân VNCH và
Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa, mỗi bên thiệt hại
1 chiến hạm và không thêm một chi tiết nào khác.
Tôi tỏ ra khâm phục đài nay về sự loan tin
nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đă không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng
tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh
thần bớt căng thẳng sau gần 48 tiếng
đồng hồ liên tục không được
nghỉ ngơi, tôi yêu cầu Hạm trưởng dùng
hệ thống liên hợp để loan báo xem có nhân
viên nào c̣n thuốc lá cho tôi xin một ít để hút.
Tôi không ngờ là các nhân viên tuần tự mang đến
cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu
phần C của đồng minh và các loại
thuốc trong thương trường lúc bấy
giờ, tôi lấy làm cảm động về sự
ưu ái của các nhân viên trên chiến hạm này. Vào
khoảng 2 giờ đêm tôi soạn thoản một sơ
đồ hành quân và các chi tiết về tổn
thất để chuẩn bị thuyết tŕnh khi
về tới căn cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1 th́ hai chiến hạm
của Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn.
Tuần dương hạm HQ16 cũng đă về
bến trước đó ít lâu. Một điều mà
các nhân viên của các chiến hạm và riêng tôi
rất cảm động là trên cầu thương
cảng Đà Nẵng là nơi đă được
chỉ định cho các chiến hạm cặp
bến, đă có sự hiện diện của các
vị Đô đốc Tư lệnh và Tư lệnh
phó HQVNCH, Đô đốc Tư lệnh HQ Vùng I Duyên
hải, một số đông sĩ quan cùng nhân viên
của các đơn vị Hải quân vùng Đà
Nẵng cùng các trại gia binh đă túc trực đón
đoàn chiến hạm trở về với rừng
biểu-ngữ:
"Hải quânViệt Nam quyết tâm bảo vệ lănh
thổ đến giọt máu cuối cùng".
"Một ư chí: chống Cộng. Một lời
thề: bảo vệ quê hương".
"Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng
của các chiến sĩ Hải quân tham dự Hải
chiến Hoàng Sa".
"Hoan hô tinh thần bất khuất của các
chiến sĩ hải chiến Hoàng Sa".
Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và
tử vong lên căn cứ th́ chỉ có 3 vị Đô
đốc cùng HQ đại tá Nguyễn Viết Tân
Chỉ huy trưởng Sở Pḥng vệ Duyên hải
lên Tuần dương hạm HQ5 và vào pḥng khách
của Hạm trưởng để dự cuộc
thuyết tŕnh về trận đánh. Ba vị Hạm
trưởng đều có mặt để tŕnh
bầy chi-tiết về chiến hạm của ḿnh. Các
vị Đô đốc cũng không hỏi thêm tôi
về những yếu tố đă đưa đến
những quyết định chiến thuật của
tôi, nhất là quyết định triệt thoái
phần c̣n lại của Hải đoàn đặc
nhiệm ra khỏi vùng Hoàng Sa. Sau phần thuyết tŕnh
các vị Đô đốc đă đi quan sát sự
thiệt hại của các chiến hạm và ủy
lạo nhân viên các cấp. Tôi cũng được
nghe Đô đốc Tư lệnh phó đề
nghị với Tư lệnh HQ là sẽ không có
thuyết-tŕnh cho Tư lệnh Quân đoàn I.
Sau chừng một giờ th́ trung tướng Tư
lệnh Quân đoàn I Quân Khu I cũng tới thăm
viếng và được hướng dẫn quan sát
một ṿng các chiến hạm để nhận định
sự thiệt hại.
KẾT QUẢ CỦA TRẬN HẢI CHIẾN
Một cách tổng quát th́ sự thiệt hại
của hai đối thủ được kể như
tương đương trong trận hải
chiến. Mỗi bên bị tổn thất một
chiến hạm, như đài BBC loan tin vào sáng
sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ tống
hạm HQ10, phía Trung cộng là chiếc Kronstad 271 (được
coi là chiến hạm chỉ huy) c̣n một số khác
th́ chịu một sự hư hại trung b́nh
hoặc trên trung b́nh. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và
396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang theo tôi ước
lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi
v́ tầm hỏa lực của ta trội hơn. Riêng
chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất
nhiều nhân viên hơn v́ trúng nhiều hải pháo
của Tuần dương hạm HQ5 vào thương
tầng kiến trúc, trong khi đó chiếc 274 th́
tổn thất được coi là nhẹ hơn
cả v́ chỉ bị tấn công nhiều bằng
đại liên và ít hải pháo về sau này. Tuy nhiên
trong các trận hải chiến th́ người ta thường
kể về số chiến hạm bị loại
khỏi ṿng chiến hơn là số thương vong
về nhân mạng. Riêng trên Hộ tống hạm
HQ10, theo các nhân viên đă đào thoát về
được đất liền, th́ vị Hạm trưởng
và Hạm phó đều bị thương nặng, nhưng
Hạm trưởng đă từ chối di tản và
quyết ở lại tuẫn tiết cùng chiến
hạm của ḿnh theo truyền thống của
một sĩ quan Hải quân và một nhà hàng hải.
Hạm phó được nhân viên d́u đào thoát
được nhưng đă phải bỏ ḿnh trên
mặt biển v́ vết thương quá nặng.
Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể
của các bậc tiên sinh, th́ khi Hải quân Pháp hành
quân trên sông (nếu không lầm th́ là Sông Đáy)
một chiến hạm loại trợ chiến hạm
(LSSL) hay Giang pháo hạm (LSIL) đă bị trúng đạn
đài chỉ huy, làm tử thương cả hai
hạm trưởng và hạm phó cùng một lúc, sĩ
quan cơ khí đă phải lên thay thế tiếp
tục chỉ huy. Sau kinh nghiệm này, Hải quân Pháp
không cho hạm trưởng và hạm phó có mặt cùng
một nơi khi lâm trận. Cá nhân tôi lúc đó
đă không có chút th́ giờ để nhớ tới
kinh nghiệm mà các bậc tiên sinh đă truyền
lại tôi mà áp dụng.
Một điều lạ là Trung cộng có đủ
khả năng tuy khiêm nhượng, vào lúc cuối
trận chiến, v́ có thêm tăng viện đến
kịp thời, nhưng đă bỏ rơi cơ-hội
truy kích khi lực lượng ta triệt thoái, hay
xử dụng hỏa tiễn hải hải v́ lực
lượng ta vẫn c̣n nằm trong tầm hữu
hiệu của loại vũ khí này. Tôi cho rằng có
thể họ đă bận tâm vào việc cứu văn
chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang Ḥa,
hoặc họ đă không nhận được
lệnh tấn công, và chỉ đương nhiên
chống trả tự vệ mà thôi. Tôi nhận
rằng ước tính của tôi về phản
ứng của địch đă cao hơn như
thực tế đă xẩy ra. Việc HQVN khai hỏa
tấn công sau khi thất bại đổ bộ đă
tạo cho Trung cộng có nguyên cớ v́ bị tấn
công mà phải hành động, nên đă dùng cường
lực cưỡng chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân nhân trú pḥng trên đảo Hoàng Sa th́ sáng
sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng 1, Trung cộng
đă huy động một lưc-lượng hùng-hậu
kết hợp Hải-Lục-Không-quân đổ
bộ tấn chiếm đảo Hoàng Sa và các đảo
kế cận mà các chiến binh Hải quân đang
chiếm giữ. Theo kư giả Lê Vinh, một cựu sĩ
quan Hải quân, đă từng đảm trách chức
vụ thư kư của ủy ban nghiên cứu trận
hải chiến cho biết, th́ vào thời gian trận
hải chiến, Hải quân Hoa Kỳ đă chuyển
cho HQVN một tin tức về 42 chiến hạm Trung
cộng với 2 tiềm thủy đĩnh đang
tiến xuống Hoàng Sa. Dù nhiều hay ít th́ lực lượng
của họ sẽ trội hẳn lực lượng
HQVN có thể điều động tới. Nếu
hai chiến hạm c̣n lại của Hải đoàn
đặc nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như
lệnh ban ra lúc đầu, với khả năng
chiến đấu đă bị giảm sút nhiều
th́ sự bảo tồn của hai chiến hạm này
rất mong manh. Thế cho nên phản lệnh cho hai
chiến hạm phải trở về căn cứ
được kể như là đúng lúc và sát
với thực tế hơn.
Trung cộng đă bắt giữ tất cả quân nhân
và dân chính Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và toán
Hải quân đổ bộ thuộc Khu trục
hạm HQ4 trên đảo Vĩnh Lạc (sát phía nam
đảo Hoàng Sa) mà trưởng toán là HQ trung úy Lê
Văn Dũng (sau được vinh-thăng HQ đại
úy tại mặt trận), làm tù binh đưa về
giam giữ đầu tiên tại đảo Hải
Nam. Riêng ông Kosh là nhân viên của cơ quan DAO Hoa
Kỳ tại Đà Nẵng th́ được trao
trả cho Hoa Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông.
C̣n các nhân viên Việt đă bị họ nhồi
sọ về chủ nghĩa của họ trong suốt
thời gian tại Quảng Đông, và trao trả
về Việt Nam tại ranh giới Hồng Kông và
Trung cộng. Đô đốc Tư lệnh phó HQ
đă được đề cử đích thân
đến HồngKông tiếp nhận. Các chiến sĩ
từ Trung cộng hồi hương đều
được đưa vào Tổng Y viện Cộng
Ḥa điều trị về các bệnh trạng gây
ra do các hành động ngược đăi trong khi
bị giam cầm trên lục địa Trung Hoa.
Thế là cuối cùng th́ VNCH đă mất nốt nhóm
đảo Nguyệt Thiềm phía nam của cả
quần đảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến sĩ Hải quân đào thoát từ Hoàng
Sa, sau nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển,
một số đă được chính các tuần
duyên đĩnh của Hải quân cứu vớt,
một số đă được các thương
thuyền trên hải tŕnh Singapore Hồng Kông bắt
gặp. Tất cả các chiến sĩ thoát hiểm
được đưa về điều trị
tại các Tổng Y viện Duy Tân (Đà Nẵng) hay
Cộng Ḥa, và c̣n được Thủ tướng
Chính phủ, các vị Tư lệnh Quân đoàn, và các
vị Đô đốc Hải quân đến thăm
hỏi và ủy lạo.
CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM HOÀNG SA
Khi phần thăm viếng của thượng cấp
kết thúc, th́ tất cả các chiến hạm
bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái
tiếp tế đạn dược đề
chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa. Một
toán thợ thượng thặng của Hải quân công
xưởng cũng đă được điều
động từ Sài G̣n ra để phụ lực
với chuyên viên của Thủy xưởng Đà
Nẵng. Riêng Tuần dương hạm HQ16, tuy không
bị hư hại nhiều trên thượng tầng
kiến trúc, nhưng các chuyên viên đă tháo gỡ
được đần viên đạn đă xuyên
lủng hầm máy. Viên đạn này là một
loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của
Tuần dương hạm HQ5 bị lạc. Kinh
nghiệm cho thấy là loại đầu đạn
không nổ nếu trúng nước th́ đạn
đạo sẽ thay đổi rất nhiều v́
đầu đạn nhọn bị nước làm
chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích
thân Tư lệnh phó Hải quân mang đến cho tôi.
Đó là một điều không may mắn cho Hải
đoàn đặc nhiệm Hoàng Sa, nhưng trong
bất cứ một cuộc chiến tranh nào, sự
nhầm lẫn về mục tiêu, về bạn và
địch, về vị trí tác xạ đều
đă xẩy ra ít nhất là tại chiến trường
Việt Nam. Hơn nữa trong cuộc hải chiến
này, Tuần dương hạm HQ5 đă tác xạ
cả trăm đại pháo 127 ly, mà chỉ có
một viên bị lạc, nên vẫn c̣n là điều
may mắn. Việc chiến hạm bị trúng 1 viên
đạn của bạn cộng với việc hai
khẩu hải pháo 76 ly tự động trên Khu
trục hạm HQ4 đă bị trở ngại kỹ
thuật ngay từ phút đầu của cuộc
chiến, là hai nhược điểm chiến
thuật mà Hải quân VNCH chỉ muốn phổ
biến hạn chế vào đầu năm 1974 là
thời điểm, mà nhiều sự phân tích đáng
tin cho rằng Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đă lợi dụng biến cố Hoàng Sa
để tránh né sự chỉ trích của các
phần tử đối lập lúc đó đang
rất mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, th́ Tuần dương
hạm HQ16 chỉ đủ khả năng tự
hải hành về quân cảng Sài G̣n và được
đón tiếp trọng thể. Khu trục hạm HQ4
không sửa chữa tại chỗ được hai
khẩu 76 ly tự động. Tuần dương
hạm HQ5, sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá
các hư hại đă cùng HQ6 ra khơi t́m kiếm các
nhân viên đào thoát khỏi vùng Hoàng Sa. Các phi cơ
C130 đă bay lượn trong một vùng duyên hải
hạn chế để tránh sự hiểu nhầm
về hành động khiêu khích của Việt Nam
đối với Trung cộng. Các phi cơ hướng
dẫn các chiến hạm xem xét các vật trôi trên
mặt biển nhưng vẫn chưa cấp cứu
được nhân viên nào ngoại trừ vỏ
một thùng xăng dự trữ. Tôi vẫn có
mặt trên Tuần dương hạm HQ5 để
tham dự cuộc t́m kiếm. Riêng hộ tống
hạm HQ10, v́ mất liên lạc nên tôi đă không
biết được t́nh trạng cuối cùng
của chiến hạm, nhưng chúng tôi vẫn c̣n
một hy vọng tuy mong manh là chiến hạm này chưa
ch́m hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên
hải miền Trung trong mùa gió đông bắc.
Với Tuần dương hạm HQ6 đă có mặt
trong vùng và vừa hoàn tất hộ tống Tuần dương
hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng Sa Đà
nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng
HQ trung tá Trần Đ́nh Trụ) điều động
từ Trường Sa tới tăng cường đă
kết hợp với Tuần dương hạm HQ5 thành
một Hải đoàn đặc nhiệm mới
với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng
Sa. Mặc dầu nhiều sĩ quan thâm niên hơn tôi
có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được
chỉ định tiếp tục chỉ huy. Một
cuộc thao dượt chiến thuật và thực
tập tác xạ đă diễn ra trong ṿng một ngày
tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía
bắc vùng Cù lao Chàm phía đông nam Đà Nẵng.
Sau cuộc thao dượt, tôi tŕnh bầy kết
quả việc huấn luyện trong các buổi
thuyết tŕnh hành quân tại BTL Hải quân vùng,
vẫn được Tư lệnh phó Hải quân
chủ tọa.
Nhưng cuối cùng th́ công cuộc tái chiếm Hoàng
Sa được hủy bỏ. Tuy vẫn được
tín nhiệm để chỉ huy, nhưng tôi tin
rằng cuộc phản kích tái chiếm sẽ
thất bại ngoại trừ đó là một
chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược
cao hơn. Với các Tuần dương hạm cũ
kỹ (WHEC) xử dụng trong lực lượng pḥng
vệ duyên hải Hoa Kỳ (US Coast guard) từ lâu,
được trang bị vào công tác tuần tiễu
hơn là để chiến đấu, vừa
chạm chạp và vận chuyển nặng nề, nên
khó chống trả lại với các chiến hạm
chiến đấu tối tân hơn. Loại này
chỉ có một hải pháo 127 ly, c̣n 2 hải pháo 40
ly đă được HQVN đặt thêm vào lái
tầu là nơi đă được dùng làm sàn
đáp trực-thăng.
Trong thời gian tại căn cứ, Tư lệnh phó
HQ ít nhất đă hai lần tập hợp nhân viên
tất cả các chiến hạm có mặt tại
chỗ để chỉ thị không được có
hành động kiêu ngạo về chiến-tích
của Hải quân VNCH. Để làm gương cho
tất cả nhân viên thuộc quyền, tôi đă
giữ một thái độ rất khiêm nhượng
và im lặng. Tôi chưa bao giờ thảo luận
hoặc tŕnh bày chi tiết với bất cứ
một ai hay một tổ chức nào, về những
yếu tố đă đưa đến các quyết
định chiến thuật của tôi trong trận
đánh.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hơn
một tuần lễ, đă được cùng Phó
Đề đốc Tư lệnh HQ vùng I Duyên
hải xuất hiện trên đài chỉ huy cũng
của Tuần dương hạm HQ5 để
thực hiện một phóng-sự cho đài truyền
h́nh quân đội. Sau đó tôi trở về
nhiệm sở chính tại Sài G̣n. Tôi c̣n được
đến pḥng thâu h́nh của quân đội cùng các
vị hạm trưởng và một vài hạ sĩ
quan trưởng pháo khẩu để tŕnh bầy các
chiến tích. Tuy nhiên tôi không đề cập
nhiều chi tiết và nhường lời lại
nhiều hơn cho các hạm trưởng v́ tôi nghĩ
rằng các vị này đáng được đề
cao v́ đă đích thân huy động tinh thần nhân
viên và can đảm trực tiếp chiến đấu.
Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ huy Tham mưu
đặc biệt tại Long B́nh, đặc biệt
v́ khóa gồm nhiều các sĩ quan đang đảm
trách những vai tṛ then chốt của quân lực và
các đại đơn vị. Khi Phó Đề đốc
Phụ tá hành quân biển của Tư lệnh
Hải quân đến thuyết tŕnh tại trường
về tổ chức của Hải quân Việt Nam, th́
một câu hỏi đầu tiên của khóa sinh là
về hải chiến Hoàng Sa. Đô đốc đă
chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong
hội trường, quả thật vị này đă
trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp
lại câu hỏi vỏn vẹn ngay là: Các quí vị
đă nghiên cứu về trận đánh Ấp
Bắc, th́ trận hải chiến Hoàng Sa cũng
gần tương tự. Sau câu trả lời của
tôi th́ không một câu hỏi nào về trận Hoàng
Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này,
trận Ấp Bắc đă làm cho quân lực bị
bất ngờ về chiến thuật cửa địch,
có sự sai lầm về ước tính t́nh báo và
nhầm lẫn về chiến thuật điều quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc
chiến Việt Nam tôi được biệt phái
giữ chức vụ phụ tá Hải quân cho trung tướng
Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu
Liên quân đồn trú tại Long B́nh.
PHẦN SAU TRẬN HẢI CHIẾN
Sau trận hải chiến, Hải quân được
nhiều vinh danh nhờ trận chiến đă nêu cao và
nối tiếp được tinh thần chống
bắc xâm của dân tộc. Trận hải chiến
được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các
phương tiện truyền thông của quân đội
cũng như ngoài dân sự để thêm vào
với: B́nh Long anh dũng, Kontom kiêu hùng, v.v...
Hoàng-Trường Sa với Việt Nam là một
Cũng nhờ trận hải chiến mà phần đông
nhân dân Việt Nam mới được biết đến
phần lănh thổ nằm xa vời trong Biển Đông
mà Hải quân VNCH từ ngày thành lập đă âm
thầm bảo vệ và tuần tiễu.
Nói về trận hải chiến, dù Hải quân VNCH
giả thử có thắng được trận ngày
đầu, th́ chúng ta khó lường được
sự tổn thất nếu Hải quân c̣n ở
lại để cố thủ Hoàng Sa. Phó Đề
đốc Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu
về trận hải chiến khi vị này đích thân
thăm viếng Khu trục hạm HQ4, khi đang
nằm trong ụ lớn sửa chữa đă nói riêng
với tôi: "... thế là vừa đủ", ư
của vị này nói là không nên tiếp tục
chiến đấu thêm ít nhất là vào thời điểm
đó Hải quân c̣n phải đảm nhận
nhiều công tác tiễu trừ CS trong đất
liền. Đó là chưa kể việc tấn
chiếm phần c̣n lại của quần đảo
Hoàng Sa có thể đă nằm trong các đường
lối đi đêm chiến lược của các cường
quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu trục
hạm HQ4 không bị trở ngại kỹ thuật và
trận chiến đă xẩy ra gần như tôi
đă dự liệu và mong muốn, nghĩa là ta
thắng trận đầu, th́ cường lực
Hải-Lục-Không quân của chúng huy động ngày
hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân
trú pḥng và lại c̣n đủ sức truy kích
Hải quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn.
Tôi đă tin tưởng rằng Quân đoàn I/Quân khu
I đă phải đặt trong t́nh trạng báo động
đề pḥng sự tấn công của Trung cộng
ngay sau khi trận hải chiến diễn ra. Một phi
tuần chiến đấu-cơ F5 của sư đoàn
I Không quân tại Đà Nẵng đă sẵn sàng trên
phi đạo nhưng không được lệnh
cất cánh từ cấp cao để yểm trợ
cho Hải quân v́ có thể là e ngại sẽ châm ng̣i
cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ
hạn chế trận chiến tới mức có
thể chấp nhận được trong một
thế chính trị.
Một lần nữa, giả dụ rằng ta cứ
để Trung cộng có mặt trên đảo Quang Ḥa,
trận hải chiến đă không xẩy ra th́ chúng
ta vẫn có thể tiếp tục hiện-diện trên
đảo Hoàng Sa, tuy nhiên có thể phải trải
thêm quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc
và Duy Mộng, để tránh sự lấn chiếm,
cộng thêm là Hải quân Việt Nam phải thường
xuyên tuần tiễu với một hải đoàn tương
đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng
sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng
thế lực của họ trong vùng Đông Nam Á. Có
thể Trung cộng đă trả đũa hay dập
theo khuôn mẫu VNCH khi ta đă đặt quân trú pḥng
trên đảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía nam và
đông cùng trên một ṿng đai san hô với đảo
Thái B́nh, đă bị Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan)
chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận
đệ nhị thế chiến. Người Trung Hoa
dù là lục địa hay hải đảo, đă
từng nhiều lần tuyên bố là lănh thổ
của họ, không những vùng này mà thôi mà cả
toàn vùng Hoàng Sa Trường Sa. Phải thành khẩn mà
nhận rằng, khi VNCH đặt quân trú pḥng trên các
đảo c̣n bỏ trống trong vùng Trường Sa
như Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử đông, Song
Tử tây, Trường Sa v.v.., chúng ta đă không
gặp một hành động đối kháng về
quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân quốc hoặc
Phi Luật Tân hay Mă Lai Á.
Một suy luận nữa là có thể trận hải
chiến là một cuộc điều chỉnh sự
nhường quyền chiếm giữ từ một nhược
tiểu đến một cường quốc theo
một chiến lược hoàn cầu mà vài cường
quốc đă ngầm thỏa thuận trước. Chúng
ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng
hậu của Anh quốc trong cuộc tranh-chấp
đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập niên 80, mà
Á Căn Đ́nh (Argentina) vẫn luôn coi như lănh
thổ của họ. Họ đă chiến đấu
mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc
phải chiến đấu trên mặt quân sự sau
khi ngoại giao thất bại. Về mặt quân
sự, họ biết trước là khó chống
lại Anh quốc với lực lượng khá
dồi dào, nhưng họ đă phải chiến đấu
trong khả năng của họ, họ biết tự
kiềm chế cường độ chiến tranh
để giảm thiểu tổn thất. Kết
quả là đảo Falkland đă về tay Anh
quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn
về diện tích và nguồn lợi cũng như dân
số, quân lực hai đối thủ đưa vào
cuộc đụng độ hùng hậu hơn,
mức độ chiến tranh nặng hơn, nhưng
hai trận Falkland và Hoàng Sa đă gần tương
tự nhau về tính chất của một cuộc
chiến.
Người Pháp, trong chiến tranh tại Đông-dương
sau 1945, v́ chiến cuộc gia tăng tại nội
địa, đă phải bỏ ngỏ hoàn toàn nhóm
đảo Tuyên Đức phía bắc, và bỏ
ngỏ nhóm Nguyệt Thiềm phía nam trong vài năm. Riêng
nhóm Tuyên Đức phía bắc đă do Trung Hoa Dân
quốc cưỡng chiếm trong ít lâu, nhưng sau
đó họ đă phải rút về v́ sự
thất trận củu họ trong lục địa.
Về sau, hiệp định Ba Lê 1954 lại đề
ra khu phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 17, đă
làm cho VNCH đă không thể tích cực hiện
diện tại nhóm Tuyên Đức bắc đảo
Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm.
Xét về sự pḥng thủ, so sánh với đảo
Thái B́nh trong vùng Trường Sa th́ thế bố trí
trên đảo Hoàng Sa của VNCH đă thua kém rất
xa, và không thể đủ sức để cố
thủ chống lại một cuộc cường kích
thủy bộ. Trên đảo không có công sự
nặng, chỉ có khoảng một trung đội
địa phương quân với vũ khí cá nhân và
một vài quan sát viên khí tượng. Trong khi đó
đảo Thái B́nh, khi Nhật chiếm đóng trong
đệ nhị thế chiến, họ đă xây
cất nhiều công sự nặng. Sau này khi Trung Hoa dân
quốc (Đài Loan) chiếm đóng, chắc chắn
họ đă tăng cường mọi cơ cấu
pḥng thủ, lại có trang bị các khẩu đại
pháo chống chiến hạm, đưa quân số trú
pḥng có thể tới cấp hơn tiểu đoàn và
do một vị đại tá Thủy quân lục
chiến chỉ huy.
Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung
cộng trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau
cuộc thăm viếng Trung cộng của Ngoại trưởng
Hoa Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa Kỳ và Trung
cộng đă ngầm có nhiều thỏa thuận
về chiến lược hay ít nhất cũng đồng
ư là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động
của Trung cộng trong vùng. Đối với VNCH, Hoa
Kỳ đă không muốn can dự vào sự bảo
vệ lănh-thổ. Trong ngày hải chiến th́ các
đối tác viên tại Bộ Tổng Tham mưu
đă khẳng định đó là công chuyện riêng
của Việt Nam.
Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở
rộng lực lượng Hải quân chỉ là
vừa đủ để hành quân yểm trợ
hỏa lực và ngăn chặn trong vùng sông ng̣i và
duyên hải mà thôi. Cộng cuộc xây cất một
hệ thống thám báo liên tục từ Bến
Hải đến vịnh Thái Lan là một công tác
cao, cả về kỹ thuật lẫn tài chánh
với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu
hiệu sự xâm nhập lén lút bằng đường
biển của CS Bắc Việt vào vùng duyên hải.
Việc viện trợ hai chiếc Khu trục hạm,
v́ là loại tấn công, nên sau 1973 họ đă
nhiều lần đ̣i tháo gỡ máy ḍ tiềm
thủy đĩnh như đă tŕnh bầy, làm như
vậy là sẽ giảm khả năng của loại
này một nửa. Vũ khí tấn công trên mặt
biển và trên không của Khu trục hạm là hai dàn
hải pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ
khoảng 60 viên một phút. Với hỏlực
tấn công mạnh mẽ như vậy, Hải quân
Hoa Kỳ, vào những năm cuối của cuộc
chiến, song song với kế hoạch rút lui, đă
không bỏ sót cơ hội cắt đứt hay ít
nhất cũng tŕ hoăn việc tiếp tế cơ
phận thay thế cho loại hải pháo tối tân này.
Sau trận hải chiến, để nêu gương
hy sinh của các chiến sĩ bỏ ḿnh trên đại
dương, Bộ Tư lệnh Hải quân đă có
nghiên cứu một kiến trúc dự định xin
phép Đô thành Sài G̣n Chợ Lớn xây cất trong
khu vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài G̣n.
Riêng Hội đồng Đô thành đă đồng
ư trên nguyên tắc là sẽ có một đường
phố mang tên Ngụy Văn Thà. Một buổi
lễ kỷ niệm lần thứ nhất trận
hải chiến Hoàng Sa đă được tổ
chức vào ngày 19 tháng 1 năm 1975 do Tư lệnh
Hải quân, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh
chủ tọa nhưng tôi không được thông báo
để đến tham dự.
*
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên đán đến,
dù vào tháng Giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng
niệm dành cho các liệt sĩ đă hy sinh và cũng
tưởng nhớ tới chiến sĩ đă anh dũng
cùng tôi chiến đấu trong trận hải
chiến Hoàng Sa, mà số đông đang lưu
lạc trong vùng đất tự do. Họ là những
anh hùng đă xả thân để bảo vệ lănh
thổ của tiền nhân xây dựng từ bao
thế kỷ. Mong rằng tài liệu này sẽ mang
lại niềm hănh diện cho toàn thể các chiến
sĩ Hải quân đă tham dự trận đánh mà tôi
đă có vinh dự chỉ huy.
HÀ VĂN NGẠC
Dallas, Texas, mùa Xuân Kỷ-Măo
(Việt Báo đăng theo bản do Cựu dân
biểu Trần Văn Sơn gửi tới, để
tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa.)
|