HOÀNG SA TRƯỜNG SA THEO TRUNG QUỐC SỬ Luật Sư Nguyễn Hữu Thống |
Dẫn Nhập Thời Thế Chiến II,
cuối thập niên 1930 Nhật Bản cấu kết
với Đức Quốc Xă và Phát Xít Ư để phát
động Chiến Tranh Thái B́nh Dương. Năm 1938 Nhật chiếm 3 đảo tại Hoàng Sa là
Phú Lâm, Lincoln và Hữu Nhật. Qua năm
sau, ngày
30-3-1939, Chính Phủ Đông Kinh ra Tuyên Cáo đ̣i
chủ quyền lănh thổ tại các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1937, Nhật oanh tạc
và tiến chiếm Nam Kinh Thượng Hải trong
cuộc chiến tranh không tuyên chiến. Trước
đó, năm 1931, Nhật chiếm Măn Châu để thành
lập Măn Châu Quốc và đem Phổ Nghi là ông vua
cuối cùng của triều Măn Thanh về làm vua Măn Châu.
Việc Nhật Bản thôn tính
Hoàng Sa và Trường Sa năm 1939 là một hành động
xâm lăng vơ trang làm bàn đạp tấn công các
quốc gia thân Tây Phương tại Đông Nam Á như
Phi Luật Tân, Mă Lai, Nam Dương, Tân Gia Ba, Miến
Điện và Việt Nam. Đặc biệt để
kết hợp Mặt Trận Hoa Nam với Mặt
Trận Đông Bắc tại Nam Kinh Thượng
Hải. Đây là nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia Trung
Hoa. Mặc dầu vậy, Chính Phủ Trùng Khánh vẫn
án binh bất động và không lên tiếng
phản đối. Trong khi đó,
thay mặt Việt Nam, ngày 21-4-1939, Chính Phủ
Pháp đă gửi Công Hàm phản kháng hành động
xâm lăng phi pháp của Nhật Bản tại Biển
Đông Hải, đồng thời công bố chủ
quyền lănh thổ của Việt Nam tại các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Hà
Nội, bàn về vụ tranh chấp Biển Đông, nhà
văn Hoàng Đạo trong Nhóm Ngày Nay quan niệm
rằng: "Lấy luật mới cũ ra mà nói
th́ Hoàng Sa là của Việt Nam. Nhưng trên trường
quốc tế, người ta không theo luật mới cũ
ǵ cả. Chỉ có Luật của Sức Mạnh.
Đó là quan điểm thực tiễn theo châm ngôn
Kẻ Mạnh Bao Giờ Cũng Có Lư, và Sức
Mạnh Là Lẽ Phải. (La raison du plus fort est toujours la meilleure; Might is right). Để
phản bác quan niệm phi nhân này, chúng ta đề ra
nguyên lư căn bản trong việc tổ chức xă
hội loài người: V́ con người
không phải là cầm thú nên nhân loại văn minh không
chấp nhận Luật Rừng Xanh Mạnh Được
Yếu Thua. V́ con người
không phải là tôm cá nên chúng ta phủ nhận quan
niệm Cá Lớn Nuốt Cá Bé. Đó là nói
về thời điểm 1939. 35 năm sau, tháng
1-1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ
rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973,
Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo
Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam
với các đảo Hoàng Sa, Quang Ḥa, Quang Ảnh,
Hữu Nhật, Duy Mộng và Tri Tôn. Trước
đó, hồi tháng 4-1956, thừa dịp quân
đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định
Geneva 1954, Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa
thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc. Đó là vùng biển của Việt Nam
có danh xưng là Thất Châu Dương gồm 7 đảo:
Phú Lâm, Lincoln, Đảo Ḥn Đá, Đảo Cây,
Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam. Năm 1974,
từ Paris Giáo Sư Hoàng Xuân Hăn nhận định
rằng: "Hoàng Sa thất thủ là do sự rạn
nứt của khối đại đoàn kết dân
tộc. Hoàng Sa là đất của Việt Nam, của
nước Việt Nam thống nhất. Khi Việt
Nam c̣n chia đôi th́ chúng ta không có tư thế để
điều đ́nh đ̣i lại quần đảo này,
mặc dầu theo lịch sử có nhiều bằng
chứng cho biết đó là đất của Việt
Nam". Do đó
muốn giành lại chủ quyền hải phận và
hải đảo tại Biển Đông Hải
phải có sự đoàn kết quốc dân trong một
quốc gia thống nhất. Đó là
cảm nghĩ của nhà trí thức lư tưởng, tha
thiết đến tiền đồ đất nước. Tuy nhiên,
từ 1974 đến nay đă 36 năm, thời gian cho
biết nhận định này đă tỏ ra không chính
xác. V́ ngày nay
đất nước ta đă thống nhất. Và toàn
dân ta, với trên 85 triệu người Việt trong và
ngoài nước, đă đồng tâm nhất trí đứng
lên đấu tranh đ̣i lại những hải đảo
và hải phận đă mất. Vậy mà, theo chiều
hướng hiện tại, càng ngày chúng ta càng mất
chủ quyền lănh thổ tại Biển Đông
Hải. Lư do không phải v́ đất nước chúng
ta bị qua phân, mà v́ chúng ta có một chính quyền
đi trái ḷng dân,
không cho người dân đứng
lên bảo toàn đất tổ và hành sử quyền
yêu nước bằng những cuộc biểu dương
lực lượng quy mô và đồng loạt khắp
nơi trên thế giới làm chấn động dư
luận quốc tế và cảnh tỉnh lương tri
nhân loại. Đồng thời gây áp lực buộc
kẻ xâm lược phải chùn bước xâm lăng,
phải tôn trọng danh dự và chữ kư của
họ. Và phải ngồi vào bàn hội nghị để
các cơ quan trọng tài hay tài phán quốc tế
đưa ra những giải pháp công bằng và hợp
lư theo tinh thần và bản văn Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển mà họ đă
kư kết tham gia năm 1982. Công Ước này là
một văn kiện trong chính sử Trung Quốc và có
hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Thủ tướng Đức
và Chủ tịch CS Trung Quốc xem bản đồ
Trung Quốc cổ thế kỷ 18 do Jean-Baptiste Bourguignon
d'Anville (Pháp) vẽ, tại Phủ Thủ tướng
Đức ở Berlin tối 28.3.2014 - Ảnh:
Cơ quan báo chí chính phủ Đức (BPA)
Tấm bản đồ
cổ 1. Quy Chế Thềm Lục
Địa Chiếu Điều 76 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
các quốc gia duyên hải được hưởng
quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lư (370km)
để thăm ḍ và khai thác dầu khí. Đây là chủ
quyền chuyên biệt (sovereign exclusive right), không tùy
thuộc vào điều kiện phải có sự
chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị
(occupation, exploration or assertion of right). Mọi sự tự
tiện chiếm cứ của ngoại bang dầu có vơ
trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá
trị và vô hiệu lực (các Điều 77 và 81). Về mặt địa lư, tại
quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách Quảng Ngăi 135 hải lư, và đảo
Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160
hải lư. V́ vậy quần đảo
Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải
lư của Việt Nam. Trong khi đó các đảo Hoàng
Sa cách Hoa Lục tới 270 hải lư nên không
nằm trong Thềm Lục Địa của Trung
Hoa. Về mặt địa
chất, các chuyên
gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand
Krempt, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương,
sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và vẽ
bản đồ các hải đảo và đáy
biển, đă lập phúc tŕnh kết luận rằng:
"Về mặt địa chất, các đảo
Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam". (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam). Về
địa h́nh đáy biển Hoàng Sa là một cao nguyên
ch́m dưới đáy biển nối tiếp lục
địa Việt Nam. Độ sâu nhất tại vùng
biển Hoàng Sa là 900m. (Trong quá tŕnh h́nh thành nước
Biển Đông Hải đă rút xuống 4,000m). Ngày nay
nếu nước biển rút xuống 900m th́ các đảo
Hoàng Sa sẽ biến thành một hành lang chạy thoai
thoải từ dẫy Trường Sơn qua Cù Lao Ré
đến các đảo Tri Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. (Phúc Tŕnh Krempt về Hoàng Sa lập trong hai năm 1925-1927
được lưu trữ tại Văn Khố Trường
Viễn Đông Bác Cổ Paris). V́ đáy biển Hoàng Sa là
sự tiếp nối tự nhiên của lục địa
Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài
biển nên
chiếu Điều 76 Luật Biển, Việt Nam có
triển vọng được Ủy Ban Định
Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho
mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lư 200
hải lư thành Thềm Lục Địa Địa
Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng
đến 350 hải lư (650km). Trong khi đó từ Hoàng
Sa về lục địa Trung Hoa có một rănh
biển sâu tới 2,300m. Như
vậy về mặt địa chất và địa h́nh
đáy biển, Hoàng Sa không phải là sự tiếp
nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa
từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này
Trung Hoa không được hưởng quy chế
Thềm Lục Địa Mở Rộng. Tại Trường Sa cũng
vậy, tại Băi Thanh Long Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, độ sâu chỉ tới 400m,
và tại
đảo Trường Sa độ sâu chỉ
tới 200m. Như vậy về mặt địa
chất và địa h́nh đáy biển, cũng như
Hoàng Sa, các đảo Trường Sa là sự tiếp
nối tự nhiên của lục địa Việt Nam
từ đất liền ra ngoài biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling
trong Bản Tường Tŕnh tháng 6-1995 gửi Chính Phủ Việt
Nam, quần
đảo Trường Sa có triển vọng được
hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở
Rộng đến 350 hải lư. Trong khi đó từ Trường
Sa về bờ biển Quảng Đông có một rănh
biển sâu tới 4,550m. Như vậy các đảo
Trường Sa không phải là sự tiếp nối
tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất
liền ra ngoài biển. Và Trung
Quốc không được hưởng quy chế
Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lư. Dầu sao, trong mọi trường
hợp, khoảng cách
từ Hoa Lục tới đảo Trường Sa là 750
hải lư (quá xa tầm 350 hải lư
Thềm Lục Địa Mờ Rông nếu có).
Hơn nữa, về
mặt địa lư, Băi Thanh
Long Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ cách
lục địa Việt Nam từ 150 đến 220
hải lư. Trong khi
đó quần
đảo Trường Sa cách lục địa Trung Hoa
từ 550 đến 800 hải lư nên không nằm trong thềm
lục địa Trung Hoa. Trong Bản Tường Tŕnh
nạp tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa
Liên Hiệp Quốc ngày 11- 5-2009, Chính
Phủ Bắc Kinh chỉ đề cập đến hải
phận hay Biển Lịch Sử chứ không vẽ Thềm
Lục Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn
luật định về khoa học và kỹ thuật
như Liên Hiệp Quốc đ̣i hỏi. Cũng v́ vậy Ủy Ban Phân
Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc
sẽ bác bỏ không cứu xét đơn thỉnh
nguyện của Bắc Kinh. Để
trốn tránh vấn đề và làm lạc hướng
dư luận, Trung Quốc chỉ đơn thuần
đ̣i vùng biển phác họa theo h́nh chữ U mà
họ gọi là Lưỡi Rồng Trung Quốc hay
Biển Lịch Sử. 2. Lưỡi Rồng Trung
Quốc Lưỡi Rồng Trung
Quốc (mà dân
gian gọi là Lưỡi Ḅ) chiếm 80% hải
phận Biển Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ
biển các quốc gia duyên hải, chỉ cách Quảng Ngăi 40 hải lư25 hải lư. Như vậy nó tước
đoạt và cách Phi Luật Tân và Mă Lai ít nhất 160
hải lư của Thềm Lục Địa Việt Nam,
và 175 hải lư của các Thềm Lục Địa Phi
Luật Tân và Mă Lai. Đây hiển nhiên là sự
vi phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển dành chủ quyền chuyên
biệt cho các quốc gia duyên hải như Việt Nam,
Phi Luật Tân và Mă Lai được hưởng
tối thiểu 200 hải lư Thềm Lục Địa
Pháp Lư để thăm ḍ và khai thác dầu khí. Theo học giả Mark J.
Valencia tại Viện Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute) yêu sách
của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không
được Luật Pháp và Ṭa Án chấp nhận. Ngày nay càng
ngày dư luận quốc tế càng phê phán và chế
giễu Lưỡi Rồng Trung Quốc là khôi hài và
lố bịch (China's claim is being increasingly criticized
and even ridiculed: China and the South China Sea Disputes, Mark J.
Valencia, Oxford University Press. October 1995). Hồi thế kỷ thứ
nhất Đế Quốc La Mă cũng đ̣i
chủ quyền lănh thổ toàn vùng Biển Địa
Trung Hải mà họ gọi là "Biển
Lịch Sử Của Chúng Tôi!" (Mare Nostrum: Notre Mer/ Our Sea). Địa Trung Hải là
vùng biển bao la chạy từ bờ biển Tây Ban Nha
qua Pháp, Ư, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ đến các
bờ biển Trung Đông và Bắc Phi. Đó là
một quan niệm bá quyền lỗi thời từ 2 ngàn
năm trước. Mặc dầu vậy, từ
1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá
Quyền, Mao Trạch Đông lại nêu lên thuyết
Biển Lịch Sử để đ̣i chủ quyền
lănh thổ tại vùng biển và các hải đảo
Hoàng Sa Trường Sa. Theo ngoa ngôn của Bắc Kinh Lưỡi
Rồng Trung Quốc rộng bằng phân nửa lục
địa Trung Hoa. Họ cho đó là một vấn
đề bất khả tranh nghị. Về điểm này chúng ta
nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong
thế kỷ này và dưới ṿm trời này, không có
điều ǵ, việc ǵ, hay vấn đề ǵ là
bất khả tranh nghị. Về mặt tinh
thần, văn hóa và đạo lư, Trung Quốc không
thể nói một đàng làm một nẻo. Họ
phải tôn trọng danh dự quốc gia và chữ kư
của họ trong Công Ước. Họ
phải chấp nhận công khai hóa vụ tranh
chấp và phải đưa ra trước thanh thiên
bạch nhật những tài liệu và quan điểm
cho biết tại sao và căn cứ vào đâu mà đ̣i
tước đoạt chủ quyền lănh thổ
của các quốc gia Đông Nam Á tại các thềm
lục địa như đă quy định trong Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm
1982 mà Trung Quốc đă kư kết tham gia với tư
cách một trong Ngũ Cường hội viên thường
trực Hội Đồng Bảo An có quyền phủ
quyết? Nếu không đưa ra sự giải thích
hợp lư và các cơ sở pháp lư th́ Trung Quốc
vẫn chỉ là kẻ sử dụng Luật Rừng
Xanh theo chủ trương Mạnh Được
Yếu Thua và Cá Lớn Nuốt Cá Bé. Để tước đoạt
4/5 Thềm Lục Địa Pháp Lư của Việt Nam,
đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm
Lục Địa Pháp Lư của Phi Luật Tân và Mă
Lai. Hơn nữa, chiếu các Điều
77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, chủ quyền của các
quốc gia duyên hải tại thềm lục địa
có tính tuyệt đối và chuyên biệt. Bất
cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu
là xâm chiếm vơ trang hay không vơ trang cũng đều
bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực.
Cũng như việc Nhật Bản đă chiếm
cứ bất hợp pháp các hải đảo và
hải phận tại Hoàng Sa và Trường Sa thời
Thế Chiến II từ 1938 đến 1945. Chắc hẳn Trung Quốc cũng
hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển 1982 là một
văn kiện pháp lư rút trong chính sử mà trên một trăm quốc gia
hội viên Liên Hiệp Quốc phải tôn trọng và
thực thi.
Trung Quốc không thể
tự coi ḿnh là một ngoại lệ bằng cách
ban hành Luật Biển Quốc Nội năm 1992 (Domestic
Law of the Sea) để mở rộng đường cơ
sở của Biển Lănh Thổ (Territorial Sea) và Vùng
Tiếp Cận (Contiguous Zone) và coi ranh giới Lưỡi
Rồng Trung Quốc là "biên thùy chiến lược"
của đảo Hải Nam. Tuy nhiên biên thùy này cách
lục địa Trung Hoa cả ngàn cây số nên không
thể coi là biên thùy cho một hải đảo hay
một lục địa. Chiếu nguyên tắc "các
hiệp ước quốc tế phải được
tôn trọng" (Rule Pacta Sunt Servanda), Điều
26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp Ước (Vienna Convention on the Law of Treaties
1969) quy định như sau: "Các hiệp ước
quốc tế có hiệu lực chấp hành buộc các
quốc gia kết ước phải ngay t́nh tuân
thủ". Ủy Ban
Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc Tế (The
United Nations International Law Commission) coi đây là "một
nguyên tắc căn bản về luật hiệp ước,
có lẽ là nguyên tắc quan trọng nhất trong công
pháp quốc tế". Chiếu nguyên tắc về giá
trị thượng tôn của Luật Quốc
Tế đối với Luật Quốc Nội (Rule of
Supremacy of International Law), các quốc gia kết ước
phải thực sự thi hành những quyến hạn và
nghĩa vụ ghi trong các hiệp ước hay công
ước quốc tế. Họ không thể viện
dẫn luật quốc nội để khước
từ thi hành nghĩa vụ của họ ghi trong các
hiệp ước và công ước quốc tế mà
họ đă kư kết hay tham gia. Đó chính là trường
hợp của Trung Quốc. 10 năm sau khi kư Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, năm
1992, Bắc Kinh ban hành Luật Quốc Gia về Biển
mở rộng đường cơ sở của
Biển Lănh Thổ và Vùng Tiếp Cận để xâm
phạm chủ quyền chuyên biệt tại các
Thềm Lục Địa của Việt Nam, Mă Lai và
Phi Luật Tân. Ngoài ra, như đă tŕnh bày,
ranh giới Lưỡi Rồng Trung Quốc tại Hoàng
Sa, Trường Sa không thể coi là biên thùy chiến lược
của đảo Hải Nam hay của Hoa Lục. V́,
theo định nghĩa, biên thùy phải nằm sát
hải đảo hay lục địa. Những vi phạm Luật
Biển nói trên phải được đệ tŕnh Ṭa
Án Quốc Tế (The Hague) hay các Ṭa Án Luật Biển
do Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển thiết lập. Muốn giải quyết
những mâu thuẫn và tranh chấp về thềm
lục địa, về hải phận và hải đảo,
về mặt tố tụng, các quốc gia
đương tụng phải, trước hết, tuân
hành những phương thức điều giải ôn
ḥa như ḥa giải, thương nghị hay trọng tài
trước khi nội vụ được thụ lư
bởi các ṭa án quốc tế. Ngoài Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, c̣n có
rất nhiều tài liệu lịch sử rút ra từ
chính sử hay ngoại sử Trung Quốc theo đó
chủ quyền của Việt Nam tại các hải
đảo Hoàng Sa Trường Sa đă được
thừa nhận bởi các quốc gia trên thế
giới kể cả Trung Quốc. 3. Trung Quốc Khước
Từ Chủ Quyền lănh thổ tại Hoàng Sa và Trường
Sa trong Tuyên Cáo Cairo 1943 Trong khi Thế Chiến II c̣n
đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường
quốc đồng minh đại diện bởi
Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng
Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng
Giới Thạch đă hội nghị tại Cairo (Ai
Cập), và đă kư Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó
có đoạn như sau: "Đối tượng
của các quốc gia đồng minh là tước
bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả
các lănh thổ và hải đảo tại Thái B́nh Dương
mà Nhật đă cưỡng chiếm từ khi khởi
sự Thế Chiến I. Tất cả các lănh thổ và
hải đảo mà Nhật Bản đă chiếm
đoạt của nhân dân Trung Hoa như Măn Châu,
Đài Loan và Bành Hồ sẽ phải giao hoàn cho
Trung Hoa Dân Quốc". Điều đáng lưu ư là,
tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng
Giới Thạch không đ̣i Hoàng Sa và Trường
Sa. Và như vậy đă khước từ
chủ quyền tại hai quần đảo này. (U.
N. Treaty Series, American Policy 1950-1955). Năm 1931, bằng chiến
tranh vơ trang, Nhật xâm chiếm Măn Châu để thành
lập "Măn Châu Quốc". Lúc này theo khuyến cáo
của Luật Sư Ngoại Trưởng Henry Stimson,
Tổng Thống Hoa Kỳ Herbert Hoover đề ra Chủ
Thuyết Stimson theo đó Hoa Kỳ không thừa
nhận các quốc gia hay chính phủ thiết lập do
chiến tranh vơ trang. Năm 1931, Hoa Kỳ và Anh
Quốc đă áp dụng Chủ Thuyết Stimson khi
Nhật Bản xâm chiếm Măn Châu bằng vơ lực. Cũng
v́ vậy trong Tuyên Cáo Cairo 1943 Tổng Thống Roosevelt
và Thủ Tướng Churchill tán thành đề
nghị của Tổng Thống Tưởng Giới
Thạch về việc Đồng Minh sẽ giao hoàn Măn
Châu cho Trung Quốc khi chiến tranh kết thúc. Trước đó, trong
Chiến Tranh Trung-Nhật 1894-1895, đảo Đài Loan
và quần đảo Bành Hồ cũng bị Nhật
Bản chiếm cứ bằng vơ lực nên cũng
sẽ phải giao hoàn cho Trung Quốc. Tại Biển Đông
Hải, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cũng đă bị Nhật Bản chiếm cứ
bằng vơ lực hồi khởi sự Thế Chiến
II. Năm 1938 Nhật Bản chiếm 3 đảo
tại Hoàng Sa là Phú Lâm, Lincoln và Hữu Nhật
(Robert). Năm 1939 Nhật Bản công bố chủ
quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa Trường
Sa và đổi tên Hoàng Sa thành Hirata Gunto và Trường
Sa thành Shinnan Gunto. Nếu quả thật hai quần
đảo này thuộc chủ quyền lănh thổ
của Trung Quốc th́ lẽ cố nhiên Tổng
Thống Tưởng Giới Thạch cũng đă
đề nghị giao hoàn Hoàng Sa và Trường Sa cho
Trung Quốc tại Hội Nghị Cairo 1943. Theo công pháp quốc tế Tuyên
Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế
tạo nên những nghĩa vụ quốc tế áp
dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu
lực cưỡng hành đối với Trung Quốc,
dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Ḥa Nhân Dân Trung
Quốc là quốc gia kế thừa chủ quyền.
Đặc biệt là, trong hiện vụ, cả hai
phe Quốc Cộng Trung Hoa đều xác nhận như
vậy. Thật vậy, ngày 4-12-1950, Chu
Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán
thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn kiện
lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và
Trung Quốc đă kư kết để làm căn
bản cho Ḥa Ước kư với Nhật Bản (Ḥa
Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai's Statement on the Peace Treaty with
Japan. People's China, 12-16-1950). 12 năm sau
khi kư, ngày 8-2-1955, trong bản "Duyệt Lại
T́nh H́nh Thế Giới" Tổng Thống Tưởng
Giới Thạch cũng xác nhận Tuyên Cáo Cairo và
Tuyên Ngôn Potsdam đă phản ảnh chính xác
sự thật lịch sử: "Tôi c̣n nhớ năm
1943 cố Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt và Thủ Tướng
Anh Churchill đă cùng tôi họp Hội Nghị Cairo
để thảo luận về những vấn đề
liên quan đến việc tiến hành Chiến Tranh
Chống Nhật. Trong Bản Tuyên Cáo công bố vào ngày
bế mạc Hội Nghị (27-11-1943) chúng tôi loan báo
rằng tất cả các lănh thổ mà Nhật Bản
đă chiếm của Trung Quốc, kể cả Đông
Bắc Tỉnh (Măn Châu), Đài Loan và Bành Hồ,
phải được giao hoàn cho Trung
Quốc. Bản Tuyên Cáo này đă được Tuyên
Ngôn Potsdam (ngày 26-7-1945) thừa nhận và được
Nhật Bản chấp nhận thi hành khi đầu hàng.
Như vậy giá trị Tuyên Cáo Cairo đặt căn
bản trên những thỏa thuận không ai có thể
dị nghị được". (Review of International
Situation, China Publishing Co, Taipei 1956, p.p 22-23). Tuyên Cáo Cairo
ngày 27-11-1943 cũng đă được Liên Sô tán thành
tại Hội Nghị Tehran ngày 30-11-1943 giữa Tổng Thống Roosevelt, Thủ
Tướng Churchill và Chủ Tịch Stalin. Trong phiên
Hội Nghị này Stalin cho biết ông đă đọc
Tuyên Cáo Cairo với đầy đủ nội dung
của nó. Ông cũng nh́n nhận rằng việc giao hoàn
Măn Châu, Đài Loan và Bành Hồ cho Trung Quốc là
hợp lư. (The Conferences at Cairo and Tehran 1943, The Foreign
Relations of the United States, Washington D.C, 1961) 4. Đồng
Minh Không Thừa Nhận Chủ Quyền Lănh Thổ
của Trung Quốc tại Hoàng Sa Trường Sa trong
Tuyên Ngôn Potsdam 1945. Tháng 5-1945
Đức Quốc Xă đầu hàng Đồng Minh. Tháng
7-1945 Mỹ, Anh và Liên Sô họp Hội Nghị Potsdam (Đức)
để thảo luận về tương lai chính
trị, đặc biệt về vấn đề
tổ chức tuyển cử tại các nước
Đông Âu và Trung Âu. Ngoài ra Tuyên Ngôn Potsdam ngày 26-7-1945
c̣n ấn định thể thức giải giới quân
đội Nhật Bản đầu hàng Đồng
Minh tại Thái B́nh Dương. Để tước khí
giới quân đội Nhật, Đồng Minh quyết
định chia Việt Nam thành 2 khu vực giải
giới theo Vĩ Tuyến 16: Quân đội Trung Hoa
có nghĩa vụ giải giới và hồi hương
quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 ra
Bắc. Và quân đội Anh được
ủy nhiệm giải giới và hồi hương quân
đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam.
(Japan Subdued: The End of The War in the Pacific, Princeton Press
University, 1961). Theo Tuyên Ngôn
Potsdam, Trung Quốc có nghĩa vụ giải giới quân
đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 ra Bắc
kể cả tại quần đảo Hoàng Sa tọa
lạc tại Vĩ Tuyến 16: Nhóm Lưỡi Liềm
(Crescent Group) phía tây nam tại vĩ độ 16o30
và Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) phía đông bắc
tại vĩ độ 16o50. Trong khi đó
quân đội Anh có nghĩa vụ giải giới quân
đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam, kể
cả tại quần đảo Trường Sa tọa
lạc tại các Vĩ Tuyến từ 12o đến
7o (từ Cam Ranh xuống Nam Cà Mau). Giải
giới quân nhân không phải là tiếp thu hay chiếm
hữu lănh thổ. Do đó nếu Anh Quốc không có chủ quyền lănh
thổ tại Trường Sa, th́ Trung Quốc cũng không
có chủ quyền lănh thổ tại Hoàng Sa. Và lẽ
dĩ nhiên, Trung Quốc cũng không có chủ quyền
lănh thổ tại Trường Sa. Về
việc giải giới quân đội Nhật tại
phía Bắc Vĩ Tuyến 16, ngày 28-2-1946 Trung
Quốc kư với Pháp Hiệp Ước Trùng Khánh theo
đó "Pháp khước từ trị-ngoại pháp-quyền
và các quyền liên hệ khác tại Trung Hoa"
(chủ yếu là Pháp trả Trung Quốc các tô
giới tại Thượng Hải và Quảng Châu
Loan). Để bù lại Trung Quốc đồng ư
để quân đội Pháp đổ bộ lên
Bắc Việt thay thế quân đội Trung Hoa
giải giới quân đội Nhật tại phía
bắc Vĩ Tuyến 16. (Jean R. Sainteny: Histoire D'une Paix
Manquée, Indochine 1945-1947). Một
tuần sau Hiệp Ước Trùng Khánh, Chính Phủ Pháp
kư với Chính Phủ Hà Nội Hiệp Ước Sơ
Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 theo đó Pháp thừa
nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là một
quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông
Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Về mặt
quân sự 15 ngàn quân Pháp được đồn trú
tại Việt Nam trong thời hạn 5 năm. Theo
tinh thần hợp tác quốc tế, Chính Phủ Hà
Nội cam kết sẽ tiếp đón quân đội
Pháp vào Bắc Việt để thay thế quân đội
Trung Hoa giải giới quân đội Nhật. Việc này
cho biết, khác với Măn Châu, Đài Loan và Bành
Hồ, Đồng Minh không nh́n nhận Hoàng Sa Trường
Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Lư do là
v́, tại Măn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, Trung
Quốc được quyền tiếp thu rồi tự
ḿnh đứng ra giải giới quân đội
Nhật Bản mà không phải nhờ đến các
quốc gia đồng minh Anh Pháp. 5. Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951
Thừa Nhận Chủ Quyền của Việt Nam
tại Hoàng Sa và Trường Sa. Mùa Xuân 1945,
51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San
Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc. 6 năm
sau, năm 1951, 51 quốc gia đồng minh lại
họp Hội Nghị để kư Ḥa Ước
Cựu Kim Sơn ngày 8-9-1951. Mục đích để
chấm dứt t́nh trạng chiến tranh, phục
hồi và tái thiết Nhật Bản nhằm xây
dựng ḥa b́nh thế giới trong tinh thần ḥa
giải, hợp tác và hữu nghị theo tôn chỉ
của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, và
phỏng theo Kế Hoạch Marshall được thi hành
từ 1947 để tái thiết Âu Châu. Năm 1949
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đă cướp
chính quyền bằng vơ trang tại Hoa Lục, và Chính
Phủ Trung Hoa Dân Quốc đă di tản sang Đài
Loan. Trong điều kiện chính trị này các Quốc
Gia Đồng Minh Tây Phương không thừa
nhận Chính Phủ Bắc Kinh chiếu Chủ
Thuyết Stimson được áp dụng trong vụ
Măn Châu năm 1931. Do đó cả hai Chính Phủ
Quốc-Cộng Trung Hoa đều không được
mời tham dự Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951. Trong khi đó,
ngày 8-3-1949, Pháp kư với Việt Nam Hiệp Định
Elysee để trả độc lập và thống
nhất cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 23- 4-1949, chiếu
nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, Quốc Hội
Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ
thuộc địa để sát nhập Nam Phần vào
Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống
nhất. Từ đó Việt Nam có tư cách để
đứng ra bảo vệ chủ quyền quốc gia và
sự toàn vẹn lănh thổ từ Nam Quan đến Cà
Mâu. Với tư cách này, Việt Nam được
mời tham dự Hội Nghi San Francisco 1951. Ngày 12-7-1951
Ban Tổ Chức Hội Nghị San Francisco đă
phổ biến bản Dự Thảo Ḥa Ước trong
đó Điều 2 về Lănh Thổ (Territory) đề
cập đến 4 vấn đề chủ yếu sau
đây: (a) Nhật
Bản nh́n nhận nền độc lập của Triều
Tiên. [sau khi thắng Nga năm 1905,
Nhật thiết lập chế độ thuộc địa
tại Triều Tiên]. (b) Nhật
Bản khước từ chủ quyền tại các
đảo Kurile và Sakhalin [để giao hoàn cho Liên Sô.
Trước Chiến Tranh Nga-Nhật năm 1905 các đảo
này thuộc chủ quyền của Vương Quốc
Nga]. (c) Nhật
Bản khước từ chủ quyền tại đảo
Đài Loan và quần đảo Bành Hồ [để
giao hoàn cho Trung Quốc. Những đảo này
Nhật Bản đă chiếm của Trung Quốc trong
Chiến Tranh Trung-Nhật 1895]. (d) Nhật
Bản khước từ chủ quyền tại các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để
giao hoàn cho Việt Nam]. Đây là
một sự thật lịch sử và một quyết
định hợp lư. V́ nếu Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ
quyền lănh thổ của Trung Quốc [cũng như
Đài Loan và Bành Hồ] th́ Điều 2 Ḥa Ước
San Francisco không cần phải chia thành hai đề
mục riêng biệt (c) và (d), mà chỉ cần ghi: "Nhật
Bản khước từ chủ quyền tại đảo
Đài Loan và các quần đảo như Bành Hồ,
Hoàng Sa và Trường Sa" [để giao hoàn cho
Trung Quốc]. Khi Nhật
Bản tuyên bố khước từ chủ quyền lănh
thổ về Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội
Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951, các quốc gia tham
dự Hội Nghị đă phủ nhận chủ
quyền của Trung Quốc, và mặc nhiên nh́n
nhận chủ quyền của Việt Nam tại 2
quần đảo này. Thật vậy: Ngày 5-9-1951,
trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 5,
Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ tŕnh
Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghị trao Đài Loan, Bành
Hồ, Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) cho Trung
Quốc. Tu Chính Án này đă bị Hội Nghị bác
bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và
1 phiếu trắng. Ngày 7-9-1951,
trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 7, Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng
Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia
Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ
quyền của Việt Nam tại các quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản
kháng nào của 51 quốc gia tham dự Hội Nghị
(kể cả Liên Sô). Qua hôm sau,
ngày 8-9-1951 các quốc gia tham
dự Hội Nghị San Francisco chấp thuận toàn
bộ Bản Dự Thảo Ḥa Ước đặc
biệt là Điều 2 quy định nền độc
lập của Triều Tiên và giao hoàn 3 nhóm hải
đảo tại Thái B́nh Dương cho 3 nước
Liên Sô, Trung Quốc và Việt Nam. Về
mặt pháp lư, với sự công bố chủ quyền
của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa trước
50 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc tham dự
Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định
rằng: Từ 1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường
Sa đă được các quốc gia trên thế
giới thừa nhận thuộc chủ quyền lănh
thổ của Việt Nam, chứ không thuộc
chủ quyền của Trung Quốc. Việc 92% các quốc gia Đồng Minh hội viên
Liên Hiệp Quốc thừa nhận chủ quyền
của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa
Trường Sa có giá trị tuyệt đối (erga omnes: full force and
credit), kể cả
đối với những quốc gia không tham dự
Hội Nghị như Trung Quốc và Đài Loan. (Conference for the Conclusion and Signature of the
Peace Treaty with Japan, U. N. Treaty Series, Volume 136, p. 46).
Như ta
đă biết, chiếu Chủ Thuyết Stimson ban hành
năm 1931, Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh như
Anh, Pháp không công nhận Chính Phủ Mao Trạch Đông
v́ Đảng Cộng Sản Trung Quốc đă cướp
chính quyền tại Hoa Lục bằng vơ trang hai năm
trước đó (1949). Ba năm sau
Hội Nghị San Francisco 1951, Hội Nghị Geneva 1954
đă minh thị xác nhận chủ quyền
của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. 6. Hiệp
Định Geneva 1954 Minh Thị Xác Nhận các Quần
Đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Chủ
Quyền Lănh Thổ của Việt Nam Tháng 7-1954, để giải quyết Chiến
Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được
triệu tập với sự tham dự của 9
quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh, Pháp,
Liên Sô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước
Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Miền Bắc).
Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần
nữa, đă minh thị xác nhận chủ quyền
của Việt Nam Cộng Ḥa (lúc này là Quốc Gia
Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Thật
vậy: a). Điều
4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 quy định
như sau: "Giới
tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt
Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận
theo một đường thẳng góc với đường
ven biển. "Lực lượng
Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và
đồng minh) phải rút khỏi tất cả các
hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ
Tuyến 17). "Quân đội
Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi
tất cả các hải đảo phía Nam giới
tuyến" (Vĩ Tuyến 17) nơi tọa lạc các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ vĩ
tuyến 17 đến vĩ tuyến 7, từ Quảng
Trị xuống Nam Cà Mau). Do đó chiếu Hiệp Định Geneva 1954, quân
đội Bắc Việt phải triệt thoái ra
khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
tọa lạc về phía nam Vĩ Tuyến 17 (Quảng
Trị-Nam Cà Mâu). Và, lẽ
tất nhiên, tất cả các quân đội ngoại
quốc khác (kể cả Trung Quốc và nhất là
Trung Quốc) phải tôn trọng chủ quyền lănh
thổ của Việt Nam Cộng Ḥa và không được
chiếm cứ hay đồn trú tại các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa kể cả vùng
hải phận tại Biển Đông Hải. (Từ 1955 Quốc
Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy
quốc hiệu là Việt Nam Cộng Ḥa). V́ Bắc
Việt không có chủ quyền lănh thổ từ Vĩ
Tuyến 17 vào Nam nên Chính Phủ Hà Nội không có tư
cách sở hữu chủ để chuyển nhượng
vùng hải phận và các hải đảo Hoàng Sa Trường
Sa cho bất cứ quốc gia đệ tam nào, kể
cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc. Kết quả là Công Hàm Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày
14-9-1958 không có giá trị và không có hiệu lực pháp
lư. b). Hơn
nữa Điều 24 Hiệp Định Geneva 1954 c̣n buộc Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa phải tôn trọng chủ quyền
lănh thổ của Việt Nam Cộng Ḥa: "Hiệp định này áp dụng cho tất
cả các lực lượng vũ trang của đôi bên.
Lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ
phải tôn trọng lănh thổ dưới quyền
kiểm soát của bên kia và không có hành động nào
chống phá hay phong tỏa (bên kia), danh từ lănh thổ bao gồm cả
hải phận và không phận". c). Ngoài ra Điều 12 Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva ngày
21-7-1954 cũng khẳng định: "Các quốc gia tham dự Hội
Nghị Geneva (trong đó có Trung Quốc) cam kết tôn
trọng chủ quyền độc lập, nền
thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lănh
thổ của Việt Nam". (Trung Quốc là
một trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva
1954 với Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ
tịch). (Thế Nguyên, Đông Dương 1945-1973,
Saigon, 1973). d). Phụ
Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên
Hiệp Quốc (1998) cũng khuyến cáo các quốc gia hội viên tránh
mọi vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ
thống bắt nguốn từ sự kỳ thị
chủng tộc, đô hộ hay chiếm đóng, gây
hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và
sự toàn vẹn lănh thổ bằng cách phủ
nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền
của các dân tộc được hành sử đầy
đủ chủ quyền đối với các tài nguyên
và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước". Căn cứ
vào những tài liệu lịch sử nói trên, Trung Quốc
đă ư thức sự yếu kém của họ
về cả ba mặt pháp lư, địa lư và lịch
sử. Do đó họ không bao giờ dám công khai
thảo luận về vấn đề tranh chấp
chủ quyền các hải đảo và hải phận
tại Biển Đông Hải. Họ thường
tránh né và cho đó là một vấn đề bất
khả tranh nghị. Lư do đơn giản là họ không có tài liệu
hay lư lẽ ǵ để đưa ra tranh nghị công
khai trong tinh thần chính đại quang minh. Tất
cả lư lẽ và lập trường của Trung
Quốc chỉ thu gọn trong câu: "Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của
Trung Quốc". Cách đây 2000 năm, trong thế kỷ
thứ nhất, Đế Quốc La Mă cũng đă
từng tuyên bố "Địa Trung Hải là
Biển Lịch Sử của Chúng Tôi". Theo các luật gia và chuyên viên hải
học trên thế giới, thuyết Biển Lịch
Sử của Đế Quốc La Mă và Đế
Quốc Đại Hán đă lỗi thời và lạc
hậu. Kể từ
1982, vấn đề Biển Lịch
Sử hay Nội Hải đă được giải
quyết chung thẩm bởi Điều 8 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển: "Ṭa Án Quốc Tế định nghĩa
"Biển Lịch Sử là Nội
Hải, nghĩa là vùng biển tọa lạc trên
đất liền về phía bên trong đường cơ
sở của Biển Lănh Thổ. Theo Ṭa Án Tối Cao: "Ngoại trừ trường hợp các quốc gia
quần đảo (như Phi Luật Tân hay Nhật
Bản), Biển Lịch Sử hay nội hải
của một quốc gia nằm bên trong đất
liền về phía bên trong đường cơ sở
của biển lănh thổ". (The
International Court of Justice has defined "historic waters" as
"internal water" (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I. C. J.
116, 130); "Waters on the landward side of the baseline of the
territorial sea form part of the internal water of the State" (Art. 8 LOS Convention 1982). Trong khi đó,
Biển Nam Hoa chỉ là ngoại hải
chạy từ bờ biển Trung Hoa đến bờ
biển Nam Dương, và rộng tới 2000 cây số.
7. Lịch Sử Trung Quốc Thời
Trung Cổ Thêm một tài
liệu đáng tin cậy về chính sử Trung
Quốc là cuốn "Lịch Sử Trung Quốc
Thời Trung Cổ" do Hàn Lâm Viện Trung
Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978.
Trong bài "Nghiên Cứu về Lịch Sử và
Địa Lư" học giả Hsieh Chiao-Min
nhận định về cuộc Thám Hiểm
của Trung Hoa tại Đại Dương như sau: "Suốt
chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn
hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết
đến đại dương". Theo những tài liệu lịch sử chính thống
"thản hoặc nhà cầm quyền Trung Hoa cũng
gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật
Bản trong các thế kỷ thứ ba và thứ hai Trước
Công Nguyên, và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu
trong thế kỷ 15. Điểm rơ nét nhất là tại Thái B́nh Dương có rất ít, nếu không nói
là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Quốc"
suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà
Tần thế kỷ thứ ba Trước C. N. đến
nhà Thanh từ thế kỷ 17 đến thế kỷ
20). Dưới
đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô Đốc
Thái Giám Trịnh Ḥa chỉ huy những đoàn thám hiểm
đến Ấn Độ Dương và Biển Ả
Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30
quốc gia duyên hải, đồng thời khai triển
Con Đường Tơ Lụa tại Ấn Độ,
Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành
của phái bộ Trịnh Ḥa không phải để
chinh phục vùng Biển Nam Hoa nơi tọa lạc các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đoàn hải thuyền chỉ đi qua (cross)
Biển Nam Hoa nhằm khai phá (explore) Ấn Độ Dương. Phái bộ không
hề ghé đến các hải đảo Việt Nam,
trạm trú chân duy nhất là Đồ Bàn hay Trà Bàn
(Chaban) thủ phủ Chiêm Thành. Sau khi Minh Thành
Tổ mất, dư luận triều đ́nh nhà Minh
đă phê phán những cuộc hải tŕnh nặng
phần tŕnh diễn của Trịnh Ḥa v́ đă làm
suy yếu nền kinh tế quốc gia. (Throughout most
of their long history of cultural and scientific development, the Chinese
people have been but passively interested in the ocean. Historical records
indicate that from time to time the Chinese authorities sent out maritime
exploring expeditions, notably those to Japan as early as the second and
third centuries B.C., and to Southeast Asia, India, and Africa during the
fifteenth century. Apparently there have been few, if any, planned deep
penetrations of the Pacific Ocean by the Chinese during their long history.
But Chinese traders did follow the land and water trade routes to India and
beyond to Africa and the Middle East, prior to the Renaissance. Chiao-Min
Hsieh, Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287. During a period
of twenty-eight years, from 1405 to 1433 Admiral Cheng Ho led seven
exploring expeditions into the Pacific and Indian Oceans and visited more
than thirty-seven countries. The large exploring expeditions that were to
cross the South China Sea and explore the Indian Ocean were
criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the country.
Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 290-291). (The Chinese
expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical
or colonizing ventures. John King Fairbank, China, A New History:
Harvard University Press 1991, p. 138). Trong Trung
Quốc sử có nhiều tài liệu lịch sử và
nhiều tác phẩm của các học giả Trung Hoa xác
nhận chủ quyền lănh thổ của Việt Nam
tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. 1. Dưới
đời Nhà Thanh, trong các thế kỷ
từ 17 đến 20, theo bản đồ
Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa
Tổng Đồ do Chính
Phủ ấn hành năm 1894, th́ đến
cuối thế kỷ 19, "lănh thổ của Trung Quốc chỉ chạy
đến đảo Hải Nam là hết". Qua thế kỷ 20 sự kiện này
được xác nhận trong cuốn Trung Quốc
Địa Lư Học Giáo Khoa Thư xuất
bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực Nam của Trung
Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận
Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18". Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ
thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ Vĩ
Tuyến 20 (ngang Thanh Hóa) đến Vĩ Tuyến 18
(ngang Nghệ Tĩnh). Trong khi đó quần đảo
Hoàng Sa tọa
lạc về phía nam, từ Vĩ Tuyến 17 đến
Vĩ Tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngăi), và quần đảo Trường Sa
tại các Vĩ Tuyến 12-8 (Cam Ranh - Cà Mâu). 2. Trong bản đồ Đại
Thanh Đế Quốc do
Chính Phủ ấn hành cũng không thấy vẽ các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và không
thấy ghi các danh xưng Hán hóa như Tây Sa, Nam Sa, Vĩnh
Lạc, Tuyên Đức, v…v…. Hơn
nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Kư,
cuốn Hải Lục của Vương
Bỉnh Nam (1820-1842) viết: "Vạn
Lư Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài
biển được dùng làm phên giậu che
chắn mặt ngoài bờ cơi nước An Nam". Như vậy có sự nh́n nhận rằng quần
đảo này là biên thùy của Việt Nam. Theo học
giả Marwyn S. Samuels trong cuốn Tranh
Chấp tại Biển Nam Hoa, không có bằng chứng nào cho thấy
nhà Thanh đă sát nhập các hải đảo này vào
lănh thổ Trung Quốc (There is no evidence here that the Ch'ing State had in any sense absorbed
the islands into the imperial domain: Marwyn S. Samuels, Contest for the
South China Sea, Methuen London, 1982, note 31, p.38). Tập Địa
Dư Chí Tỉnh Quảng Đông được
vua Nhà Thanh duyệt phê năm 1731, không ghi hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là lănh thổ Trung Quốc (cũng như Bản Đồ Mao Khôn trong cuốn Vũ
Bị Chí đời Nhà Minh). Trong bộ sách
địa lư "Đại Thanh Nhất Thống
Chí" do Quốc Sử Quán Trung Hoa biên soạn năm
1842 với lời tựa của vua Thanh Tuyên Tông, không
có chỗ nào ghi Thiên Lư Trường Sa hay Vạn Lư
Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa) thuộc
địa phận tỉnh Quảng Đông. Đặc
biệt là trong cuốn Hải Quốc Văn
Kiến Lục của Trần Luân Quưnh (năm
1744), vùng hải phận của Việt Nam tại
Biển Đông Hải được ghi bằng các
danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Ngoài ra
cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích
Đại Sán xuất bản năm 1695 đời
Khang Hi cũng ghi nhận chủ quyền
của Đại Việt trong việc chiếm hữu,
kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông Hải nơi
tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Đời Nhà
Hán, sau khi Hán Vũ Đế thôn tính và
đổi tên nước Nam Việt thành Giao Chỉ
Bộ, vùng biển Đông Hải chạy từ
bờ biển Bắc Việt đến Thanh Hóa,
Nghệ An (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) có tên là
Giao Chỉ Dương. 3. Đời
nhà Minh cuốn Vũ Bị Chí của Mao
Nguyên Nghi (và cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của
Chu Khứ Phi đời nhà Tống)
cũng gọi Biển Đông Hải là Giao Chỉ Dương.
Trong khi đó trên các bản
đồ Trịnh Ḥa Hạ Tây Dương, Trịnh
Ḥa Hàng Hải Đồ đi qua khai phá Biển Tây
Dương (Ấn Độ Dương), không thấy
ghi các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa với
các danh xưng Hán hóa Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh
Lạc trong các lộ tŕnh và hải đạo của
Trịnh Ḥa 7 lần Biển Nam Hoa
để Theo lịch
sử Việt Nam trong hai thế kỷ 14 và 15 có sự giao chiến liên miên giữa Việt Nam và Chiêm
Thành. Nếu quả thật nhà Minh đă
chiếm đất Chiêm Thành năm 1413 trong
chuyến đi thứ tư của Trịnh Ḥa, th́
lẽ tất nhiên sử sách của Trung Hoa và Việt
Nam đă phải ghi chép việc đó. Trong khi đó
theo sách Dư Địa Chí đời
Hồng Đức, tới hậu bán thế
kỷ 15 dưới đời vua Lê Thánh Tông năm
1471, Chiêm Thành đă là lănh
thổ của Đại Việt gồm có
lục địa, hải phận và các hải đảo. Theo Đại
Nam Nhất Thống Chí về tỉnh Khánh Ḥa th́
cuốn Minh Sử cũng ghi chép như sau:
"Sứ thần Chiêm Thành nói: Cổ lai đất nước
Chiêm có 27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện, nay vua An
Nam lấy đi chỉ c̣n 5 xứ, từ Bang Đô
Lang đến Chân Lạp mà thôi". Lúc này vua Nhà
Minh sai sứ sang yêu cầu vua Lê Thánh Tông trả đất
cho Chiêm Thành nhưng Ngài không chịu. (Lư do là v́ Minh Chủ không trả đất
Nam Việt của Triệu Vũ Đế cho nước
Đại Việt). Những tài
liệu lịch sử này cho biết từ thế
kỷ 15, các đảo Hoàng Sa và Trường
Sa nguyên là địa bàn hải phận ngư
nghiệp của Chiêm Thành đă trở thành lănh
thổ của Đại Việt. Cũng nên ghi chú rằng từ năm 1427
Lê Lợi đă đánh thắng quân Nhà Minh để
giành lại chủ quyền độc lập đă
bị Minh Thành Tổ tước đoạt từ 20 năm
trước (1407). 4. Đời
nhà Nguyên, trong thế kỷ 13 Trung Quốc
bị Mông Cổ thôn tính trong 90 năm. Năm
1257, quân Mông Cổ đánh Vân Nam và tràn sang Đại
Việt. Trước
đó trong chiến dịch Tây Tiến, dưới
hiệu kỳ Thành Cát Tư Hăn, quân Mông
Cổ đă chiếm giữ vùng Trung Á 6 ngàn dặm
đến Hung Gia Lợi và nước Nga tại
Bắc Âu và Ba Tư tại Nam Á. Ngoài ra họ c̣n thôn
tính nước Tây Hạ phía tây bắc, nước
Kim phía đông bắc rồi tràn sang Triều Tiên. Sau
khi dẹp nhà Tống và đặt nền thống
trị tại Trung Quốc, Mông Cổ đánh chiếm
nước Đại Lư hay Vân Nam Phủ. Tuy nhiên, tại
Đại Việt, với quân dân một ḷng, năm
1257 nhà Trần đă đánh tan quân Mông Cổ tại
Đông Bộ Đầu phía đông Sông Nhị Hà.
Đây là chiến thắng đầu tiên của Đại
Việt đối với nhà Nguyên. 27 năm sau,
năm 1284, con Nguyên Chủ là Thái Tử Thoát Hoan kéo quân
sang báo thù. Trong Hội
Nghị Diên Hồng các bô lăo đồng thanh xin
đánh. Dưới sự lănh đạo của
Trần Hưng Đạo, chỉ trong ṿng 6 tháng, từ tháng 12
năm 1284 đến tháng 6 năm 1285, quân Đại
Việt đă đánh đuổi quân Mông Cổ ra ngoài
bờ cơi. Toa Đô bị bắn chết, Ô Mă Nhi
bị đuổi quá gấp phải một ḿnh
chạy trốn bằng thuyền, trong khi Thoát Hoan
phải chui ống đồng lên xe tháo chạy về
Tầu. Thời gian này
Hốt Tất Liệt đă có kế hoạch thôn
tính quần đảo Phù Tang. Nay quân Thoát Hoan đại
bại kéo về, Nguyên Chủ phải đ́nh chỉ
kế hoạch Đông Tiến. Và hai năm sau, đầu
năm 1287 Thoát Hoan lại tập trung lực lượng
kéo quân sang Đại Việt để báo thù lần
thứ hai. Tuy nhiên, cũng như lần trước,
chỉ trong ṿng một năm quân Mông Cổ đă mua
lấy thất bại. Ô Mă Nhi
lần này bị bắt sống. Sau đó Trần Hưng
Đạo, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái và
Phạm Ngũ Lăo đại phá quân Nguyên
tại Bạch Đằng Giang khiến Thoát Hoan
phải thu tàn binh tháo chạy về Yên Kinh. Và tại Thăng Long Trần Nhân Tông
đem các tướng nhà Nguyên bị bắt như Ô
Mă Nhi và Phàn Tiếp làm lễ hiến phù tại Chiêu
Lăng. Đây là
một vinh quang của Đại Việt đă ba
lần đơn phương phá vỡ kế hoạch
Nam Tiến (tại Việt Nam), đồng thời ngăn cản
cuộc Đông Tiến (tại Nhật Bản) của
đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách
thắng từ đời Thành Cát Tư Hăn. Sau ba phen
thất bại, Nhà Nguyên không c̣n ḍm ngó Việt Nam
cả trên lục địa đến các hải đảo.
Và trong các thế kỷ 13 và 14, theo chính
sử, quân Mông Cổ không xâm chiếm các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo cuốn Tranh
Chấp tại Biển Nam Hoa của Marwyn Samuels "Trong suốt thế kỷ 14 các đội
hải thuyền hùng mạnh của nhà Nguyên có
đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa các
hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị
chiếm đóng và không thuộc chủ quyền lănh
thổ của Trung Quốc" (sách đă dẫn, trang 20). Nguyên Sử cũng xác nhận điều đó. Cũng như
các sách sử địa đời Nhà Thanh, cuốn Nguyên
Sử Địa Lư Chí đă viết như sau: "Cương vực Trung Quốc đời
Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo
Hải Nam, và về phía Bắc không quá Sa Mạc Gobi". 5. Đời Nhà Tống, cũng như
trong thế kỷ 13 đời Nhà Nguyên, trong hai
thế kỷ thứ 10 và 11, quân Đại Việt cũng
đă 3 lần đánh thắng quân Nhà Tống. Trước
hết, đời Tiền Lê, năm 981 Lê Đại
Hành phá tan hải quân của Lưu Trừng nhà
Tống tại Bạch Đằng Giang. Đến
đời Nhà Lư, năm 1075, Lư Thường Kiệt
và Tôn Đản vây hăm quân Nhà Tống tại Châu Liêm, Châu Khâm (Quảng Đông) vả Châu Ung (Quảng Tây). Qua năm 1076,
một lần nữa, Lư Thường Kiệt lại
đánh bại hải quân Nhà Tống trên sông Như
Nguyệt và sông Phú Lương. Sau 3 phen
thất bại, theo tŕnh tấu của hoàng thân
Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông đă
phải theo chính sách Trọng Vơ Ái Nhân (thận
trọng việc vơ bị, thương xót mạng người,
không phơi binh nơi lam chướng). Và đă thừa nhận nền độc lập của
Đại Việt. Sách Chư
Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát nh́n nhận
rằng quần đảo Hoàng Sa mà tác giả gọi
là Thiên Lư Trường Sa (Băi
Cát Dài Ngàn Dặm) là đất của nước
phiên thuộc Việt Nam,
chứ không thuộc lănh thổ của Trung Quốc. Trong đời
Nam Tống cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp
của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lư Trường Sa (Hoàng Sa)
tọa lạc tại Giao Chỉ Dương". Nói tóm
lại các sách sử địa Nhà Tống không bao giờ ghi chép rằng Trung Quốc đă chiếm hữu các hải
đảo Hoàng Sa và Trường Sa như Chính
Phủ Bắc Kinh đă xuyên tạc trong "Bản Chú
Giải về Đảo Nam Uy và Quần Đảo Tây
Sa" ngày 1-tháng 9-1951. 6. Đời
Nhà Đường sách Đường Thư Nghệ Văn
Chí có đề cập đến cuốn Giao Châu
Dị Vật Chí của Dương Phu trong đó tác
giả tường thuật những việc kỳ
dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu
(Việt Nam). Như tại Thất Châu Dương
(Nhóm An Vĩnh, Hoàng Sa) là nơi có nhiêu từ thạch
hay đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương
có đóng chốt sắt không đi qua được.
Đây có sự thừa nhận các đảo Hoàng Sa là
thành phần của Việt Nam. Ngoài ra sách Tứ Di Lộ Tŕnh do
Giă Đàm đời Đường khi ghi lộ tŕnh hay
hải đạo Hongkong-Tân Gia Ba cũng không ghi các
hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay các danh xưng
Tây Sa, Nam Sa. Kế
tiếp đời nhà Đường là đời Ngũ
Đại Thập Quốc (907-960). Đây là
một giai đoạn lịch sử phân hóa và suy
yếu. Thừa dịp này, năm 939 Ngô Quyền
đánh thắng quân Nam Hán để giành lại
chủ quyền độc lập cho Việt Nam. 7. Đời
Nhà Hán, trong cuốn Chư Phiên Chí, sử
gia Triệu Nhữ Quát đời Nhà Tống đă xác
nhận nhiều sự kiện lịch sử đáng
ghi nhớ như sau: Năm 111 Trước
Công Nguyên, sau khi thôn tính Nam
Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt
biển sang chiếm đất của địch quân
(Nam Việt) và đặt ra hai quận Châu Nhai và Đạm
Nhĩ (Đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ nhất Trước
C.N. Hán Nguyên Đế đă rút quân
khỏi đảo Hải Nam, măi tới đời nhà Lương và
nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ 6 và đầu
thế kỷ thứ 7) mới đặt lại
quyền cai trị". Như đă
tŕnh bày, đến cuối đời Nhà Thanh vào
đầu thế kỷ 20, biên cương của Trung Quốc về phía Nam
chỉ chạy tới quận Quỳnh Châu đảo
Hải Nam tại vĩ tuyến 18. Tổng
kết lại, về mặt chính sử, trong suốt 22
thế kỷ, từ các đời Tần Hán đến
sau Thế Chiến II, không thấy tài liệu nào, hay nói
rơ hơn, không có câu nào ghi rằng Biển Đông
Hải với Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ
quyền của Trung Quốc. Măi tới năm
1951 nhân kỳ Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco
1951, lần đầu tiên Chính Phủ
Bắc Kinh mới đưa ra Công Bố ngày
1-9-1951 đ̣i
chủ quyền lănh thổ tại các hải đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là Bản Chú Giải về Đảo Nam Uy và
Quần Đảo Tây Sa theo đó "đảo Nam
Uy cùng toàn thể các quần đảo Nam Sa và Tây Sa
đều là lănh thổ của Trung Quốc, các tài liệu lịch
sử liên quan đến các quần đảo
này có từ đời nhà Tống".
(Notes on the Nanwei and Sisha Islands, People's China, Foreign Language
Press, 9-1-1951). Tuy nhiên
lịch sử Trung Quốc đă không ghi nhận như
vậy. Như đă
tŕnh bày, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp
của sử gia Chu Khứ Phi đời Nhà Tống cũng gọi vùng biển Hoàng Sa Trường
Sa là Giao Chỉ Dương (biển của nước Giao Chỉ
tức Việt Nam đời Nhà Hán). Qua năm
1956 khi Phi Luật Tân đ̣i chủ quyền các
hải đảo Thái B́nh (Itu Aba) và Trường Sa
(Spratly), ngày 29-5-1956 Chính Phủ Đài Bắc
đă lên tiếng phản kháng và chủ trương
rằng các hải đảo này đă thuộc chủ
quyền lănh thổ của Trung Quốc từ đời
nhà Minh trong thế kỷ 15. Tuy nhiên cũng
như Bản Công Bố Chủ Quyền của Bắc
Kinh năm 1951, Bản Phản Kháng Phi Luật Tân năm
1956 của Đài Bắc không viện dẫn
được bằng chứng cụ thể nào về
pháp lư, địa lư hay lịch sử để
chứng minh chủ quyền của Trung Quốc tại
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cả hai Chính Phủ Trung Hoa chỉ
quả quyết suông rằng Biển Nam Hoa là Biển
Lịch Sử của Trung Quốc từ các đời
Hán Vũ Đế, Tống Thần Tông hay Minh Thành
Tổ. Trên thực
tế đây chỉ là âm mưu của Chính Phủ
Bắc Kinh nhằm khôi phục chủ nghĩa bá
quyền Trung Quốc do Mao Trạch Đông tái phát
động từ cuối thập niên 1950. Và để thi đua tranh thủ nhân
tâm, Chính Phủ Đài Loan cũng phụ họa
luận điệu này. Mặc dầu, như đă tŕnh
bày, cho tới tháng 2-1955 Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc
Tưởng Giới Thạch vẫn xác nhận giá
trị Tuyên Cáo Cairo 1943 trong đó
Trung Quốc khước từ chủ quyền tại
Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 5-2008 trên tạp chí Duyệt Lại
Nền Kinh Tế Tại Viễn Đông (Far Eastern
Economic Review), học giả Micheal A. Ledeen trong Viện
Nghiên Cứu Chính Sách của Hoa Kỳ đă
mệnh danh chính sách bá quyền của Trung Quốc
hiện nay là Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển
(Beijing Embraces Classical Fascism). Theo tác
giả, thay v́ tiếp thu chủ nghĩa đa nguyên theo
sự mong đợi của mọi người,
giới lănh đạo Trung Quốc càng ngày càng trở
nên giáo điều và bảo thủ. Cũng như
tại Ư Đại Lợi 50 năm sau Cách Mạng Phát
Xít, Nhà Nước Ư vẫn giữ nguyên chế độ
độc tài và chủ yếu vẫn đàn áp chính
trị. Để biện minh cho chế độ,
họ đă nêu lên quan hệ về sự vinh quang
cổ xưa của dân tộc Ư thời Đế
Quốc La Mă. Ngày nay, để phỏng theo Chủ Nghĩa
Phát Xít Cổ Điển Ư, Bắc Kinh cũng đề
xướng "Dân Tộc Hán Vĩ Đại".
Mục đích để giữ chặt quyền
lực chính trị hầu phục hồi Đế
Quốc Đại Hán. Đây chính
là Chủ Nghĩa Đại Hán được xây
dựng và phục hồi. Với "tứ hiện
đại hóa" Trung Quốc ngày nay đă biểu
lộ tính hiếu chiến trong chính sách bành trướng
cả về kinh tế lẫn chủ quyền lănh
thổ. Quân đội Trung Quốc đang tăng cường
sức mạnh để hy vọng có ngày đủ phương
tiện nhằm lọai trừ hay pḥng ngừa sự
can thiệp của Hoa Kỳ tại Á Châu Thái B́nh Dương.
Trong khi chờ đợi họ phóng kim ngân để
tích cực vận dụng thông tin tuyên truyển
hầu giành cảm t́nh và sự thán phục của các
quốc gia trên thế giới. Sau đó, theo
truyền thống và tự hào lịch sử, họ
sẽ bước vào giai đoạn đối đầu
với phe Dân Chủ Tây Phương. Họ kỳ
vọng rằng với quyết tâm và phát triển kinh
tế, hệ thống Trung Quốc sẽ nổi bật
trên thế giới khiến các quốc gia khác phải
khâm phục và mặc nhiên chấp thuận để
họ thôn tính các vùng lănh thổ và hải đảo
tại Á Châu. Những
nhận định nói trên của kư giả Micheal A.
Ledeen cũng là những nhận định của Tiến
Sĩ Lo Chi-Kin từ Hong Kong trong Luận Án Tiến Sĩ
đệ tŕnh Đại Học Kinh Tế Chính Trị
Luân Đôn năm 1986 : Đối với Trung Quốc,
những lănh thổ phụ dung trước kia đă
được Trung Quốc chinh phục và khai hóa, nay
phải trả lại (Trung Quốc) văn minh chứ không
thể thuộc về phe (Đế Quốc) dă man (Territory
once won for civilization must not be given back to barbarism: Chi-Kin
Lo, China's Policy Towards Territorial Disputes, Routledge London, 1989). Trong thập
niên 1960 khi phát động Cách Mạng Văn Hóa, Trung
Quốc đă viện dẫn nguyên tắc này để
giành giật chủ quyền lănh thổ trong Chiến
Tranh Biên Giới Ấn-Hoa. Lúc này chính sách ngoại giao
của Bắc Kinh nhằm thu hồi toàn vẹn chủ
quyền lănh thổ của Đế Quốc Trung Hoa
thời cực thịnh. Đó là quan niệm "trật
tự thế giới theo truyền thống Trung Quốc". Từ sau Chiến
Tranh Biên Giới Hoa-Ấn năm 1962, mọi người
nh́n rơ tham vọng không bao giờ thỏa măn của
Trung Quốc muốn đ̣i những lănh thổ mà
họ đă thôn tính trong lịch sử. Chính sách này
được phổ biến năm 1954 trong cuốn "Lược
Sử Tân Trung Quốc" có kèm theo bản đồ,
nhắc lại lời Mao Trạch Đông: "Tất cả các lănh thổ và
hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng
của Trung Quốc đă từng bị phe Đế
Quốc Tây Phương và Nhật Bản chiếm đoạt
từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế
Chiến I, như Ngoại Mông, Triều Tiên, "An
Nam", Mă Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal,
Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo
Thái B́nh Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu,
Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc". Đây là khát
vọng bá quyền của Trung Quốc không bao giờ
thỏa măn. Đế Quốc Ngai Rồng phát
hiện từ các đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ
Đế và Minh Thành Tổ đă được Mao
Trạch Đông chủ trương phục hồi
từ 1955. Trong cuốn Cách
Mạng Trung Quốc và Lịch Sử Đảng
Cộng Sản Trung Quốc xuất bản sau năm
1949 có đoạn như sau: "Sau khi
đánh bại Trung Quốc trong chiến tranh vơ trang, các
đế quốc đă thôn tính nhiều nước
phụ dung của Trung Quốc: Nhật Bản chiếm
Triều Tiên, Đài Loan, Bành Hồ, các đảo
Ryukyu, và Port Arthur. Anh chiếm Miến Điện, Bhutan,
Nepal và Hong Kong; Pháp chiếm "An Nam"; và ngay cả
một quốc gia vô nghĩa như Bồ Đào Nha cũng
chiếm Macao". (In earlier days,
especially in the immediate aftermath of the Sino-Indian border war of 1962,
a popular interpretation of China's policies towards territorial disputes
was that they were dictated by insatiable irredentist ambitions. It has been
claimed that it is the belief of the Chinese that territory once won for
civilization must not be given back to barbarism. Therefore territory which
was once Chinese must forever remain so, and, if lost, must be recovered at
the first opportunity C. P. Fitzgerald, The Chinese View of Foreign
Relations, 1963. In defeating
China in war, the imperial states have taken away many Chinese dependent
states and a part of her territories. Japan took away Korea, Taiwan, the
Ryukyu Islands, the Pescadores and Port Arthur; Britain seized Burma,
Bhutan, Nepal and Hongkong; France occupied "Annam"; and even an
insignificant country like Portugal took Macao. Mao's remark is
believed to have lent weight to the irredentist interpretation of China's
territorial policies. Guy Searls, Communist China's Border Policy, Dragon
Throne Inperialism? Hongkong 1963). (Irredentist interpretation means an advocate of the
recovery of lands of which his nation has been deprived, or, of territory
historically or culturally related to his nation but now subject to a
foreign government). Nhận định
nói trên của họ Mao đă yểm trợ cho chính sách
thổ địa của Trung Hoa với quan niệm
cực đoan cho rằng, về phương diện
lịch sử và văn hóa, bất cứ lănh thổ nào
trước kia thuộc ảnh hưởng Trung Quốc
hiện bị các đế quốc (Tây Phương) xâm
chiếm, nay phải giao hoàn cho Trung Quốc. Riêng tại
Việt Nam và vùng Biển Đông Nam Á, Trung Hoa đề
ra thuyết Biển Lịch Sử và chủ trương
rằng họ đă viện dẫn rất nhiều tài
liệu lịch sử từ thời cổ xưa cho
biết họ đă khám phá và chiếm cứ
những hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó họ tự cho có ưu
thế trên lănh vực lịch sử và khẳng định
rằng chủ quyền của Trung Quốc tại các
quần đảo trong Biển Nam Hoa là vấn đề
"bất khả tranh nghị" (Both contentions are
strong: the ancient title based on immemorial possession or
discovery- occupation). Điều
đáng lưu ư là Bắc Kinh mới chỉ chính
thức lên tiếng đ̣i chủ quyền tại
Biển Đông Hải ngày 1-9-1951 viện cớ
họ đă chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa
từ đời Nhà Tống (thế kỷ
thứ 10). Trong khi đó,
5 năm sau, ngày 29-5-1956, trong bản kháng
nghị Phi Luật Tân tại Trường Sa, Đài
Bắc lại chủ trương rằng Trung Quốc
chỉ thủ đắc chủ quyền các hải
đảo này từ đời Nhà Minh (thế
kỷ 15). Trong mọi trường
hợp, người Trung Hoa, dầu là quốc gia hay
cộng sản vẫn chỉ căn cứ vào những
tài liệu ngoại sử, vào thuyết Biển
Lịch Sử và thuyết Thủ Đắc Chủ
Quyền do Khám Phá và do Chiếm Cứ. Họ
chủ quan cho đó là lập trường ưu
thắng không ai có thể phủ nhận hay bác bỏ. Nếu
quả thật muốn trung thành với chủ trương
phải giao hoàn các lănh thổ bị lấn chiếm do
chiến tranh vơ trang, th́ trước hết Trung Quốc phải giao hoàn cho
Việt Nam toàn thể lănh thổ nước Nam
Việt do Triệu Vũ Vương thiết lập
năm 207 Trước C. N. bao gồm vùng trung nguyên Trung
Quốc với các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông,
Quảng Tây, đảo Hải Nam và Việt Nam. Năm
181 Trước C. N., sau khi đánh thắng quân Tây Hán
tại quận Trường Sa, Triệu Vũ Vương
xưng đế hiệu là Nam Việt Hoàng Đế,
ngang hàng với Hán Cao Tổ tại miền Bắc. Năm
157 Hán Văn Đế sai Lục Giả đưa
quốc thư khuyến dụ Triệu Vũ Đế
từ bỏ đế hiệu với lời cam kết
sẽ để Triệu Vũ Vương được
toàn quyền cai trị vùng trung nguyên Trung Quốc từ
Ngũ Lĩnh đến bờ biển Việt Nam. Tuy nhiên năm
111 Trước C. N. Hán Vũ Đế đă phản
bội cam kết của các tổ phụ và tiên vương
nhà Tây Hán như Hán Cao Tổ và Hán Văn Đế. Và đă
đem quân thôn tính Nam Việt nhằm Hán hóa vùng lănh
thổ này, mặc dầu Nam Việt có nền văn hóa
và văn minh khác biệt với các dân tộc du
mục miền Bắc. Đó cũng là nhận định
của Giáo Sư C. P. Fitzgerald tại Đại
Học Oxford: "Trong trường
hợp nước Nam Việt giữ vững chủ
quyền độc lập với nền văn hóa
đặc thù của Miền Nam, th́ dầu nhà Hán có
chiếm được miền Quảng Châu và Vân Nam,
họ cũng sẽ không thành công trong việc thiết
lập ảnh hưởng tại vùng châu thổ Sông Tây
Giang phía đông nam Trung Quốc". (Had Nan Yueh remained independent, it is very possible a separate
culture would have arisen in the south, and the Chinese might never have
established their influence in the valley of West River. C. P.
Fitzgerald: China, A Short Cultural History, Oxford University Press
1953, p.184). Điều
nghịch lư là, dầu quả quyết nắm chắc
phần thắng trong tay, Trung Quốc không bao giờ dám
công khai đưa vấn đề tranh chấp chủ
quyền hải đảo và hải phận tại
Biển Đông Nam Á ra trước các cơ quan
trọng tài quốc tế, kể cả các cơ quan
điều giải do các quốc gia đệ tam vô tư
phụ trách. (Ironically,
despite most of the existing studies having found in favour of China's
position over to islands, it appears that China has been most reluctant
to subject the disputes to international legal arbitration. Chi-Kin Lo. Ibid). Ngay từ năm 1932, trong
vụ tranh chấp về quyền khai thác phốt phát
trên quần đảo Hoàng Sa, đại diện
Việt Nam, Chính Phủ Pháp đă viện dẫn
những tài liệu lịch sử để xác định
chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
này. Để tỏ thiện chí ḥa giải, Pháp đề
nghị đưa vụ tranh chấp Hoàng Sa ra trước
Ṭa Án Quốc Tế là cơ quan tư pháp tối cao có
thẩm quyền công bố những quan điểm tham
vấn (consultative opinions). Tuy nhiên Trung Quốc đă
tránh né và không dám công khai tŕnh bầy những quan
điểm pháp lư và những tài liệu lịch
sử mà họ thường phô trương. (Báo cáo
của Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier năm
1932 hiện lưu trữ tại Văn Khố Bộ
Ngoại Giao Pháp). Ngày nay chúng ta thách thức
Trung Quốc công khai đưa vụ tranh chấp
chủ quyền các hải đảo và hải phận
tại Biển Đông Hải ra trước các cơ
quan tài phán, trọng tài, ḥa giải hay tham vấn theo
thủ tục quốc tế (international litigation,
arbitration, legal mediation or judicial consultation). Giáo Sư Fairbank tại Đại
Học Harvard và Giáo Sư Fitzgerald tại Đại
Học Oxford cho rằng Trung Quốc vẫn chủ trương
duy tŕ một trật tự thế giới nhằm tái
lập vai tṛ bá chủ truyền thống của
họ. Quá tŕnh lịch sử của Trung Quốc đă
ảnh hưởng quyết định đến chính
sách đối ngoại hiện nay của Bắc Kinh.
Họ chỉ giảo hoạt nương theo trào lưu
tiến hóa lịch sử để duy tŕ địa
vị và uy thế, bất kể những mục tiêu
tinh thần của Liên Hiệp Quốc như b́nh đẳng,
hợp tác và hữu nghị giữa các quốc gia
hội viên trên thế giới. (Some historians
like Fairbank and Fitzgerald believe in the existence of a Chinese
traditional world order, or a traditional view of "their place in the
world". This historical legacy continues to exert an important
influence on China's foreign policy today. In Fitzgerald's words "the
Chinese view of the world has not fundamentally changed: it has been
adjusted to take account of the modern world, but only so far as to permit
China to occupy, still, the central place in the picture", C. P.
Fitzgerald, The Chinese View of Their Place in the World: Oxford
University Press 1964: 68-72. J. K. Fairbank, The Chinese World
Order, Harvard University Press, 1968 and China's World Order,
Encounter, December 1968:14-20). Hiện nay,
tại vùng Biển Đông Nam Á, rập theo tham
vọng của Đế Quốc La Mă hồi thế
kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là
Biển Lịch Sử La Mă, Bắc Kinh cũng đưa
ra thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi
Rồng Trung Quốc và coi đó là mục tiêu
chiến lược từ sau Thế Chiến II.
Nhất là từ 1982 khi Trung Quốc kư Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển tại Montego
Bay, Jamaica. Tuy nhiên
thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đă lỗi
thời. Nó đi trái những điều khoản
của Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ
Quốc Tế của Ṭa Án Quốc Tế The Hague. 9. Biển Lịch Sử và Thuyết
Thủ Đắc Chủ Quyền Trong suốt
22 thế kỷ, từ các đời Tần Thủy Hoàng,
Hán Vũ Đế, Tống Thần Tông, Minh Thành
Tổ đến giữa thế kỷ 20 (năm 1951),
Trung Quốc không bao giờ lên tiếng đ̣i chủ
quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa). Họ khẳng
định đó là một vấn đề "bất
khả tranh nghị". Để tránh né mọi
cuộc tranh luận công khai trước các cơ quan
điều giải, trọng tài hay tố tụng. Lư do
là v́ họ không đưa ra được quan điểm
pháp lư hay một bằng chứng lịch sử khả
tín nào cho thấy họ có chủ quyền tại các
quần đảo này. Năm 1982,
sau khi kư Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, Bắc Kinh tập hợp 400 học
giả, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong
suốt 10 năm để kết luận rằng
"Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung
Quốc từ hàng ngàn năm nay". Rồi họ
hội nghị với 100 nhà trí thức Đài Loan
để xác định chủ trương này. Tuy nhiên
về mặt Công Pháp Quốc Tế, chiếu án lệ
của Ṭa Án Quốc Tế The Hague, muốn có Biển
Lịch Sử phải hội đủ 3 điều
kiện: 1) Phải có sự hành sử chủ quyền; 2) Một cách liên tục và trường kỳ; và 3) Được sự thừa nhận của các
quốc gia duyên hải, đặc biệt là các
quốc gia tiếp cận và đối diện. Dầu sao Ṭa Án Quốc Tế đă định nghĩa
"biển lịch sử là nội hải". Năm 1982 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
đă kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy
định trong Điều 8 như sau: "Ngoại
trừ trường hợp các quốc gia quần đảo
[như Phi Luật Tân hay Nhật Bản] Biển
Lịch Sử hay nội hải của một
quốc gia nằm bên trong đất liền, về phía
bên trong đường cơ sở của biển lănh
thổ. The International Court of Justice has defined historic
waters as "internal water" (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I.
C. J. 116, 130); "Waters on the landward side of the baseline of the
territorial sea form part of the internal water of the State" (Art.
8 LOS Convention 1982). Ngoài ra Trung
Quốc c̣n nêu lên thuyết Thủ Đắc Chủ
Quyền các đất vô chủ, thủ đắc
do khám phá và thủ đắc do chiếm cứ. A. Thủ Đắc do Khám Phá (Acquisition
by Discovery). Theo các tài
liệu do Bắc Kinh xuất tŕnh, từ hơn 2000 năm
nay, dưới đời nhà Hán, với 100 ngàn hải
quân, Đô Đốc Yang Pu đă khám phá các hải
đảo tại Biển Nam Hoa, và do đó đă
thủ đắc chủ quyền các hải đảo
này. Lư luận này
hoàn toàn vô căn cứ: 1) Trước
hết không có tài liệu khách quan vô tư nào kiểm
chứng có sự tuần thám của 100 ngàn hải quân
Trung Quốc tại các tiểu đảo san hô trên
Biển Đông Hải. Có chăng chỉ là đội
hải thuyền của Tào Tháo mượn lệnh Hán
Đế đi thôn tính Đông Ngô và đă bị Chu
Du và Gia Cát Lượng đánh tan trong Trận Xích Bích. Vả
lại, như đă tŕnh bày, trong thế kỷ thứ
I Trước C.N, quân Nhà Hán đă rút khỏi đảo
Hải Nam cho đến cuối thế kỷ thứ 6
mới đặt lại quyền cai trị. Hơn
nữa, sử sách đời Nhà Thanh c̣n ghi rơ "đến
cuối thế kỷ 19, lănh thổ của Trung Quốc
chỉ chạy đến đảo Hải Nam tại vĩ
tuyến 18 là hết". Như vậy trong 20 thế
kỷ, từ đời Nhà Hán đến đời Nhà
Thanh, hải quân Trung Quốc không chiếm hữu các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa
lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến
vĩ tuyến thứ 8 (Quảng Trị-Cà Mâu). 2) Vả
lại kẻ khám phá không đương nhiên là
kẻ sở hữu. Hoa Kỳ đă khám phá mặt trăng,
treo cờ, lấy đá, chạy xe thử nghiệm và
chiếm cứ tượng trưng nhiều lần. Nhưng
không phải v́ các hành động này mà Hoa Kỳ có
thể tuyên bố: "Mặt trăng thuộc chủ
quyền không gian của Hoa Kỳ". 3) Các nhà thám
hiểm hàng hải quốc tế từ thế kỷ
15, như Christopher Columbus khám phá Châu Mỹ, Vasco de Gama
khám phá Mũi Hảo Vọng tại Phi Châu và các hoang
đảo tại Ấn Độ Dương; Magellan
đi xuyên ba đại dương từ Đại Tây
Dương vượt Ấn Độ Dương qua
Thái B́nh Dương, khám phá quần đảo Phi
Luật Tân và hải đảo Guam. Vậy mà Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha cũng không đ̣i chủ
quyền các hải đảo này. Cũng trong tinh
thần đó, năm 1867 Hải Quân Anh đă phát
hiện Quần Đảo Trường Sa và đặt
tên là Spratleys. Vậy mà Anh Quốc cũng không đ̣i
chủ quyền các hải đảo này, dầu
rằng, theo Tuyên Ngôn Potsdam 1945, Anh Quốc được
Đồng Minh trao nghĩa vụ giải giới Quân
Đội Nhật tại Spratleys. 4) Vẫn theo
tinh thần đó, khám phá ra Bắc Cực, Nam Cực,
rồi cắm cờ, dựng bia kỷ niệm cũng
không có hiệu lực ban bố chủ quyền cho người
chinh phục. B. Thủ Đắc do Chiếm Cứ
(Acquisition by Occupation) Theo công pháp
quốc tế, muốn thủ đắc chủ
quyền các đất vô chủ (terra nullius),
sự chiếm cứ phải có những đặc tính
sau đây: 1) Chiếm
cứ thực sự. Tại Trường
Sa trong số các đảo, cồn, đá, băi có danh xưng
quốc tế, Trung Quốc chiếm 8 đơn vị,
Đài Loan chiếm đảo Ba B́nh hay Thái B́nh, trong
khi Việt Nam chiếm 21 đảo và Phi Luật Tân
chiếm 8 đảo.. 2) Chiếm
cứ công khai. Sự
chiếm cứ phải có tính công khai, không thể
ngấm ngầm như trường hợp Trung Quốc
lấn chiếm và xây công sự tại đá ch́m
Mischief trên thềm lục địa Phi Luật Tân năm
1995. 3) Chiếm
cứ ḥa b́nh. Không có
sự chối căi rằng trong năm 1956 hải quân
Trung Quốc đă chiếm cứ vơ trang 7 đảo Hoàng
Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc. Năm 1974
Trung Quốc lại dùng vơ lực xâm chiếm 6 hải
đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía
tây nam. Năm 1988,
lần đầu tiên hải quân Trung Quốc
tấn công vơ trang các đảo Trường Sa, và
đă chiếm Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng
một số đá ch́m và băi ngầm. Năm 1992,
Trung Quốc lại dùng vơ lực xâm chiếm Băi
Vạn An trên Thềm Lục Địa Việt Nam phía
đông nam các Băi Thanh Long và Tứ Chính. Những
vụ chiếm cứ này không có tính ḥa b́nh mà do xâm lăng
vơ trang nên không được luật pháp và ṭa án
bảo vệ. V́ nó đi trái Điều 2 Hiến Chương
Liên Hiệp Quốc. Cũng như thời Thế
Chiến II, Nhật Bản đă chiếm cứ Hoàng Sa
và Trường Sa bằng vơ lực nên không có tư cách
chủ quyền hợp pháp. 4) Chiếm
cứ liên tục và trường kỳ Cho đến
năm 1951 Trung Quốc không bao giờ lên tiếng đ̣i
chủ quyền lănh thổ tại Hoàng Sa và Trường
Sa. Trong khi đó,
ít nhất từ 1816 dưới đời Vua Gia Long,
Việt Nam đă chiếm cứ công khai, liên tục, ḥa
b́nh các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia
chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có
ghi: Empire D'Annam (Vương
Quốc Việt Nam) Archipel des
Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa) 1816 -Ile de
Pattle- l938 (Đảo Hoàng Sa) Chiếm cứ năm 1816 và dựng bia năm 1938) Các căn
cứ quân sự của người Pháp được
thiết lập từ đầu thập niên l930. Đài
Khí Tượng Hoàng Sa mang số 48860 thuộc Tổ
Chức Khí Tượng Thế Giới bắt đầu
hoạt động từ 1938. Trước đó, trong
thập niên 1920, Công Ty Phosphate Bắc Kỳ đă
khởi sự khai thác phân chim. Ngoài ra c̣n có hải
đăng, Miễu Bà, Nhà Thờ Thiên Chúa, cầu tàu
và các nhà cửa công sự xây cất với sự
đồn trú của Đội Pḥng Vệ Đông Dương
và của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Sự
chiếm cứ này có tính công khai, ḥa b́nh, trường
kỳ và liên tục cho đến 1956 và 1974 khi hải
quân Trung Quốc xâm lăng. Lịch
sử Trung Quốc không mang lại bằng chứng khách
quan vô tư nào cho biết họ đă liên tục
chiếm cứ, công bố và hành sự chủ
quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa từ các đời
Hán Vũ Đế, Tống Thần Tông, Minh Thành
Tổ hay Càn Long. Nếu chỉ có một số ngư
dân lẻ tẻ từ đảo Hải Nam đến
đánh cá theo mùa th́ cũng không có sự công
bố và hành sử chủ quyền của Nhà Nước
Trung Hoa. 5) Hơn
nữa sự chiếm cứ phải được
sự thừa nhận của các quốc gia liên hệ. Như đă
tŕnh bày, năm l951, 51 quốc gia đồng minh họp
Hội Nghị Ḥa B́nh Cựu Kim Sơn để kư
Hiệp Ước Ḥa B́nh Nhật Bản, trong đó
Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng
Sa Trường Sa nhưng không nói để trả cho nước
nào. Ngoại Trưởng Liên Sô yêu cầu Hội
Nghị biểu quyết trao Hoàng Sa Trường Sa cho
Trung Quốc. Nhưng Hội Nghị đă bác bỏ
thỉnh cầu này với 46 phiếu chống và 3
phiếu thuận . Sau đó Thủ Tướng kiêm
Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Hữu
lên diễn
đàn công khai tuyên bố chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa và không gặp
sự phản kháng nào. Sự
thừa nhận chủ quyền hải đảo
chỉ có ư nghĩa nếu xuất phát từ các
quốc gia duyên hải đối diện và tiếp
cận. V́ các đảo này tọa lạc tại
Biển Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông
Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhận. Mà cho
đến nay trong tất cả các quốc gia Đông
Nam Á không một nước nào thừa nhận chủ
quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường
Sa. Điều
đáng lưu ư là, cho đến những năm 1956,
1974, 1988 và 1992 các đảo Hoàng Sa và Trường
Sa đă do Việt Nam chiếm cứ công khai, ḥa b́nh và
liên tục nên không thể coi đó là đất vô
chủ. (terra nullius) Như
vậy thuyết Thủ Đắc Chủ Quyền do Khám
Phá hay do Chiếm Cứ do Trung Quốc viện dẫn
đă trở thành vô dụng. Nó chỉ dựa vào
những lời tuyên bố suông, những khẩu
thuyết vô bằng. Hơn nữa nó vi phạm nghiêm
trọng các điều khoản trong Hiến Chương
Liên Hiệp Quốc và trong Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển đồng thời vi
phạm chủ quyền lănh thổ của Việt Nam. Do đó,
về mặt công pháp quốc tế, Thuyết Biển
Lịch Sử không c̣n là một vấn đề tranh
nghị tại các cơ quan trọng tài hay các Ṭa Án
Luật Biển. V́ thuyết này đi trái với
Luật Tục Lệ Quốc Tế của Ṭa Án
Quốc Tế và đă bị Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong
Điều 8. V́ biết rơ
điều đó nên Trung Quốc không bao giờ dám
đưa vụ tranh chấp hải phận và các
hải đảo tại Biển Đông Nam Á ra trước
Ṭa Án Quốc Tế, Ṭa Án Luật Biển hay trước
các cơ quan Trọng Tài và Điều Giải của
Liên Hiệp Quốc. Trong mọi
trường hợp, dầu cực đoan đến
mấy, ngày nay Bắc Kinh không c̣n dám yêu sách đ̣i
chủ quyền lănh thổ tại một số các
quốc gia Đông Á như Triều Tiên, Miến Điện,
Nepal, hay Việt Nam mà Mao Trạch Đông thường
miệt thị là "nước phụ dung An Nam" 10. Tín Nghĩa và Quyền Mưu Muốn
hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn
minh, thay v́ tổ chức các thế vận hội
về thể dục thể thao hay các hội chợ
thế giới về văn hóa kỹ thuật với tác
dụng phô trương tuyên truyền, Bắc Kinh nên
trở về với tín nghĩa, pháp lư và đạo lư.
Bằng cách tôn trọng danh dự quốc gia và chữ
kư của ḿnh để nghiêm chỉnh thực thi Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển mà
họ đă kư kết tham gia từ 28 năm nay. Nếu
đi ngược trào lưu tiến hóa của nhân
loại văn minh và trọng pháp, Trung Quốc sẽ
bị các quốc gia trên thế giới chê cười
và tẩy chay do thái độ trí trá, tiền hậu
bất nhất, nói một đàng làm một nẻo. Theo các nhà
minh triết cổ kim có hai con đường lập
quốc: Lấy tín
nghĩa mà lập quốc là theo chính đạo. Lấy mưu
mô quỷ quyệt mà trị nước là theo tà đạo. Con đường
này sẽ đưa đất nước đến
suy vong. (Tín nghĩa
lập nhi nhân đạo, quyền mưu
lập nhi vong quốc).
Tài liệu
soạn cho các sinh viên Việt Nam ở trong nước
các sinh viên Việt Nam tại hải ngoại và các sinh viên Việt Nam du
học tại hải ngoại. Mùa Xuân 2010 Luật Sư
Nguyễn Hữu Thống KỶ NGUYÊN
HẬU CỘNG SẢN Luật Sư
Nguyễn hữu Thống
Luật sư
Nguyễn Hữu Thống & các Tác Phẩm Luật Sư
NGUYỄN HỮU THỐNG Luật sư
Nguyễn Hữu Thống đă hành nghề luật sư
tại Việt Nam từ năm 1954, tại Pháp từ năm
1975, tại Hoa Kỳ từ năm 1978. Nguyên Đệ
Nhất Phó Chủ Tịch Quốc Hội Lập
Hiến Việt Nam Cộng Ḥa (1966-67) và Giáo Sư môn
chính trị học tại đại học Đà
Lạt (1974-75). Luật sư Ṭa Thượng Thẩm
Saigon 1954-1975. Luật sư Ṭa Thượng Thẩm Paris
1975-1976. Luật sư Tối Cao Pháp Viện California
từ 1978. Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại
Hội Nghị các Nhà Văn Á Châu 1956. Luật sư
Nguyễn Hữu Thống là Chủ Tịch sáng lập
Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền và là
Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại
California từ năm 1989. Hiện nay ông là Cố
Vấn Pháp Luật của tổ chức Mạng Lưới
Nhân Quyền Việt Nam. Ngoài các
hoạt động trong lănh vực luật pháp,
Luật sư Nguyễn Hữu Thống c̣n là một cây
viết được nhiều người biết
đến qua bút hiệu Nhuệ Hồng. Các tác
phẩm đă xuất bản gồm có Chủ Nghiă
Dân Chủ Xă Hội (1957) Lá Thư
Miền Nam (1958) Những
Chuyến Đi (1959) Nền Dân
Chủ Trong Các Tân Quốc Gia (1960) Truyện Ṭa
Án (1962) Xử Án Vương
Thúy Kiều (1972) Nho Học
Giản Dị (1966) Thư
Gửi Bạn Trung Niên (1988) Luật Quốc Tế Nhân
Quyền (1998) Cẩm Nang về Nhân Quyền
(1998) Giải Thể Chế Độ
Cộng Sản (2002) Restoring The
Historic Truth (2003) Hiến Chương
Nhân Quyền cho Việt Nam (2005) Biện Minh
cho Các Tù Nhân Lương Tâm (2007) Vấn Đề
Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế (2008) HOANG SA TRƯỜNG
SA THEO CHÍNH SỰ, NGOÀI SỰ VÀ VĂN HỌC SƯ
TRUNG QUỐC (2010). KỶ NGUYÊN HẬU CỘNG SẢN
(2014)
|