Kiện Trung Cộng: Yếu tố quyết định thành bại là nhân chứng |
(Phản
đối Trung Cộng xâm lược) - Nhân
chứng chính là nhân tố làm nên sự khác biệt
chung cuộc trong vụ kiện tại cơ quan tài phán
quốc tế. Trong
thông điệp tại “Diễn đàn An ninh Châu Á”
vào thứ sáu tuần rồi tại Singapore, Thủ tướng
Nhật Bản – Shinzo Abe nhấn mạnh tầm quan
trọng của tinh thần thượng tôn pháp
luật quốc tế (The rule of laws), trong bối
cảnh Trung Quốc đang “leo thang” các hành vi gây
hấn tại khu vực Biển Đông. Ba
nguyên tắc mà Thủ tướng Abe khuyến cáo các
quốc gia nên tuân thủ: (1) các quốc gia giải
quyết vụ việc trong khuôn khổ luật pháp
quốc tế, (2) không quốc gia nào được
phép sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
sử dụng vũ lực để giải quyết
tranh chấp, (3) các quốc gia phải nỗ lực
giải quyết các xung đột trong ḥa b́nh. Chuẩn
bị nhân chứng sẽ là cả một quá tŕnh
Việt Nam cần thực hiện cho một vụ
kiện trong khuôn khổ công pháp quốc tế về
luật biển. Ảnh TL Ông
Shinzo Abe cũng nhấn mạnh rằng Nhật Bản
đang cố gắng chủ động trong việc
duy tŕ sự ḥa b́nh và thịnh vượng chung cho
khu vực Châu Á – Thái B́nh Dương dựa trên
nền tảng tuân thủ nghiêm túc luật pháp
quốc tế. Thông điệp này có lẽ là bài
học “vỡ ḷng” nhằm gửi đến
một nước lớn nhưng hành xử “nhược
tiểu” như Trung Quốc, khi chính phủ nước
này vẫn đơn phương phong tỏa Biển
Đông và lạm dụng “tay chân” để áp
đặt giải quyết tranh chấp với các
quốc gia ven biển liên quan. Nhật
Bản, Philippines cũng như Việt Nam và một
số nước ASEAN đang phải đối đầu
với Trung Quốc trong những tranh chấp liên quan
đến chủ quyền lănh hải. Trong bối
cảnh đạt được sự đồng
thuận cao của cộng đồng quốc tế
như hiện nay, việc Việt Nam khởi động
một vụ kiện trong khuôn khổ thuộc
thẩm quyền của cơ quan tài phán quốc
tế về luật biển xem ra rất thuận
lợi. Tuy nhiên, bên cạnh phương diện
ngoại giao, kinh tế – chính trị, rất
nhiều yếu tố thuộc kỹ thuật mà
Việt Nam cần phải cân nhắc khi chọn
lựa thời điểm đệ tŕnh và thúc đẩy
vụ kiện. Trong
một phiên ṭa trọng tài quốc tế giải
quyết các xung đột về thương mại nói
chung, tranh chấp lănh thổ giữa các quốc gia nói
riêng, khâu chuẩn bị lực lượng nhân
chứng (gồm nhân chứng sự kiện – witnesses
of facts và nhân chứng chuyên gia – expert witnesses) là
một trong những yếu tố quyết định
sự thành bại chung cuộc của vụ việc. Nhân
chứng và cơ chế thẩm vấn chéo
(cross-examination) Không
tương đồng với “tập quán tố
tụng” của Việt Nam, nơi vai tṛ nhân
chứng (người làm chứng) trong vụ tranh
chấp dân sự, thương mại ít được
khai thác, đôi khi chỉ giữ vai tṛ tố tụng
h́nh thức thứ yếu, ngược lại trong
một phiên tài phán của ṭa án, trọng tài
quốc tế, nhân chứng lại đóng vai tṛ
trọng yếu. Những người này
được mệnh danh là “tai nghe và mắt
thấy của công lư”. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam, điều
kiện chính để một chủ thể có
thể trở thành người làm chứng là từ
đủ 18 tuổi trở lên và có năng
lực hành vi dân sự. Người làm chứng
ở đây là người phải biết rơ về
sự kiện mà ḿnh được yêu cầu làm
chứng và chịu trách nhiệm về tính xác
thực lời chứng của bản thân. Điều
này đồng nghĩa nếu làm chứng gian dối,
sai sự thật có thể bị áp dụng chế tài
và bị buộc bồi thường nếu gây
thiệt hại. Nhân chứng chuyên gia là người
phải đạt yêu cầu về kiến thức
chuyên môn trong lĩnh vực cần giám định khi
được cơ quan tiến hành tố tụng trưng
cầu ư kiến chuyên môn. Những nhân
chứng này có quyền tiếp cận thông tin,
chứng cứ tài liệu thuộc vụ việc, và
phát hành kết luận, báo cáo độc lập
về vấn đề ḿnh được yêu cầu
giám định. Chế
định xác lập chứng cứ, nhân chứng
trong tài phán thương mại quốc tế hiện
nay chủ yếu dựa trên Quy tắc về Chứng
cứ của Trọng tài Quốc tế do Liên
đoàn Luật sư Quốc tế (IBA) ban hành năm
1999 (“IBA Rules”) sửa đổi tháng 5-2010. IBA Rules
đă đưa ra cơ chế tổng thể về
thu thập, đệ tŕnh, đánh giá chứng cứ
cũng như cơ chế hoạt động
của nhân chứng. Chuyên
biệt hơn, quy tắc Ṭa Trọng tài Thường
trực (Permanent Court of Arbitration) sẽ áp dụng cho
tranh chấp trọng tài giữa hai quốc gia như
vụ kiện của Philippines và Trung Quốc, trên cơ
sở áp dụng luật nội dung quy định
tại Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển 1982 (“UNCLOS”). Điểm
chung ở đây, các nhân chứng sự kiện
được yêu cầu chứng thực phải tuyên
thệ chỉ được phép nói toàn bộ
sự thật. Nhân chứng sẽ được
thẩm vấn chéo (cross – examination) bởi luật sư
từ hai phía cũng như ṭa án hoặc hội đồng
trọng tài. Hội đồng trọng tài UNCLOS bao
gồm các chuyên gia về luật biển, tố
tụng công pháp quốc tế hàng đầu, do
vậy chỉ cần một sự chểnh mảng,
nhân chứng có thể bị dẫn dắt, bác
bỏ bởi nhân chứng đối lập hoặc
bởi luật sư đối phương hoặc HĐTT.
Thực tế, trong tranh tụng đôi khi một nhân
chứng chuyên gia rất am tường nội dung tranh
chấp cũng có thể bị biến thành người
“ngây ngô” ít đáng tin cậy sau khi đối
mặt hàng loạt kỹ thuật thẩm vấn chéo
được áp dụng. Phẩm
chất của nhân chứng Trong
vụ kiện thương mại khác của
tổ chức Ṭa án Trọng tài Quốc tế – Pḥng
Thương mại Quốc tế (ICC), một nhân
chứng sự kiện quan trọng của
đương đơn Việt Nam đă bị
hội đồng trọng tài ICC (“HĐTT”) băi
bỏ tư cách ngay khi không “vượt qua”
được hai câu hỏi chào đầu. Bản
khai của nhân chứng này được đệ
tŕnh bằng tiếng Anh, theo đó nhân chứng đă
nộp một bản khai tiếng Anh hoàn hảo. HĐTT
chấp nhận cho nhân chứng được tŕnh bày
bằng tiếng Việt thông qua phiên dịch trực
tiếp. Trong
phiên thẩm vấn chéo, luật sư đối phương
mở đầu bằng câu hỏi đơn
giản: “Sir, can you speak English?” (Ông nói được
tiếng Anh không?). Nhanh nhẹn, nhân chứng này đáp
“Sorry, I can’t speak English” (Xin lỗi, tôi không nói
được tiếng Anh) thay v́ phải chừng
mực đợi phiên dịch đúng quy tŕnh và có câu
trả lời bằng tiếng Việt như là “Xin
lỗi, tôi không nói được tiếng Anh”
hoặc “Tôi nói được tiếng Anh nhưng
rất hạn chế”. Luật sư đối phương
tiếp “tiếng Anh ở bản khai này viết
rất tốt, ông tự làm hay nhờ ai làm?”
Đáp trả bởi nhân chứng: “tôi nhờ
luật sư bên tôi làm giúp” (chỉ vào luật sư)
thay v́ câu trả lời thích hợp và đúng sự
thật là “tôi tự làm bằng tiếng Việt và
luật sư tôi giúp dịch ra tiếng Anh”. Kết
quả là nguyên đơn thành công khi đề
nghị HĐTT bác bỏ tư cách của nhân
chứng quan trọng này v́ có biểu hiện
“thiếu trung thực” và “không độc
lập”. Trong
vụ kiện khác cũng tại ICC, một bên
đương đơn thành công khi chứng minh cho HĐTT
là nhân chứng sự kiện của đối
phương không đáng tin cậy cho rằng các nhân
chứng này không được “cách ly” một cách
thích hợp khi nhân chứng đă được
thẩm vấn có biểu hiện “thông cung” với
nhân chứng chưa được thẩm vấn chéo.
Các nhân chứng quan trọng do sự đề cử
của một bên luôn là trọng tâm cho đối phương
t́m cách loại bỏ dưới sự dẫn
dắt của luật sư có kinh nghiệm, hơn là
các đương đơn kỳ vọng giành
lợi thế xuất phát từ các luận cứ
chuẩn bị sẵn. Thực tế, sẽ không có
cuộc đối đầu trực tiếp thực
sự quan trọng giữa luật sư hai bên trong phiên
tranh tụng quốc tế ngoại trừ phiên
thẩm vấn chéo các nhân chứng do luật sư
đảm trách. Nguồn
nhân chứng của Việt Nam Vấn
đề đặt ra là Việt Nam cần tập
hợp và phát triển nhân chứng sự kiện và
chuyên gia từ nguồn nào. Do đặc thù một
quốc gia có đường bờ biển dài,
Việt Nam có khá nhiều chuyên gia nghiên cứu về
chủ quyền Biển Đảo. So với các
quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam thuận
lợi hơn cho việc chuẩn bị các bằng
chứng lịch sử và pháp lư xác lập chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
-Trường Sa ít nhất từ thế kỷ 17. Năm
2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă
có tuyên bố rơ trước quốc dân đồng bào
rằng từ năm 1956 Trung Quốc đưa quân
chiếm đóng các đảo phía đông của
quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, nước này dùng
vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo
này lúc đó c̣n trong sự quản lư của Chính
quyền Việt Nam Cộng ḥa. Chính quyền Sài
G̣n lúc đó và Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Miền Nam cũng ra tuyên bố phản đối, lên
án hành vi chiếm đóng này, và đề nghị Liên
Hiệp Quốc can thiệp. Các chuyên gia ngoại
giao, chính trị, các nhà nghiên cứu, sử học
trong nước và quốc tế hiện là nguồn
nhân chứng góp phần cho công cuộc pháp lư hóa tuyên
bố trên thành một đúc kết sự thật
lịch sử, trong nỗ lực bảo vệ chủ
quyền Việt Nam. Tuy
nhiên, tận dụng được những chuyên gia
này để đảm trách được vai tṛ làm
nhân chứng sự kiện hoặc chuyên gia trong khuôn
khổ vụ kiện quốc tế đều cần
sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Đôi khi
đệ tŕnh một bằng chứng chưa đủ
độ tin cậy, một phát biểu hoặc hành
vi thiếu cẩn trọng trong quá khứ, một thông
tin không đồng nhất của nhân chứng cũng
sẽ làm ảnh hưởng đến mức độ
“xác tín” (credibility) của nhân chứng này, và v́
vậy ảnh hưởng đến vị thế pháp
lư của đương đơn. Luật sư
quốc tế hoặc HĐTT thuộc các chế định
ṭa án, trọng tài quốc tế lớn như PCA,
ICC, ICJ, ITLOS… sẽ không bỏ qua cơ hội
phản bác những nhân chứng như vậy.
Hậu quả có thể biến một chuyên gia hàng
đầu về lịch sử, địa lư, một
nhân chứng là cựu chiến binh”sống” từ
các trận hải chiến Hoàng Sa 1974, Trường Sa
1988 thành “nhân chứng ít tin cậy” như chưa
bao giờ được nh́n thấy thực địa
lănh thổ. Chẳng
hạn đối với chứng cứ lịch
sử về việc Trung Quốc dùng vũ lực
để chiếm đóng Hoàng Sa như viện
dẫn trên, Trung Quốc dường như phạm
một điều cơ bản mà cơ quan tài phán có
thể xem xét là việc chiếm hữu có
hợp pháp hay bất hợp pháp (Effective Occupation).
Điều này được hiểu: một là
quốc gia ven biển phải thể hiện ư chí
chiếm hữu, hai là thực hiện chiếm hữu
trên thực tế (thời gian chiếm hữu,
thực hiện quyền lực nhà nước, xây
dựng công tŕnh…) và quan trọng là việc
chiếm hữu đó không bị phản đối
bởi các quốc gia khác (acquiescence by silence). Do
vậy, Trung Quốc không dễ đơn phương
tuyên bố xác lập chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực
và dưới sự phản đối quyết
liệt của Việt Nam cũng như cộng đồng
quốc tế. Có nhiều chuyên gia Việt Nam và
Quốc tế đủ để bác bỏ luận
điểm này. Tuy
nhiên liên quan đến sự kiện thực tế,
chẳng hạn, ai là bên chiếm hữu thực
thể quần đảo Hoàng Sa trước và
từ 1956 đến 1974, quân đội hoặc người
dân nào chiếm các băi đá trong đó có Gạc Ma
thuộc quần đảo Trường Sa, công hàm lên
án và phản đối lên Liên Hiệp Quốc
của chính quyền Sài G̣n thực tế thực
hiện như thế nào sau khi Trung Quốc đánh
chiếm Hoàng Sa vào năm 1974, một cách lư giải
nhất quán về xuất xứ, ư chí Công thư 1958
v.v.. th́ có lẽ không có nhân chứng sống nào
tốt hơn là các nhà sử học, chính trị
ngoại giao, các chuyên gia công pháp của thời
kỳ này. Đặc
biệt là các cựu chiến binh hiện hữu,
những người chứng kiến toàn bộ
diễn biến t́nh tiết lịch sử xung quanh
cuộc xung đột này. Tuy vậy, nếu lướt
qua các diễn đàn tranh luận rộng răi th́ ngay
cả đối với một câu hỏi trên th́ các
nhân chứng sự kiện và các chuyên gia cũng có
nhiều cách diễn đạt, lư giải khác
biệt nhau. Đây có thể là rủi ro pháp lư v́
trong một phiên tài phán quốc tế một sự
kiện bị diễn dịch không nhất quán,
chủ quan trong bản chứng của nhân chứng có
thể gây bất lợi cho chung cuộc. Về
mặt kỹ thuật, các bên đương
đơn sẽ “đấu trí” để khai thác
hoặc bác bỏ sự kiện từ nhân chứng
sống này theo hướng có lợi cho ḿnh. Do
vậy, tận dụng được các nhân
chứng chuyên gia trong nước và quốc tế có
nhiều nghiên cứu về chủ quyền lănh
thổ là điều quư giá đối với
Việt Nam lúc này, đặc biệt những chuyên
gia là cuốn “từ điển sống” về
chủ quyền biển đảo của Việt Nam,
những cựu chiến binh đă tham chiến
để bảo vệ tổ quốc. Điều
cần bổ sung cho lực lượng nhân
chứng là một hệ thống kỹ năng cách
tập hợp và tŕnh bày xác thực chuỗi sự
kiện lịch sử một cách có hệ thống
khoa học cho một chủ đích pháp lư rơ ràng. Cho
dù đôi khi sự chuẩn bị kỳ công của
đội ngũ nhân chứng chỉ để
hiện diện trước HĐTT quốc tế trong
phiên thẩm vấn phúc tŕnh cho những câu
hỏi hàm tưởng là giản đơn nhưng hàm
chứa nhiều rủi ro pháp lư “đúng hay
sai” hoặc “có hay không” và nếu dài hơn là
“tại sao”. Đôi khi chỉ vậy nhưng cũng
có thể thay đổi cục diện của vụ
kiện ở quy mô quốc tế. Quy
tŕnh tố tụng nào cho nhân chứng theo UNCLOS Trong
Quy tŕnh Tố tụng (Rules of Procedure) cho vụ
Philippines khởi kiện Trung Quốc, tại Điều
23 và 24, vào ngày 27-8-2013 HĐTT cho phép các bên tiến hành
thẩm vấn (examination) và thẩm vấn chéo (cross
– examination) bất cứ nhân chứng hoặc chuyên
gia nào đă có bản khai chứng thực bằng văn
bản (written testimony). Nhân chứng này có thể do
một bên yêu cầu nhân chứng, chuyên gia của ḿnh
cho phiên thẩm vấn. Thủ tục mời nhân
chứng cần xác lập chậm nhất 30 ngày trước
phiên xử. Các nhân chứng chuyên gia chỉ được
tham gia thẩm vấn, đối chất sau khi có
đệ tŕnh bản chứng bằng văn bản.
Các bản khai đệ tŕnh của nhân chứng
trở thành bằng chứng chính yếu của
vụ kiện. Các câu hỏi thử thách trực
tiếp do hai bên hoặc HĐTT thực hiện. HĐTT
có thể tự chỉ định thêm nhân chứng
độc lập. Nhân
chứng sự kiện hoặc chuyên gia giàu chuyên môn,
nhiều thông tin nhưng ít kinh nghiệm tố
tụng là cơ hội tốt cho đối phương
khai thác. Các phẩm chất của nhân chứng
dễ bị thử thách trong phiên tranh tụng là ngoài
khả năng, kiến thức, chuyên môn nhận
thức đối với vấn đề ḿnh
chứng thực. Ngoài ra thành tố quan trọng
của nhân chứng là năng lực, sự khách quan
và độc lập của nhân chứng (qualification,
impartiality and independence). Hạn chế một trong các
yếu tố này, nhân chứng có thể bị HĐTT
băi bỏ tư cách, và bản chứng có thể
bất lợi cho chính bên đề cử. Quyền và
nghĩa vụ của nhân chứng cũng được
quy định tại Điều 6, Phụ lục VII
của Công ước 1982. Theo
đó, quốc gia tranh chấp phải cung cấp đủ
thông tin liên quan tài liệu thích hợp khi nhân
chứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ của
họ. Trong giới hạn quyền và nghĩa vụ
của ḿnh, các bên phải thực hiện được
quy định tại điều khoản tham chiếu
(TOR), các bên phải tạo điều kiện tối
đa cho nhân chứng có thể quan sát thực địa
tranh chấp thực tế có liên quan vụ kiện. Nhân
chứng: Nói thật, nói đúng chưa phải là
đủ Các
báo cáo kỹ thuật (technical reports) hoặc các
bản chứng sự kiện (Statements of facts), các
lời chứng trực diện (Testimony) đều
bị “soi” kỹ cả về h́nh thức lẫn
nội dung. Do vậy, các nhân chứng ít kỹ năng
hoặc không được chuẩn bị tối
thiểu về kỹ năng cơ bản tố
tụng quốc tế cho một giải quyết tranh
chấp về lănh thổ nhiều khi lợi bất
cập hại. Nguy hại hơn, nhân thân, quan
điểm thể hiện qua các phát biểu của
nhân chứng trong quá khứ ở diễn đàn
này hay diễn đàn khác về cùng một vấn
đề mà nếu có bất nhất, bất lợi
th́ cũng có thể là điểm yếu để
đối phương khai thác, tận diệt. Do
đặc thù về vai tṛ, tính chất nghề
nghiệp, luật sư có thể có nhiều cách
diễn đạt, lư giải khác nhau cho một
sự kiện lịch sử, pháp lư trong khuôn khổ
luật pháp, tố tụng cho phép, trong khi nhân
chứng th́ chỉ được phép nói sự
thật và toàn bộ sự thật. Tuy vậy, trong
một phiên tài phán quốc tế như vụ
kiện tranh chấp lănh hải chưa có tiền
lệ đối với Việt Nam, các nhân chứng,
chuyên gia chỉ nói sự thật hay nói đúng đôi
khi chưa đủ, mà cần một phương pháp
diễn đạt sự thật, có bản lĩnh và
kỹ năng chứng minh sự thật, có chuẩn
mực và uy lực đủ mạnh để
lời chứng của ḿnh được xác tín th́
mới có thể ḱ vọng đồng nhất chân lư
với công lư khi đối đấu với Trung
Quốc một nước lớn ưa chuộng bá
quyền và nhiều bao biện. Một
nhân chứng thành công là nhân chứng tự bảo
vệ được mức độ xác tín của
chính ḿnh xuyên suốt phiên tài phán. Ngược
lại khi uy tín của nhân chứng bị thử thách
th́ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
vị thế pháp lư của đương đơn.
Chuẩn bị nhân chứng sẽ là cả một quá
tŕnh Việt Nam cần thực hiện cho một
vụ kiện trong khuôn khổ công pháp quốc tế
về luật biển. LS.
Châu Huy Quang |