Lực Lượng Trung Cộng trong biến cố Hoàng Sa

Để thực hiện ư đồ cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trung Cộng (TC) đă xử dụng một lực lượng hổn hợp gồm Hải, Lục, Không Quân và các đơn vị bán chánh quy trong khoảng thời gian từ ngày 11-01

Thềm Sơn Hà

LỜI MỞ ĐẦU
Để thực hiện ư đồ cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trung Cộng (TC) đă xử dụng một lực lượng hổn hợp gồm Hải, Lục, Không Quân và các đơn vị bán chánh quy trong khoảng thời gian từ ngày 11-01 (ngày chúng tuyên bố chủ quyền trên các quần đảo trong vùng biển Đông, trong đó có Hoàng Sa), cho đến ngày 20-1-1974 (ngày chúng đổ quân chiếm trọn các đảo c̣n lại.
- 15-1-1974, Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt - HQ16 đến Hoàng Sa đă phát hiện sự hiện diện của chúng trên đảo Cam Tuyền cùng tàu đánh cá ngụy trang 402. Những ngày tiếp theo sau HQ/VNCH đă tăng cường thêm HQ4, HQ5 và HQ10. Để đối đầu, TC cũng đă tức khắc đưa vào các chiến hạm mang số 271, 274 , 389 và 396.
- 19-1-1974, trận hải chiến khốc liệt đă xảy ra. Sau đó các chiến hạm HQ/VNCH rút khỏi ṿng chiến quay về Đà Nẳng, bỏ lại HQ10 đang trôi dạt và những ǵ xảy đến cho HQ10 tiếp theo đó cũng chưa được tường tận.
- 20-1-1974, TC đă huy động một lực lượng hùng hậu gồm Hải, Lục, Không quân mở các cuộc hành quân tấn công đổ bộ lên các đảo Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc. Những tài liệu đă được viết về các cuộc tấn công chiếm đảo của TC hầu hết đều không chính xác và thiếu chi tiết.
Gần đây tài liệu mật của Bộ Lục Quân Hoa Kỳ/Pḥng T́nh Báo (BLQHK/PTB): ‘Trung Cộng đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa tháng 1 năm 1974’ phổ biến trên website hqvnch.net đă viết ra một cách rơ ràng và chi tiết về lực lượng TC tham dự trong ngày 20-1-1974.
Dựa theo tài liệu trên và rất nhiều tài liệu khác, bài viết này hy vọng sẽ tŕnh bày một cách đầy đủ và chính xác về lực lượng mà TC đă xử dụng trực tiếp trong biến cố Hoàng Sa nhất là thành phần chủ yếu là các chiến hạm của Hải Quân họ.
 

LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN 

Trong biến cố Hoàng Sa, TC đă xử dụng một lực lượng Hải quân thật hùng hậu gồm hơn 16 chiếc đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến Khu trục hạm Jiangnan.
Trong bài này, tàu Nan Yu được xếp chung vào lực lượng Hải quân TC, v́ tuy là lực lượng bán quân sự (dân quân hàng hải), nhưng chúng đă đóng vai tṛ hỗ trợ rất tích cực cho Hải quân TC. Ngoài ra ấn bản Jane’s Fighting Ships (gọi tắt là Jane’s) cũng đă xem chúng như là một thành phần của Hải Quân TC.
 

Tàu đánh cá vơ trang Nan Yu
Đây là loại tàu đánh cá được xử dụng vào cả 2 mục đích quân sự và thương mại tùy theo nhu cầu. Dựa trên tài liệu ‘TC đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa tháng 1 năm 1974’ của Bộ Lục Quân Hoa Kỳ/Pḥng T́nh Báo, ‘Hoàng Sa qua những nhân chứng’ của Trần Thế Đức và ‘Bên lề trận hải chiến Hoàng Sa' của Trần Kim Diệp th́ TC đă dùng tàu này để do thám, thám sát, theo dơi, ḍ xét thủy đạo, địa h́nh, chuyên chở quân lính với mục đích sau cùng là cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa..(xem h́nh cuối bài)
Jane’s 80-81 viết:
“Trong những năm đầu của thập niên 1950, một số tàu viễn duyên và những đoàn tàu đánh cá duyên hải đă được tổ chức thành lực lượng dân quân hàng hải (maritime militia). Các tàu đánh cá này đặt dưới sự kiểm soát của chi nhánh đảng bộ địa phương, mang theo đoàn viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và khi cần họ sẽ thi hành công tác yểm trợ hoặc như là phương tiện che đậy hoạt động bất hợp pháp hay bí mật cho lực lượng Hải quân. Công tác thường lệ của họ là do thám và theo dơi nhưng trong nhiều trường hợp họ đă được trang bị súng đại liên (trường hợp quần đảo Hoàng Sa năm 1974).”
Theo Blechman trong Guide To Far Eastern Navies th́ các triều đại vua chúa Trung Hoa ngày trước đă dùng các đoàn tàu đánh cá để do thám và theo dơi và TC đă tiếp tục áp dụng chiến thuật này như Blechman viết tiếp :
“Trong biến cố ở quần đảo HS năm 1974, dân quân TC đă đụng độ với toán biệt kích VNCH ở đảo Cam Tuyền….những h́nh ảnh đă được Saigon phổ biến sau biến cố đă cho thấy các cây súng đại liên cở lớn trên các tàu đánh cá TC .”
Theo Sidney Trevethan trong ‘Prognosis For China’ th́ :
“… rất nhiều tàu đánh cá TC trang bị vũ khí……và thực hiện công tác đôi vừa là tàu tuần tiểu kiêm nghề đánh cá vừa là tàu đánh cá…”
Sự việc tàu đánh cá TC có trang bị vũ khí đă được chứng minh rơ ràng qua h́nh ảnh chụp được từ HQ 4 lúc tàu đánh cá mang số 407 của TC cọ sát vào hông bên phải HQ4 trong ngày 18-1. Trần Thế Đức qua bài ‘Hoàng Sa qua những nhân chứng’ cũng đă viết :
“…tàu đánh cá lộ nguyên h́nh tàu chiến, ở đài chỉ huy có 2 cây đại liên, sườn tàu để hở các ô vuông chỉa súng ra…”.(xem h́nh cuối bài)
Ngoài các nhiệm vụ kể trên, theo Blechman, các tàu đánh cá này c̣n có nhiệm vụ đặt ḿn và TC đă ngụy trang chúng thành tàu phóng thủy lôi để đánh ch́m chiến hạm Trung Hoa Quốc Gia trong cuộc chiến Quốc Cộng.
Cũng nên nhớ là trong cuộc chiến Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đă xử dụng rất nhiều tàu đánh cá ngụy trang (khác với loại Nan Yu) để chuyên chở người và vũ khí xâm nhập miền Nam.

Trong biến cố Hoàng Sa, TC đă xử dụng tất cả 6 chiếc tàu đánh cá mang số 401, 402, 405, 406, 407 và 408, trong số này 2 chiếc 402 và 407 đă được các chiến hạm VNCH nhận dạng từ ngày 15-1-1974 và dựa theo tài liệu của BLQ/HK/PTB th́ 6 chiếc này đă có mặt trong những lần thao dượt xuất phát từ căn cứ Pei Hai (Bắc Hải) trong tháng 12-1973 hoặc có thể diển ra sớm hơn vào khoảng tháng 9-1973.(xem chi tiết trong trang website hqvnch.net)
Qua kinh nghiệm biến cố HS, ta có thể kết luận lực lượng tàu đánh cá ngụy trang của TC là một lực lượng rất nguy hiểm không những trong thời chiến mà cả trong thời b́nh. Cũng theo Blechman trong quyển sách của ông viết vào năm 1978 th́ TC đă tiếp tục đóng hàng trăm chiếc tàu đánh cá vơ bằng thép và hầu hết được trang bị súng đại liên hạng nặng. Như vậy đă chứng tỏ chủ ư của TC là sẽ c̣n tiếp tục xử dụng chúng trong vùng biển Đông nhất là trong khu vực quần đảo Trường Sa để thi hành các công tác tương tự như đă thực hiện ở Hoàng Sa, hơn nữa cũng để theo dơi hoạt động của các chiến hạm Đệ Thất Hạm Đội và các chiến hạm Đồng Minh.

Đây là điều mà các lực lượng bộ binh CS Việt Nam trú đóng trên các đảo và các chiến hạm tuần tiểu ngoài khơi trong khu vực quần đảo Trường Sa lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác.

Tuy nhiên vẫn c̣n mối nguy hiểm khác là trong tương lai TC có thể dùng tàu đánh cá ngụy trang để tạo nên các vụ xung đột với các ngư phủ hoặc các chiến hạm CS Việt Nam (những vụ thảm sát ngư phủ Việt Nam trong vùng biển Đông đă có liên hệ đến các tàu đánh cá này ????) và đây có thể xem như là ng̣i nổ để TC tạo nên biến động lớn hầu xua quân chiếm đoạt Trường Sa.

Điều này các chức quyền liên hệ trong chánh phủ CS Việt Nam hiện tại phải cần quan tâm đặc biệt để có những biện pháp thích ứng hầu đề pḥng và đối phó.

Đặc tính tàu đánh cá Nan Yu
Không t́m được tài liệu viết về đặc tính của loại tàu này, tuy nhiên qua h́nh ảnh và các tài liệu đă dẫn chứng có thể ước đoán là tàu này dài khoảng 30-40 mét, trọng tải khoảng 100 tấn, được trang bị 2 khẩu đại liên cỡ lớn hai bên hông tàu trên pḥng lái và một số vũ khí cá nhân chứa dưới khoang tàu.
Thủy thủ đoàn khoảng chừng 15 người nhưng tàu có khả năng chở đến 100 quân lính khi dùng vào mục tiêu quân sự.

Kronstadt ( Type 6604 )
Kronstadt (K) được TC đặt tên Type 6604 là loại chiến hạm săn tàu ngầm (Submarine chaser/hunter, anti-submarine ship), ngoài ra c̣n được xử dụng vào công tác tuần tiểu và hộ tống như loại Hộ Tống Hạm (PCE/MSF) của HQ/VNCH.

Theo Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982, Part II: the Warsaw pact and non-aligned nations (gọi tắt là Conway’s) khoảng 230 chiếc K đă được hảng tàu Nga Sô Zelenodolsk đóng trong năm 1946-1956. Số lượng K chuyển giao cho các nước Cộng Sản và Trung Lập trong đầu thập niên 1950 và 1960 là 48 chiếc, trong đó TC tiếp nhận 6 chiếc vào năm 1956-1957 (theo Jane’s, 6 chiếc này mang các số 579, 611, 612, 615, 618, 622 nhưng về sau đă được thay thế).
Trong bài ‘Type 037 (Hainan) Family Sub-hunter Patrol Craft’ tác giả Xinhui viết:
“…TC nhập cảng 6 chiếc đầu tiên từ Nga, đóng 2 chiếc từ bộ phận do Nga cung cấp, 12 chiếc c̣n lại do hải xưởng Shanghai và Quangzhou đóng trong năm 1957”. Nhưng theo Jane’s th́:
“… ngoài 6 chiếc tiếp nhận từ Nga, TC đóng thêm 14 chiếc ở hải xưởng Shanghai và Quangzhou trong đó 12 chiếc hoàn tất năm 1956, chiếc sau cùng đóng xong năm 1957.”
Hai mươi chiến hạm K của HQ/TC đă được phối trí như sau:
- Hạm Đội Bắc Hải (North Sea Fleet): căn cứ ở Qingdao và Lushun, các chiến hạm mang số từ 251 đến 258.
- Hạm Đội Đông Hải (East Sea Fleet): căn cứ trên đảo Choushan, các chiến hạm mang số 262, 263, 630 và từ 633 đến 635.
- Hạm Đội Nam Hải (South Sea Fleet): căn cứ ở Yulin và Hainan, các chiến hạm mang số từ 651 đến 656.
Dưạ trên sự phối trí này th́ 2 chiến hạm mang số 271, 274 (đă đối đầu trực tiếp với HQ 4 và HQ 5 trong trận hải chiến ngày 19-1-1974) không ở trong loại K mà trái lại chúng được xếp vào loại Hainan (xem tiếp phần viết về loại Hainan đoạn kế) và những chiếc đầu tiên của loại Hainan mang số 267 đến 285.
Để t́m câu trả lời trưóc những nhận xét tương phản, phần viết tiếp dưới đây sẽ tŕnh bày tất cả các tài liệu liên hệ đến 271, 274 và từ đó có thể xác định một cách chính xác loại và vũ khí trang bị của 2 chiếc 271 và 274.

1. Xác định loại chiến hạm.
- Tài liệu của VNCH: sau trận hải chiến Hoàng Sa (HS), Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị (TC/CTCT) đă ấn hành tài liệu ‘Thế giới lên án TC xâm lăng Hoàng Sa của VNCH’ và Khối Chiến Tranh Chánh Trị /Pḥng Tâm Lư Chiến (KCTCT/PTLC) thuộc Bộ Tư Lịnh Hải Quân (BTL/HQ) đă cho in ra đặc san Lướt Sóng số đặc biệt ‘Chiến thắng Hoàng Sa’. Trong hai tài liệu chính thức này của VNCH đều cho là TC đă xử dụng 2 chiến hạm loại Kronstadt mang số 271 và 274. Việc xác định loại của 2 chiến hạm này, nếu dựa vào h́nh ảnh 271, 274 đă chụp được từ HQ4 trước khi xảy ra trận hải chiến và theo ấn bản Jane’s lúc bấy giờ để tra cứu th́ đúng là loại Kronstadt.
Ngoài ra hầu hết các tài liệu bằng tiếng Việt sau 1975 cũng có kết luận tương tự.
- Tài liệu của TC : bài viết của tác giả Xinhui cho là trong trận đụng độ với HQ/VNCH vào năm 1974, TC đă xử dụng 2 chiến hạm loại Hainan 281, 282 và 2 chiến hạm loại K 271, 274.
- Tài liệu trên mạng lưới internet ‘Woodsbear blogchina.com’ viết về loại chiến hạm Type 6604 (Kronstadt) do TC đóng:
“…ngày 12-7-1964, hai chiến hạm K mang số 272, 274 đặt dưới sự thống thuộc của các chiến hạm loại Hainan đă đánh ch́m 2 tàu do thám và bắt sống 59 gián điệp Đài Loan. Ngày 19-1-1974 hai chiến hạm săn tàu ngầm loại K số 271, 274 thuộc Hạm Đội Nam Hải đă tham dự trận hải chiến HS.”
- Tài liệu ngoại quốc : trong Wikipedia bài ‘Kronstadt class submarine chaser’ viết là 2 chiếc thuộc loại K mang số 271, 274 đă tham dự trận hải chiến HS với kết quả là chiếc 274 bị thiệt hại nặng nề.
Qua hầu hết các tài liệu đă trích dẫn từ phía TC cũng như dựa trên cấu trúc và h́nh dáng, đủ để kết luận là hai chiến hạm mang số 271, 274 thuộc loại Kronstadt.

2. Xác định khẩu đại bác phía sân trước.
Các tài liệu viết về cỡ của khẩu đại bác trang bị phía trước chiến hạm K. không đồng nhất. Một số tài liệu cho là đại bác 100 ly (3.9 in.) và một số khác th́ cho là đại bác 85 ly (3.5 in.)
- Đại bác 100 ly (3.9 in): trong khoảng năm 1974, nếu dùng ấn bản Jane’s 73-74 hoặc các ấn bản trở về trước để tra cúu về đặc tính của chiến hạm loại K th́ sẽ biết được là loại K có trang bị một khẩu đại bác 100 ly ở phía sân trước. Có lẽ v́ căn cứ vào Jane’s nên hầu hết các sách và bài viết bằng tiếng Việt liên quan đến trận hải chiến HS trước và sau 1975 đều cho là hai chiếc 271, 274 trang bị khẩu 100 ly (như trong đặc san Lướt Sóng số đặc biệt ‘Chiến thắng hoàng Sa’, ‘Tài liệu hải chiến Hoàng Sa’, ‘Hạm Đội HQ/QLVNCH- Hải chiến Hoàng Sa’, ‘Hải Sử Tuyển Tập’…)
- Đại bác 85 ly (3.5 in): nếu tiếp tục tra cứu ấn bản Jane’s 74-75 và các ấn bản trở về sau th́ sẽ thấy một điểm khác biệt hẵn là khẩu đại bác của K không c̣n là 100 ly mà thay vào đó là khẩu đại bác cở 85 ly. Lư do đă đưa đến sự ghi nhận sai lầm này có lẽ cũng không có ǵ khó hiểu lắm v́ trong thời điểm này, các nước Cộng Sản c̣n đang bị kềm kẹp dưới bức màn sắt, bí mật quốc pḥng được bảo vệ một cách tuyệt đối. Do đó việc thu thập tin tức và h́nh ảnh chiến hạm là một điều rất khó khăn, hơn nữa dụng cụ trang bị trên các vệ tinh và phi cơ do thám cũng chưa được tinh vi lắm v́ vậy không tránh khỏi thiếu sót và không chính xác.
Ngoài Jane’s từ ấn bản 74-75 trở về sau, các tài liệu Tây Phương trích dẫn dưới đây cũng cho khẩu đại bác này là loại 85 ly:
- Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982 Part II
- Guide To Far Eastern Navies
- Naval Weapons of the World
- Kronstadt Class /Project 122-B Patrol Craft
Về phía TC, các tài liệu đă dẫn chứng ở trên và một số bài viết về trận hải chiến HS đều ghi nhận loại K trang bị khẩu 85 ly.
Về phía Hạm Trưởng của các chiến hạm VNCH đă tham dự trực tiếp trận hải chiến HS, Hạm Trưởng HQ16 là HQ Trung Tá Lê Văn Thự đă có nhận xét cũng gần chính xác :
“…nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu TC số hiệu 271 dài chừng 70m, có súng tương đương với súng 76,2 ly, 40 ly ,20 ly và đại liên 12,7 ly của tàu tôi”.
Các tài liệu viện dẫn trên đă chứng tỏ là khẩu đại bác trang bị phía sân trước loại K nói chung và 2 chiếc 271, 274 nói riêng là loại đại bác cở 85 ly (3.5 in).
Lư do tại sao có một số chiến hạm loại K được xáp nhập vào loại Hainan vẫn chưa t́m được tài liệu giải thích rơ ràng. Tuy nhiên qua bài viết của Xinhui th́ các chiến hạm đầu tiên được xếp vào loại Hainan mang số 267-285 và chiếc Hainan đầu tiên mang số 278 bắt đầu đóng vào tháng 8-1962 và được hạ thủy vào tháng 12-1963.
Cũng theo Xinhui th́ sau khi hoàn tất chiếc K cuối cùng vào năm1957, khả năng đóng tàu tại các hải xưởng TC gia tăng, t́nh trạng căng thẳng tại eo biển Đài Loan đưa đến nhu cầu cần thêm nhiều chiến hạm. Ngoài ra cấp chỉ huy HQ/TC không hài ḷng với khả năng hoạt động của loại K từ đó họ đă t́m cách thay thế K bằng một loại tàu mới.
Thoạt đầu, theo lời đề nghị của các cố vấn Nga Sô, TC dự tính cải tiến loại K đang có bằng một loại K mới với chiều dài ngắn hơn và mực nước thấp hơn, nhưng sau khi đóng xong một số họ vẫn không vừa ư v́ chiến hạm không đạt dến vận tốc mong muốn là 28 knots, v́ vậy họ đă thay thế bằng một loại hoàn toàn mới về h́nh dạng và vũ khí trang bị. Loại chiến hạm mới này được đặt tên là Type 037 hay Hainan và các chiến hạm mang số 267-277 tuy được xếp vào loại Hainan nhưng thực sự chúng là loại K và đă được đóng trong khoảng thời gian sau năm 1957 và trước năm 1963.
Từ các dẫn chứng trên, có thể khẳng định là trong trận hải chiến Hoàng Sa Trung Cộng đă xử dụng 2 chiến hạm loại Kronstadt mang số 271, 274 và chúng được trang bị một khẩu đại bác 85 ly (3.5 in) ở phía sân trước, tuy nhiên chúng lại được xếp vào chung với loại Hainan. Đây là trường hợp tương tự như trong loại Hộ Tống Hạm của HQ/VNCH có hai loại khác nhau là Trục Lôi Hạm (MSF- Minesweeper Fleet gồm có HQ 8, 9, 10 ,11 ,13) và Hộ Tống Hạm (PCE- Patrol Craft Escort gồm có HQ 7, 12, 14 ) nhưng có điểm khác biệt là 2 loại PCE và MSF có h́nh dạng và đặc tính gần giống nhau c̣n giữa Kronstadt và Hainan th́ hoàn toàn khác biệt. Do đó khi tham khảo tài liệu nên thận trọng. Nếu căn cứ vào con số 271, 274 và dùng các ấn bản Jane’s, Conway’s, Guide To Far Eastern Navies để tra cứu th́ sẽ dễ nhầm lẫn khi đi vào phần viết về loại Hainan và từ đó sẽ lấy ra những dữ kiện sai lầm về h́nh dạng và đặc tính.

Hainan ( Type 037 submarine chaser)
Đây là loại chiến hạm săn tàu ngầm giống như loại Kronstadt (K), ngoài ra chúng c̣n được dùng vào công tác tuần tiểu và hộ tống. Loại này hoàn toàn do Trung Cộng(TC) đóng trong đầu thập niên 1960 và đặt tên là Type 037. Chiếc đầu tiên mang số 278 được hạ thủy vào tháng 12-1973. Trong Jane’s 70-71, lần đầu tiên viết về loại này với các ghi chú rất thiếu sót và không chính xác, những ấn bản về sau đă được cập nhật hóa đầy đủ hơn có viết là loại Hainan thoát thai từ loại tàu tuần SO1 của Nga nhưng lớn hơn. Nhận xét này đă bị các nhà vẽ kiểu TC bác bỏ với lư do là TC không có một chiếc nào loại SO1 để bắt chước (tác giả Xinhui trong bài: 'Type 037 (Hainan) Family sub-hunter patrol craft').

Cũng theo Xinhui th́ loại Hainan ra đời v́ các lư do sau đây:
- Hải quân TC cần nhiều tàu cở nhỏ vừa có khả năng tuần tiểu vừa chống tàu ngầm để đối phó với t́nh h́nh căng thẳng tại eo biển Đài Loan vào thập niên 1960.
- không hài ḷng với khả năng hoạt động của loại K về tốc độ, hỏa lực, tầm hoạt động…..
- gia tăng khả năng đóng tàu tại các hải xưởng.
Dưạ trên Jane’s 89-90 các chiến hạm loại Hainan mang số: 267-285, 290, 302, 305, 609, 610, 641, 642, 661- 670, 677, 678, 680, 686, 687,690 + 18 (trong Conway’s và Nasog.net cũng có các số gần giống nhau).
Theo Global Security khoảng 88 chiếc vẫn c̣n hoạt động tính đến năm 2005. Chiến hạm loại Hainan đă chứng tỏ rất hữu hiệu trong các nhiệm vụ được giao phó và rất thành công bán ra ngoại quốc.(xem h́nh cuối bài)
Xác định chiến hạm đánh ch́m HQ10 (nguyên là MSF 300 của Hải Quân Hoa Kỳ)

Tài liệu do TC/CTCT/Quân LựcVNCH phổ biến năm 1974 viết : “TC đă xử dụng 4 phi tiển hạm Komar….và HQ10 bị trúng hỏa tiển Styx của TC”.
Trong ‘Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War’ của Kiem Do and Julie Kane có viết là trong ngày 17-1-1974 khu trục hạm HQ4 phát hiện hai phi tốc đỉnh loại Komar và sáng ngày 19-1-1974, HQ10 đă bị trúng hỏa tiển hải-hải của TC.

Trong “Navsource Naval History” phần nói về tiểu sử của USS Serene (tên của MSF 300 trước khi bàn giao cho HQ/VNCH) đă viết: “ngày 19-1-1974, Nhật Tảo (HQ10) đă bị ch́m v́ trúng hỏa tiển hải-hải”. Hầu hết báo chí ngoại quốc dựa trên lời tuyên bố của phát ngôn viên quân sự Trung Tá Lê Trung Hiền cũng cho là HQ10 bị ch́m v́ trúng hỏa tiển Styx do chiến đỉnh Komar phóng ra.

Tuy nhiên một số bài viết do chính các Sĩ Quan và nhân viên HQ10 c̣n sống sót sau lần đào thoát đă chứng minh ngược lại như Nguyễn Đông Mai trong bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ đă xác định rơ hơn: “Sau mấy ṿng chạy quanh bắn xối xả vào HQ10, hai chiếc tàu địch 281 và 282 bỏ chạy…” và 3 bài viết của Vương Văn Hà, Tất Ngưu và Hà Đăng Ngân cũng đă cho thấy là 2 chiến hạm TC ( không nói rơ số) đă xử dụng hải pháo tác xạ vào HQ10. ‘Tài liệu hải chiến Hoàng Sa’ của Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm cũng có viết về 2 chiếc 281, 282 nhưng cho chúng là loại K: “…ngoài ra c̣n có 2 Kronstadt mang số 281 và 282 tới sau trận hải chiến…”

Trong Wikipedia bài ‘Type 037 class submarine chaser’ viết : “…trong các cuộc đụng độ giữa TC-VNCH ngày 19-1-1974, hai chiếc của loại này số 281 và 282 (2 trong tổng số 8 chiếc TC đang có) đă tham gia trong nửa phần sau của cuộc chiến, loại chiến hạm nhanh nhất được xử dụng trong trận chiến. Khởi đầu 2 chiếc này nằm chờ sẵn tại đảo Phú Lâm (Woody island) nhưng v́ trở ngại truyền tin nên chúng đă không được thông báo kịp thời…”
Global Security viết về Hainan cho là TC đă xử dụng 2 chiếc loại này trong tháng 1-1974.

Về phía TC, ngoài Xinhui đă xác nhận :
“…trong trận hải chiến năm 1974 với Hải quân VNCH, hai chiếc loại Hainan (281 và 282) với 2 chiếc loại Kronstadt (271 và 274)…” c̣n có bài ‘On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution’ đăng trong MilitaryChina.com đă viết rơ hơn :
“lúc 11 giờ 49 phút, 2 chiến đỉnh 281, 282 loại 037 (ta chỉ có 8 chiếc loại mới này)… đă tăng tốc độ tối đa để kịp đến vùng giao chiến...”
Từ các dẫn chứng trên có thể xác định là TC đă điều động 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281 và 282 đến vùng ḷng chảo nhóm Nguyệt Thiềm sau khi HQ4 và HQ5 đă triệt thoái về hướng Đông Nam và HQ16 đă ra khỏi ḷng chảo trực chỉ về Đà Nẳng. Tại trận chiến các chiến hạm TC có lẽ đang tự cứu hoặc đến tiếp cứu lẫn nhau, bỏ mặc HQ10 hoàn toàn bất khiển dụng đang trôi dạt, trên tàu chỉ c̣n lại hai chiến sĩ anh hùng là Hạ Sĩ 1/VC Lê Văn Tây và Hạ Sĩ 1/VC Ngô Sáu đang gh́m chặt súng liều chết tử thủ chờ tàu địch đến gần, trong lúc đó 28 chiến sĩ HQ10 đă đào thoát trên các bè loang lỗ đầy vết đạn cũng cách HQ10 không xa lắm. Những ǵ xảy ra sau đó cho HQ10 đă được bài của TC diển tả tiếp :
“…12 giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả vào HQ10 và thủy thủ đoàn tàu này chống trả mănh liệt. Đến 14 giờ 52 phút, chiếc HQ10 ch́m tại địa điểm phía Nam băi Nam Dương ( băi đá Hải Sâm -Antelope reef) cách 2,5 km”.

Phụ chú:
Theo Hải Sử Tuyển Tập (HSTT): “Hồi 11:00H, HQ 5 phát hiện 3 tàu lạ và 2 phi cơ cách 5 hải lư về hướng Đông Bắc. Tàu lạ có h́nh dáng giống như Phi Tiển Đỉnh Komar của Hải Quân Trung Cộng và phi cơ giống như phản lực cơ Mig.”
HQ/Đại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng Hành Quân lực lượng HQ/VNCH trong biến cố Hoàng Sa trong bài ‘Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa’ cũng viết :
“Bất thần về phía Đông, vào khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lư, xuất hiện một chiến hạm của TC loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiển (loại hải-hải)”. (Có lẽ v́ hai chiến hạm Hainan 281, 282 đă tăng vận tốc tối đa lên đến 30 hải lư nên từ xa có thể nhầm lẫn với loại Komar ???).

Nếu đúng như HSTT và Đại Tá Ngạc viết, th́ các chiến đỉnh Komar này đă đến vị trí giao chiến có lẽ trước khi HQ10 chuẩn bị đào thoát và nếu chúng xử dụng hỏa tiển Styx th́ chắc là HQ10 sẽ bị đánh ch́m trong phút chốc.
Ngoài ra tài liệu của Trần Đại Sỹ cũng xác nhận là lực lượng tham chiến của HQ/TQ có 4 chiếc Phi Tiển Đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145 và theo báo New York Times ngày 21-1-1974 dựa trên lời tuyên bố của Trung Tá Hiền trong ngày 20-1-1974 th́: “TC đă đưa vào một hạm đội gồm 11 chiếc về sau tăng lên 14 chiếc trong đó có 4 phi tiển đỉnh 70 tấn loại Komar được trang bị hỏa tiển hải-hải”

Tuy nhiên, qua các bài viết do chính các Sĩ Quan và nhân viên HQ 10 đào thoát kể lại, phối hợp với các tài liệu dẫn chứng đă chứng minh là hai chiếc Hainan 281, 282 đă được điều động đến vùng và chính các khẩu đại bác trên 2 chiếc này đă khai hỏa đánh ch́m HQ10.
Do đó để xác định sự hiện diện của phi tiển đỉnh Komar trong trận hải chiến HS, ta có thể dựa vào bài viết của các nhân chứng sống trên HQ10 trong trận hải chiến ngày 19-1-1974, sự quan sát trực tiếp của G.Kosk trong ngày 20-1-1974 khi TC mở cuộc hành quân đổ bộ tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và các bài viết về phía TC.

V́ cho đến nay vẫn chưa t́m được tài liệu nào khác có thể xác định sự tham dự trực tiếp của các chiến đỉnh Komar nên phần viết về Hải quân Trung Cộng không đề cập đến loại này.

Điểm cần lưu ư thêm là bài viết ‘Hành quân Trần Hưng Đạo 47 trong HSTT’ của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê không nói đến việc HQ10 bị ch́m v́ hỏa tiển Styx và ông cũng đặt câu hỏi về sự tham dự của 3 Phi Tiển Đỉnh Trung Cộng, ngoài ra Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm trong ‘Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’ cũng đặt nghi vấn về việc TC xử dụng hỏa tiển Styx đánh ch́m HQ10 và hai ông đă xếp ‘4 Khinh Tốc Đỉnh Hỏa Tiển loại Komar’ vào thành phần ‘Lực lượng ứng chiến trừ bị’ của HQ/TC.

T43 ( Type 010 ) Minesweeper
Đây là loại Trục Lôi Hạm (Minesweeper) tương đương với loại Hộ Tống Hạm (MSF-Minesweeper Fleet) của HQ/VNCH trong đó có HQ10 nhưng dài hơn 2 m.
T43 do Nga đóng từ 1948-1957 và đă chuyển giao hai chiếc cho TC vào năm 1954-1955.
Dựa trên kiểu mẫu của Nga Sô, TC đă đóng thêm 18 chiếc có h́nh dạng tương tự như T43 của Nga nhưng lớn hơn chút ít, tất cả hoàn tất năm 1956. Loại này được đặt tên là Type 010 Minesweeper.
So sánh với loại Kronstadt, T43 thực sự không nhỏ hơn như Đại Tá Ngạc đă viết : “…2 chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396…” mà trái lại T43 dài hơn Kronstadt 8m, rộng hơn 2.3m, trọng tải gần gấp đôi và thủy thủ đoàn đông hơn khoảng 30 người.
Về trang bị vũ khí:
- Đại bác 85 ly T 43 không có K. có 1 khẩu
- Đại bác 37 ly T 43 có 4 khẩu K. có 2 khẩu
- Đại bác 25 ly T 43 có 4 khẩu K. không có
- Đại liên 14.5 ly T 43 có 4 khẩu K. có 6 khẩu
Do đó trong trận hải chiến Hoàng Sa, tuy T 43 không có loại đại bác tương đương với đại bác 127 ly trên HQ 16 và 76,2 trên HQ 10 nhưng với chiến thuật bám sát các chiến hạm ta trong khoảng cách gần các loại vũ khí này đă chứng tỏ rất lợi hại.
Ghi chú:
Theo “Naval Weapons Of The World” th́ đại bác 37 ly trên các chiến hạm Trung Cộng được xem là tương đương với đại bác Bofors 40 ly trên các chiến hạm ta.

Jiangnan (Type 065)
Trong Conway’s viết về loại Jiangnan dưới tựa đề Kiangnan (Jiangnan) với chú thích Kiangnan cũng được viết (hay được đánh vần) là Jiangnan và một chiếc thuộc loại này đă giao chiến với chiến hạm VNCH trong năm 1974.
Trong Jane’s ấn bản 78-79 viết là loại Kiangnan có 5 chiếc mang số 209, 214, 231, 232, 233 và một chiếc của loại này đă được báo cáo là đă giao chiến với lực lượng VNCH trong ngày 19-20 tháng 1 năm 1974. (ấn bản Guide To Far Eastern Navies năm 1978 cũng dùng tên Kiangnan nhưng có các con số là 230, 231, 232, 233, 234).

Từ ấn bản Jane’s 82-83 trở về sau loại này đă có tên là Jiangnan với các số mới 501, 502, 503, 504 và 529. Cũng cần ghi nhận là nếu dùng tên Kiangnan để truy cập trên Internet th́ sẽ không thấy kết quả, nhưng nếu dùng tên Jiangnan sẽ ghi nhận một số Website viết về loại này như Wikipedia, Global Secutity, Federation Of American Scientists…..
Loại Jiangnan là loại khu trục hạm tương đương với loại Khu trục hạm (DER-HQ4) và Tuần dương hạm (WHEC-HQ5, HQ16) của HQ/VNCH đă tham dự trận hải chiến HS, nhưng vũ khí được trang bị hùng hậu hơn.(xem h́nh trang cuối)

TC đóng loại Jiangnan vào năm 1965 và đăt tên là Type 065 dựa theo loại Riga của Nga Sô nhưng vị trí của các khẩu đại bác 100 ly đă được thay đổi với 1 khẩu ở phía sân trước và 2 khẩu ở phía sân sau (Riga có 2 khẩu trưóc và 1 khẩu sau).

Trong tài liệu ‘TC đổ bộ tấn công quần đảo HS tháng 1 năm 1974’của BLQHK/PTB th́ vào sáng ngày 20-1-1974 , từ vị trí trên đảo HS, G. Kosh đă quan sát : “…2 chiến hạm tuần duyên thuộc loại Shanghai của HQ/TC… ngay tiếp theo đó 1 chiến hạm lớn hơn không xác định được loại nào …”. Tuy không xác định được loại nào, nhưng qua tiếng nổ của các quả đạn mà chiến hạm này đă tác xạ lên đảo Cam Tuyền, G. Kosh đă có 1 kết luận gần chính xác là chiến hạm này đă xử dụng loại đại bác 105 ly.
Qua trích dẫn từ Jane’s và Conway’s cùng sự quan sát trực tiếp của G. Kosh ta có thể kết luận là TC đă xử dụng một chiến hạm loại Jiangnan (chưa rơ số) để yểm trợ cho cuộc hành quân đổ bộ cưỡng chiếm quần đảo HS trong ngày 20-1-1974.

Ngoài ra theo Jane’s, khu trục hạm Jiangnan cũng đă có mặt trong ngày 19, báo New York Times ngày 20-1-1974 đăng lời tuyên bố của Phát ngôn viên quân sự QL/VNCH Trung Tá Lê Trung Hiền là TC đă đưa 750 lính và 11 chiến hạm gồm có 1 khu trục hạm trang bị hỏa tiển và 1 chiến hạm chuyển vận vào khu vực đảo Quang Ḥa (Duncan) trong quần đảo Hoàng Sa. Như vậy khu trục hạm Jiangnan có thể đă hiện diện trong khu vực nhóm Nguyệt Thiềm sau khi xảy ra trận hải chiến trong ngày 19-1-1974, v́ vậy chiếc này đă không bị các chiến hạm ta phát hiện.

Cũng cần nói thêm là trong các tài liệu viết về hải chiến HS bằng Việt ngữ trước và sau 1975, chỉ có quyển “Hạm Đội HQ/VNCH - Hải Chiến HS” của tác giả Bảo Biển ấn hành năm 1990 là có đề cập đến 2 loại Jiangnan và Kiangnan đă tham dự hải chiến HS (như đă viết ở phần trên chúng chỉ là một loại mà thôi), nhưng có lẽ v́ không có tài liệu nào khác để kiểm chứng nên các tài liệu xuất bản về sau đă không viện dẫn từ tài liệu của ông.

Shanghai II ( Type 62 )
Đây là loại Tuần Duyên Hạm tương tự như loại PGM (Patrol Gunboat Motor) của HQ/VNCH nhưng lớn hơn, trang bị vũ khí hùng hậu hơn và vận tốc cao hơn.(xem h́nh cuối trang)
Loại này đă được cải tiến qua nhiều giai đoạn, những chiến hạm sản xuất đầu tiên được đặt tên là Shanghai I, kế tiếp là Shanghai II, Shanghai III và Shanghai IV (TC đặt tên cho loại này là Type 62). TC đă đóng trên 400 chiếc, trong đó có 8 chiếc chuyển giao cho Cộng Sản Bắc Việt vào tháng 5-1966.

Theo Xinhui trong ‘PLAN Type 62 Coastal Defense Boat’ TC bắt đầu đóng Shanghai I vào năm 1960 ( Conway’s, Jane’s, Guide To Far Eastern Navies cho là năm 1959) sau khi đóng xong 3 chiếc đầu tiên, ( Conway’s ghi chú là 25 chiếc) TC đă thay thế khẩu đại bác 57 ly bằng khẩu đại bác 37 ly đôi, tăng vận tốc lên 30 knts, giảm trọng tải 10 tấn và đặt tên cho loại chiến hạm mới này là Type 62- 0111A hay c̣n được gọi là Shanghai II.

Căn cứ vào tài liệu của Bộ Lục Quân HK/P.T́nh Báo, qua sự ghi nhận của G.Kosh, vào sáng ngày 20-1-1974 TC đă xử dụng 2 chiến hạm loại Shanghai tác xạ đại bác 37 ly lên hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa để yểm trợ cho cuộc hành quân đổ bộ của bộ binh TC tiến chiếm hai đảo này.
Điều nhận xét của G.Kosh cũng đă được xác nhận qua bài viết của Trần Thế Đức: “…2 tàu lớn của TC và 2 tàu đánh cá tiến lại đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền).
Từ hai tài liệu nêu trên đă xác nhận có 2 chiến hạm Shanghai II tham dự biến cố Hoàng Sa trong ngày 20-1-1974.

Chiến hạm chuyển vận
Trong Hải sử tuyển tập ghi nhận vào khoảng 6 giờ 30 sáng ngày 19-1 có 1 tàu chuyên chở TC ở phía Đông Nam đảo Duy Mộng, khoảng 7 giờ, hai tàu đánh cá 402 và 407 mỗi chiếc lấy khoảng 1 đại đội trên tàu này, sau đó đổ bộ chúng lên bờ phía Đông Bắc đảo Quang Ḥa, điều này phù hợp với bài tường thuật trong báo NY times ngày 20-1-1974.

Trong ngày 20-1, TC đă xử dụng từ 4 đến 6 chiếc tàu đánh cá Nan Yu để chở khoảng 5 đại đội quân đổ bộ tấn công lên Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc, lần này 2 chiếc 402, 407 cũng đă có mặt. Lực lượng đổ bộ này chắc chắn cũng đă lấy từ chiến hạm chuyên chở đă có mặt trong vùng khoảng rạng sáng ngày 19-1.

HQ16 đến vùng hoạt động ngày15-1, ngay sau đó đă phát hiện 2 tàu đánh cá ngụy trang 402, 407 và 2 chiếc này đă hiện diện liên tục cho đến ngày 20 tháng 1. Qua nhận xét của G. Kosh và từ bài viết của các tác giả đă trực tiếp quan sát th́ chúng có vẽ như là những tàu đánh cá thông thường với thủy thủ đoàn khoảng 15 người.

Như vậy chứng tỏ là các tàu đánh cá Nan Yu đă được phái đến HS với thủy thủ đoàn cơ hữu, c̣n số quân lính được xử dụng để đổ bộ lên đảo đă túc trực sẵn trên tàu chuyển vận.

Để kết luận, TC đă xử dụng ít nhất là một chiến hạm để chuyên chở binh sĩ và quân cụ từ đất liền ra Hoàng Sa và từ vị trí an toàn ở phía ngoài ḷng chảo nhóm Nguyệt Thiềm, lực lượng bộ binh trên tàu được chuyển xuống các tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu để đưa đến mục tiêu đă được chỉ định.
Dựa trên Jane’s 74-75, lực lượng chuyển vận và đổ bộ của HQ/TC có 15 Dương Vận Hạm và 13 Hải Vận Hạm (LST và LSM do Hoa Kỳ đóng), ngoài ra c̣n 11 chiếc LST đă được chuyển sang hàng hải thương thuyền.
Năm 1971, TC bắt đầu đóng loại Yu Ling giống như LSM nhưng dài hơn khoảng 50 ft, căn cứ theo Jane’s 74-75, TC có 3 hay 4 chiếc loại này.
Đến nay vẫn chưa xác định loại và số của chiến hạm chuyển vận đă được dùng trong biến cố Hoàng Sa, tuy nhiên với lực lượng bộ binh vào khoảng một ngàn người có thể TC đă xử dụng 1 chiếc LST hoặc để che dấu sự theo dơi của không tuần Hoa Kỳ có thể đây là chiếc LST đă được biến đổi thành thương thuyền.

LỰC LƯỢNG KHÔNG QUÂN

Từ các tài liệu và văn thư chánh thức của chánh phủ VNCH, các bài tường thuật của báo chí Hoa Kỳ, một số tài liệu ngoại quốc và tài liệu TC, lực lượng Không quân TC đă được ghi nhận có những hoạt động sau đây trong biến cố Hoàng Sa:
- Ngày 17-1-1974: lúc 19 giờ 40 một phi cơ lạ bay ngang qua chiến hạm HQ4 của HQ/VNCH rồi bay về hướng Đông Nam mất dạng (TC/CTCT).
- Ngày 19-1-1974: phi cơ lạ cũng đă được ghi nhận xuất hiện trong vùng vào lúc hừng đông và bay mất dạng về hướng Bắc, HQ4 cũng quan sát thấy 3 phi cơ lạ bay từ Bắc xuống Nam từ 06:00H đến 06:30H (HSTT).
Các dẫn chứng về sự xuất hiện của phi cơ lạ vào sáng ngày 19-1-1974 đă được ghi chép qua các bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ của Nguyễn Đông Mai, ‘Nhật kư trận Hoàng Sa’ của Tất Ngưu và ‘Hoàng Sa và HQ10’ của Hà Đăng Ngân.
Ngoài ra vào lúc 11:00 giờ, HQ5 phát hiện 2 phi cơ giống như phản lực cơ Mig cách 5 hải lư về hướng Đông Bắc.
Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt ‘Chiến Thắng Hoàng Sa’ trang 15:
“... đến 11 giờ 27 phút, qua màn ảnh radar không thám, Trung Tâm Chiến Báo phát hiện và báo cáo một phi đội phản lực cơ địch đang trên đường tiến về đảo Hoàng Sa…” (trùng hợp với sự phát hiện của HQ5, nhưng khác thời gian).
Về phía TC bài viết ‘On January 19, 1974, Xisha defended the war’ cũng đă đề cập đến việc TC gởi 2 phi cơ đến Hoàng Sa thi hành nhiệm vụ thám sát trong ngày 19-1-1974.
Ngày 20-1-1974: “… lúc 10 giờ 20 phút 4 phi cơ Mig 21 và Mig 23 của TC đă oanh tạc các hải đảo Hoàng Sa (Pattle), Cam Tuyền (Robert) và Vĩnh Lạc (Money)”… đoạn viết này của TC/CTCT trùng hợp với bài đăng trong New York Times ngày 21-1-1974 tường thuật lời tuyên bố của Trung Tá Lê Trung Hiền Phát ngôn viên quân sự QL/VNCH.
Ngoài ra đặc san Lướt Sóng ‘Số đặc biệt chiến thắng Hoàng Sa’ tác giả Phạm Kim trong bài ‘Người về từ ngục tù Trung Cộng’ viết theo lời kể của một nhân viên HQ4 đă đổ bộ lên đảo Cam Tuyền : “…khoảng 9 giờ 45 phút, anh Thắng và các bạn đă thấy những hồi pháo kích như mưa và cả bom của phi cơ dội xuống quần đảo nhỏ ở gần đó.”
Điểm cần lưu ư là trong bức thơ do Tổng Thống Nguyển Văn Thiệu gởi Tổng Thống Nixon đề ngày 22-1-1974 (chuyển qua trung gian Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam) và trong bản văn của Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc đọc trước các phái đoàn Ngoại Giao trong ngày 21-1-1974, cả hai đều đề cập đến việc Trung Cộng xử dụng phi cơ oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Hoàng Sa trong ngày 20-1-1974. Cho đến nay thực sự vẫn chưa rơ từ nguồn tin nào mà các giới chức thẩm quyền cao cấp nhất của VNCH lại xác định là phi cơ TC đă oanh tạc Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Trong Guide To Far Eastern Navies dựa theo lời tường thuật từ Bắc Kinh: “… phản lực cơ Mig 23 từ đảo Hải Nam cách xa khoảng 130 miles đă cung cấp không yểm ...”.
Tài liệu TC ‘On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution’ đă nói đến việc TC gởi phản lực cơ và oanh tạc cơ để che chở cho lực lượng đổ bộ trong ngày 20-1-1974. Điều cần ghi nhận là 2 tài liệu trên không nói đến việc phi cơ TC đă trực tiếp tham dự oanh tạc hoặc tác xạ vào các vị trí của quân trú pḥng VNCH trên 2 đảo Hoàng Sa và Cam Tuyền, nhận xét này rất phù hợp với G. Kosh trong tài liệu của BLQ/HK/PTB:
“…không có những cuộc oanh kích nào để yểm trợ cho quân TC hay VNCH. V́ khoảng cách giữa 5 đảo của nhóm Nguyệt Thiềm tương đối ngắn, Kosh có thể phát hiện được sự yểm trợ của loại phi cơ có khả năng tác chiến cao ở bất cứ nơi nào trong nhóm Nguyệt Thiềm…”
Bài viết của Bí Thư Thắng ‘Tôi đă đến đó’, không thấy đề cập đến sự xuất hiện của phi cơ: “chúng tôi toàn thể 14 thủy thủ thuộc Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng đảo Cam Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng với hỏa lực khủng khiếp từ hạm đội địch cũng như lực lượng hùng hậu của địch đổ bộ...”
Trần Thế Đức trong Hoàng Sa qua những nhân chứng diễn tả rơ hơn: “...tàu TC bắn vào Hoàng Sa (Pattle).
Anh em ra rừng và các đống phân nằm bố trí. Có cả tiếng máy bay phản lực rít lên nữa…)
Với kinh nghiệm và khả năng ghi nhận của G. Kosh, thêm vào dẫn chứng từ hai bài viết nêu trên, ta có thể kết luận là trong biến cố Hoàng Sa, Trung Cộng không xử dụng phi cơ trực tiếp thi hành công tác oanh tạc và tác xạ để yểm trợ cho lực lượng Hải Quân và Bộ Binh, tuy nhiên họ đă chuẩn bị sẵn để xử dụng chúng khi cần cũng như đă xử dụng một số phi cơ vào công tác thám sát và biểu dương lực lượng để uy hiếp tinh thần các chiến sĩ VNCH.
Lời chú thích:
Về phía VNCH, nhân chứng thẩm quyền nhất là Thiếu Tá Nguyễn Văn Hồng trưởng toán Công Binh đă có mặt trên đảo Hoàng Sa và đă bị Trung Cộng bắt làm tù binh trong ngày 20-1-1974. Ông đă xác nhận trong lần tiếp xúc tại tư gia ông vào năm 2005 là phi cơ Trung Cộng không có dội bom đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa trong ngày 20-1-1974.

LỰC LƯỢNG BỘ BINH

Với mưu đồ chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa (HS), TC đă xử dụng bộ binh phối hợp với hải quân và lực lượng dân quân hàng hải để thực hiện các cuộc hành quân đổ bộ quân lính lên các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm.(xin xem chi tiết trong bài TC đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa trên trang hqvnch.net)
Hoạt động của bộ binh TC đă được ghi nhận trên các đảo sau đây:
- Đảo Quang Ḥa (Duncan) : Ngày 16-1, HQ16 quan sát thấy trên đảo Quang Ḥa (Duncan) đă bị TC chiếm đóng, có cḥi canh, vọng gác, cờ TC.
Tài liệu BLQ/HK/PTB cho là TC đă đổ bộ lên đảo Quang Ḥa trong ngày 11 hay 17-18 tháng 1 (không xác định rơ) với quân số 1 đại đội.
Tài liệu TC/CTCT cũng có con số tương tự : “…8: 30 ngày 19-1, 2 toán Biệt Hải thuộc QL/VNCH gồm 74 người đổ bộ lên đảo Quang Ḥa và bị hơn 1 đại đội vơ trang vũ khí đủ loại tấn công.”
Hải Sử Tuyển Tập th́ cho là vào khoảng 2 đại đội : “tàu TC 402 & 407 đổ bộ tăng cường khoảng 2 đại đội lên bờ phía Đông Bắc đảo Quang Ḥa”.
Báo New York Times ngày 20-1-1974 viết :”…Phát ngôn viên quân sự QL/VNCH Trung Tá Lê Trung Hiền tuyên bố TC đă đưa 750 lính và 11 chiến hạm gồm có chiến hạm chuyên chở quân lính và khu trục hạm trang bị phi đạn vào khu vực đảo Quang Ḥa. Ông c̣n cho biết thêm là TC đă đổ bộ 1 Tiểu đoàn khoảng 600 quân lính lên đảo Quang Ḥa…”
Các dẫn chứng kể trên không nêu rơ xuất xứ của các nguồn tài liệu về con số quân lính và chiến hạm. Điều dễ hiểu là để đề pḥng các chiến hạm VNCH đưa quân lên tái chiếm đảo th́ việc TC xử dụng từ 1 đến 2 đại đội trên đảo Quang Ḥa là rất hợp lư. Ngoài ra cũng cần lưu ư là mặc dù HQ16 phát hiện đảo Quang Ḥa đă bị quân lính TC chiếm đóng vào ngày 16-1 nhưng trên thực tế chúng đă chiếm đảo này vào khoảng vài ngày trước đó, v́ theo chiến thuật vết dầu loang sau khi đă cũng cố xong hệ thống pḥng thủ trên đảo Quang Ḥa, ngày 15-1 chúng bèn lấn sang đảo Cam Tuyền.
- Đảo Cam Tuyền: chiều ngày 15-1, HQ16 phát giác 1 ghe đánh cá TC mang số 402 đưa một số người người lên đảo Cam Tuyền (Robert) cắm cờ và dựng lều, chiến hạm dùng quang hiệu đuổi họ rời khỏi đảo nhưng vô hiệu. Tuy nhiên trong ngày 17-1, sau khi HQ4 đưa toán Biệt Hải đổ bộ lên phía Tây đảo th́ toán lính TC đă rời khỏi đảo. Nhưng sau cùng trong ngày 20-1, TC lại xử dụng 2 đại đội đổ bộ tấn công chiếm đảo.
- Đảo Hoàng Sa: TC đă dùng 2 đại đội để tấn công vào đảo
- Đảo Vĩnh Lạc: có lẽ TC đă biết trước sẽ không gặp phải 1 sự chống cự nào nên chúng chỉ xử dụng 1 đại đội đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc
Về phía TC không t́m thấy tài liệu viết về lực lượng bộ binh đă xử dụng trước ngày 20-1-1974, nhưng trong bài ‘On January 1974 Xisha Defended the War’ có viết là TC đă dùng tổng cộng 500 lính trong ngày 20-1-1974, và trong Guide To Far Eastern Navies qua lời tường thuật từ Bắc Kinh th́ vào khoảng 600 lính đổ bộ tấn công đă ở trên các tàu khác nhau.
Các con số này cũng gần đúng với con số 600 người từ tài liệu của BLQ/HK/PTB (TC đổ bộ 2 đại đội lên đảo Cam Tuyền, 2 đại đội lên đảo Hoàng Sa và 1 đại đội lên đảo Vĩnh Lạc). Ngoài 5 đại đội đă xử dụng trong ngày 20-1, TC c̣n phải duy tŕ khoảng hơn 1 đại đội để pḥng thủ đảo Quang Ḥa.
Do đó có thể đi đến kết luận là Trung Cộng đă dùng một lực lượng bộ binh tổng cộng vào khoảng gần 1,000 người trong biến cố Hoàng Sa.

Thành phần và các đơn vị tham dự:
TC cho biết là lực lượng đổ bộ gồm có bộ binh và dân quân. Tuy nhiên theo nhận xét của G.Kosh (trong tài liệu BLQ/HK/PTB) th́ với hiệu quả và kỷ luật mà lực lượng này đă chứng tỏ qua các cuộc đổ bộ tấn công, TC đă xử dụng quân lính lấy từ các đơn vị chánh quy hay địa phương mà đến nay vẫn không xác định được danh xưng.

Tài liệu tham khảo:
- Bảo Biển Thái Văn A ‘Hạm Đội HQ/QLVNCH - Hải chiến Hoàng Sa’ (Melbourne, Úc 1990)
- Barry M. Blechman and Robert P. Berman, Guide To Far Eastern Navies (US Naval Institute Press Annapolis, Maryland 1978)
- Bí thư Thắng ‘Tôi đă đến đó’ đặc san Lướt Sóng số 73 năm 1998 (Hội Ái Hữu HQ Bạch Đằng miền Bắc California)
- Bộ Lục Quân Hoa Kỳ-Văn Pḥng Phụ Tá Tham Mưu Trưởng về T́nh Báo (viết tắt là BLQ/HQ/PTB) ‘Trung Cộng đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa tháng 1-1974’ (hqvnch.net)
- Chinese Defence Today
- Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982 / Part II The Warsaw Pact and Non-Aligned Nations (Naval Institute Press, 1983)
- Điện thư số 00910 ngày 21-01-1974 của Ṭa Đại Sứ Mỹ Saigon
- Điện thư số 1035 ngày 23-1-1974 của Ṭa Đại Mỹ Saigon
- Hà Đăng Ngân ‘Hoàng Sa và HQ 10’ (hqvnch.net)
- Hà Văn Ngạc ‘Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa’ (Hải Sử Tuyển Tập (HSTT) – Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (TH/HQHH) ấn hành 2004
- Jane’s Fighting Ships
- Kiem Do and Julie Kane ‘Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War’ (Naval Institute Press, Annapolis, Maryland – 1998)
- Kronstadt Class/Project 122-B (Russianwarrior.com)
- Lê Văn Thự ‘Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa’ (Calitoday, March 08, 2004)
- Liu Bingfeng ‘On January 19, 1974 Xisha defended the war’(military.china.com)
- Lướt Sóng ‘Số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa’ ( Khối CTCT/P.Tâm Lư Chiến BTL/HQ/VNCH ấn hành 1974).
- Nasog.net/datasheets/warships
- Navsource Naval History ‘Serene (MSF 300)’
- Naval Weapons of the World
- Nguyễn Đông Mai ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Phạm Mạnh Khuê ‘Hành quân Trần Hưng Đạo 47’ (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Sidney Trevethan ‘Prognosis for China’ (Federation of American Scientists)
- The New York Times ‘Sunday, January 20, 1974 và Monday, January 21, 1974’
-Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/CụcTâm Lư Chiến ‘Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa’ của VNCH (TC/CTCT/C.TLC ấn hành 1974).
- Trần Đại Sỹ ‘T́m hiểu trận hải chiến Hoàng Sa 19/01/1974’ (www.hqvnch.net)
- Trần Kim Diệp ‘Bên lề trận hải chiến Hoàng Sa’ (T́nh đại dương- bản tin K17/SQHQ/NT tháng 7/2004)
- Trần Thế Đức ‘Hoàng Sa qua những nhân chứng’ (Calitoday.com – 2004)
- Type 6604 Kronstadt (woodsbear.blogchina.com)
- Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm, ‘Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’ ấn hành 2004 tại Hoa Kỳ.
- Vương Văn Hà ‘Người về từ Hoàng Sa” (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Wikipedia : ‘Type 010 class minesweeper”, “Kronstadt class submarine chaser’, ‘Type 62 class gunboat’, ‘Type 037 class submarine chaser’ ‘Jiangnan class (Type 065)’
- Xinhui ‘Type 037 (Hainan) Family Sub-Hunter Patrol’, ‘PLAN Type 62 Coastal Defense Boat’ (China Defense.com)
- Xisha naval battle detailed solution (Military.china.com)

Trở lại