Để
thực hiện ư đồ cưỡng chiếm
quần đảo Hoàng Sa, Trung Cộng (TC) đă
xử dụng một lực lượng hổn
hợp gồm Hải, Lục, Không Quân và các
đơn vị bán chánh quy trong khoảng thời gian
từ ngày 11-01
Thềm
Sơn Hà
LỜI
MỞ ĐẦU
Để thực hiện ư đồ cưỡng
chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trung Cộng (TC)
đă xử dụng một lực lượng
hổn hợp gồm Hải, Lục, Không Quân và các
đơn vị bán chánh quy trong khoảng thời gian
từ ngày 11-01 (ngày chúng tuyên bố chủ quyền
trên các quần đảo trong vùng biển Đông,
trong đó có Hoàng Sa), cho đến ngày 20-1-1974 (ngày
chúng đổ quân chiếm trọn các đảo c̣n
lại.
- 15-1-1974, Tuần dương hạm Lư Thường
Kiệt - HQ16 đến Hoàng Sa đă phát hiện
sự hiện diện của chúng trên đảo Cam
Tuyền cùng tàu đánh cá ngụy trang 402. Những ngày
tiếp theo sau HQ/VNCH đă tăng cường thêm HQ4,
HQ5 và HQ10. Để đối đầu, TC cũng
đă tức khắc đưa vào các chiến
hạm mang số 271, 274 , 389 và 396.
- 19-1-1974, trận hải chiến khốc liệt đă
xảy ra. Sau đó các chiến hạm HQ/VNCH rút
khỏi ṿng chiến quay về Đà Nẳng, bỏ
lại HQ10 đang trôi dạt và những ǵ xảy
đến cho HQ10 tiếp theo đó cũng chưa
được tường tận.
- 20-1-1974, TC đă huy động một lực lượng
hùng hậu gồm Hải, Lục, Không quân mở các
cuộc hành quân tấn công đổ bộ lên các
đảo Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc.
Những tài liệu đă được viết
về các cuộc tấn công chiếm đảo
của TC hầu hết đều không chính xác và
thiếu chi tiết.
Gần đây tài liệu mật của Bộ Lục
Quân Hoa Kỳ/Pḥng T́nh Báo (BLQHK/PTB): ‘Trung Cộng
đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa
tháng 1 năm 1974’ phổ biến trên website hqvnch.net
đă viết ra một cách rơ ràng và chi tiết
về lực lượng TC tham dự trong ngày
20-1-1974.
Dựa theo tài liệu trên và rất nhiều tài
liệu khác, bài viết này hy vọng sẽ tŕnh bày
một cách đầy đủ và chính xác về
lực lượng mà TC đă xử dụng trực
tiếp trong biến cố Hoàng Sa nhất là thành
phần chủ yếu là các chiến hạm của
Hải Quân họ.
LỰC
LƯỢNG HẢI QUÂN
Trong
biến cố Hoàng Sa, TC đă xử dụng một
lực lượng Hải quân thật hùng hậu
gồm hơn 16 chiếc đủ loại, từ tàu
đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến Khu trục
hạm Jiangnan.
Trong bài này, tàu Nan Yu được xếp chung vào
lực lượng Hải quân TC, v́ tuy là lực lượng
bán quân sự (dân quân hàng hải), nhưng chúng đă
đóng vai tṛ hỗ trợ rất tích cực cho
Hải quân TC. Ngoài ra ấn bản Jane’s Fighting Ships
(gọi tắt là Jane’s) cũng đă xem chúng như
là một thành phần của Hải Quân TC.
Tàu
đánh cá vơ trang Nan Yu
Đây là loại tàu đánh cá được xử
dụng vào cả 2 mục đích quân sự và thương
mại tùy theo nhu cầu. Dựa trên tài liệu ‘TC
đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa
tháng 1 năm 1974’ của Bộ Lục Quân Hoa
Kỳ/Pḥng T́nh Báo, ‘Hoàng Sa qua những nhân
chứng’ của Trần Thế Đức và ‘Bên
lề trận hải chiến Hoàng Sa' của Trần
Kim Diệp th́ TC đă dùng tàu này để do thám, thám
sát, theo dơi, ḍ xét thủy đạo, địa h́nh,
chuyên chở quân lính với mục đích sau cùng là
cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa..(xem h́nh
cuối bài)
Jane’s 80-81 viết:
“Trong những năm đầu của thập niên
1950, một số tàu viễn duyên và những đoàn
tàu đánh cá duyên hải đă được
tổ chức thành lực lượng dân quân hàng
hải (maritime militia). Các tàu đánh cá này đặt
dưới sự kiểm soát của chi nhánh đảng
bộ địa phương, mang theo đoàn viên
của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản và khi cần
họ sẽ thi hành công tác yểm trợ hoặc như
là phương tiện che đậy hoạt động
bất hợp pháp hay bí mật cho lực lượng
Hải quân. Công tác thường lệ của họ
là do thám và theo dơi nhưng trong nhiều trường
hợp họ đă được trang bị súng
đại liên (trường hợp quần đảo
Hoàng Sa năm 1974).”
Theo Blechman trong Guide To Far Eastern Navies th́ các triều
đại vua chúa Trung Hoa ngày trước đă dùng các
đoàn tàu đánh cá để do thám và theo dơi và TC
đă tiếp tục áp dụng chiến thuật này
như Blechman viết tiếp :
“Trong biến cố ở quần đảo HS năm
1974, dân quân TC đă đụng độ với toán
biệt kích VNCH ở đảo Cam
Tuyền….những h́nh ảnh đă được
Saigon phổ biến sau biến cố đă cho
thấy các cây súng đại liên cở lớn trên các
tàu đánh cá TC .”
Theo Sidney Trevethan trong ‘Prognosis For China’ th́ :
“… rất nhiều tàu đánh cá TC trang bị vũ
khí……và thực hiện công tác đôi vừa là tàu
tuần tiểu kiêm nghề đánh cá vừa là tàu
đánh cá…”
Sự việc tàu đánh cá TC có trang bị vũ khí
đă được chứng minh rơ ràng qua h́nh
ảnh chụp được từ HQ 4 lúc tàu đánh
cá mang số 407 của TC cọ sát vào hông bên
phải HQ4 trong ngày 18-1. Trần Thế Đức qua bài
‘Hoàng Sa qua những nhân chứng’ cũng đă
viết :
“…tàu đánh cá lộ nguyên h́nh tàu chiến, ở
đài chỉ huy có 2 cây đại liên, sườn tàu
để hở các ô vuông chỉa súng ra…”.(xem h́nh
cuối bài)
Ngoài các nhiệm vụ kể trên, theo Blechman, các tàu
đánh cá này c̣n có nhiệm vụ đặt ḿn và
TC đă ngụy trang chúng thành tàu phóng thủy lôi
để đánh ch́m chiến hạm Trung Hoa Quốc
Gia trong cuộc chiến Quốc Cộng.
Cũng nên nhớ là trong cuộc chiến Việt Nam,
Cộng Sản Bắc Việt đă xử dụng
rất nhiều tàu đánh cá ngụy trang (khác
với loại Nan Yu) để chuyên chở người
và vũ khí xâm nhập miền Nam.
Trong
biến cố Hoàng Sa, TC đă xử dụng tất
cả 6 chiếc tàu đánh cá mang số 401, 402, 405,
406, 407 và 408, trong số này 2 chiếc 402 và 407 đă
được các chiến hạm VNCH nhận dạng
từ ngày 15-1-1974 và dựa theo tài liệu của
BLQ/HK/PTB th́ 6 chiếc này đă có mặt trong
những lần thao dượt xuất phát từ căn
cứ Pei Hai (Bắc Hải) trong tháng 12-1973 hoặc có
thể diển ra sớm hơn vào khoảng tháng
9-1973.(xem chi tiết trong trang website hqvnch.net)
Qua kinh nghiệm biến cố HS, ta có thể kết
luận lực lượng tàu đánh cá ngụy trang
của TC là một lực lượng rất nguy
hiểm không những trong thời chiến mà cả
trong thời b́nh. Cũng theo Blechman trong quyển sách
của ông viết vào năm 1978 th́ TC đă tiếp
tục đóng hàng trăm chiếc tàu đánh cá vơ
bằng thép và hầu hết được trang
bị súng đại liên hạng nặng. Như
vậy đă chứng tỏ chủ ư của TC là
sẽ c̣n tiếp tục xử dụng chúng trong vùng
biển Đông nhất là trong khu vực quần đảo
Trường Sa để thi hành các công tác tương
tự như đă thực hiện ở Hoàng Sa, hơn
nữa cũng để theo dơi hoạt động
của các chiến hạm Đệ Thất Hạm
Đội và các chiến hạm Đồng Minh.
Đây
là điều mà các lực lượng bộ binh CS
Việt Nam trú đóng trên các đảo và các
chiến hạm tuần tiểu ngoài khơi trong khu
vực quần đảo Trường Sa lúc nào cũng
phải đề cao cảnh giác.
Tuy
nhiên vẫn c̣n mối nguy hiểm khác là trong tương
lai TC có thể dùng tàu đánh cá ngụy trang để
tạo nên các vụ xung đột với các ngư
phủ hoặc các chiến hạm CS Việt Nam
(những vụ thảm sát ngư phủ Việt Nam
trong vùng biển Đông đă có liên hệ đến
các tàu đánh cá này ????) và đây có thể xem như
là ng̣i nổ để TC tạo nên biến động
lớn hầu xua quân chiếm đoạt Trường
Sa.
Điều
này các chức quyền liên hệ trong chánh phủ CS
Việt Nam hiện tại phải cần quan tâm đặc
biệt để có những biện pháp thích ứng
hầu đề pḥng và đối phó.
Đặc
tính tàu đánh cá Nan Yu
Không t́m được tài liệu viết về
đặc tính của loại tàu này, tuy nhiên qua h́nh
ảnh và các tài liệu đă dẫn chứng có
thể ước đoán là tàu này dài khoảng 30-40
mét, trọng tải khoảng 100 tấn, được
trang bị 2 khẩu đại liên cỡ lớn hai bên
hông tàu trên pḥng lái và một số vũ khí cá nhân
chứa dưới khoang tàu.
Thủy thủ đoàn khoảng chừng 15 người
nhưng tàu có khả năng chở đến 100 quân
lính khi dùng vào mục tiêu quân sự.
Kronstadt
( Type 6604 )
Kronstadt (K) được TC đặt tên Type 6604 là
loại chiến hạm săn tàu ngầm (Submarine
chaser/hunter, anti-submarine ship), ngoài ra c̣n được
xử dụng vào công tác tuần tiểu và hộ
tống như loại Hộ Tống Hạm (PCE/MSF)
của HQ/VNCH.
Theo
Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982, Part II: the Warsaw
pact and non-aligned nations (gọi tắt là Conway’s)
khoảng 230 chiếc K đă được hảng tàu
Nga Sô Zelenodolsk đóng trong năm 1946-1956. Số lượng
K chuyển giao cho các nước Cộng Sản và
Trung Lập trong đầu thập niên 1950 và 1960 là 48
chiếc, trong đó TC tiếp nhận 6 chiếc vào năm
1956-1957 (theo Jane’s, 6 chiếc này mang các số 579, 611,
612, 615, 618, 622 nhưng về sau đă được
thay thế).
Trong bài ‘Type 037 (Hainan) Family Sub-hunter Patrol Craft’ tác
giả Xinhui viết:
“…TC nhập cảng 6 chiếc đầu tiên từ
Nga, đóng 2 chiếc từ bộ phận do Nga cung
cấp, 12 chiếc c̣n lại do hải xưởng
Shanghai và Quangzhou đóng trong năm 1957”. Nhưng theo
Jane’s th́:
“… ngoài 6 chiếc tiếp nhận từ Nga, TC đóng
thêm 14 chiếc ở hải xưởng Shanghai và
Quangzhou trong đó 12 chiếc hoàn tất năm 1956,
chiếc sau cùng đóng xong năm 1957.”
Hai mươi chiến hạm K của HQ/TC đă
được phối trí như sau:
- Hạm Đội Bắc Hải (North Sea Fleet): căn
cứ ở Qingdao và Lushun, các chiến hạm mang
số từ 251 đến 258.
- Hạm Đội Đông Hải (East Sea Fleet): căn
cứ trên đảo Choushan, các chiến hạm mang
số 262, 263, 630 và từ 633 đến 635.
- Hạm Đội Nam Hải (South Sea Fleet): căn
cứ ở Yulin và Hainan, các chiến hạm mang
số từ 651 đến 656.
Dưạ trên sự phối trí này th́ 2 chiến
hạm mang số 271, 274 (đă đối đầu
trực tiếp với HQ 4 và HQ 5 trong trận hải
chiến ngày 19-1-1974) không ở trong loại K mà trái
lại chúng được xếp vào loại Hainan
(xem tiếp phần viết về loại Hainan đoạn
kế) và những chiếc đầu tiên của
loại Hainan mang số 267 đến 285.
Để t́m câu trả lời trưóc những
nhận xét tương phản, phần viết
tiếp dưới đây sẽ tŕnh bày tất
cả các tài liệu liên hệ đến 271, 274 và
từ đó có thể xác định một cách chính
xác loại và vũ khí trang bị của 2 chiếc
271 và 274.
1.
Xác định loại chiến hạm.
- Tài liệu của VNCH: sau trận hải chiến Hoàng
Sa (HS), Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị (TC/CTCT)
đă ấn hành tài liệu ‘Thế giới lên án
TC xâm lăng Hoàng Sa của VNCH’ và Khối Chiến
Tranh Chánh Trị /Pḥng Tâm Lư Chiến (KCTCT/PTLC)
thuộc Bộ Tư Lịnh Hải Quân (BTL/HQ) đă
cho in ra đặc san Lướt Sóng số đặc
biệt ‘Chiến thắng Hoàng Sa’. Trong hai tài
liệu chính thức này của VNCH đều cho là TC
đă xử dụng 2 chiến hạm loại Kronstadt
mang số 271 và 274. Việc xác định loại
của 2 chiến hạm này, nếu dựa vào h́nh
ảnh 271, 274 đă chụp được từ HQ4
trước khi xảy ra trận hải chiến và
theo ấn bản Jane’s lúc bấy giờ để
tra cứu th́ đúng là loại Kronstadt.
Ngoài ra hầu hết các tài liệu bằng tiếng
Việt sau 1975 cũng có kết luận tương
tự.
- Tài liệu của TC : bài viết của tác giả
Xinhui cho là trong trận đụng độ với
HQ/VNCH vào năm 1974, TC đă xử dụng 2 chiến
hạm loại Hainan 281, 282 và 2 chiến hạm
loại K 271, 274.
- Tài liệu trên mạng lưới internet ‘Woodsbear blogchina.com’
viết về loại chiến hạm Type 6604 (Kronstadt)
do TC đóng:
“…ngày 12-7-1964, hai chiến hạm K mang số 272, 274
đặt dưới sự thống thuộc của
các chiến hạm loại Hainan đă đánh ch́m 2 tàu
do thám và bắt sống 59 gián điệp Đài Loan.
Ngày 19-1-1974 hai chiến hạm săn tàu ngầm
loại K số 271, 274 thuộc Hạm Đội Nam
Hải đă tham dự trận hải chiến HS.”
- Tài liệu ngoại quốc : trong Wikipedia bài
‘Kronstadt class submarine chaser’ viết là 2 chiếc
thuộc loại K mang số 271, 274 đă tham dự
trận hải chiến HS với kết quả là
chiếc 274 bị thiệt hại nặng nề.
Qua hầu hết các tài liệu đă trích dẫn
từ phía TC cũng như dựa trên cấu trúc và h́nh
dáng, đủ để kết luận là hai
chiến hạm mang số 271, 274 thuộc loại
Kronstadt.
2.
Xác định khẩu đại bác phía sân trước.
Các tài liệu viết về cỡ của khẩu
đại bác trang bị phía trước chiến
hạm K. không đồng nhất. Một số tài
liệu cho là đại bác 100 ly (3.9 in.) và một
số khác th́ cho là đại bác 85 ly (3.5 in.)
- Đại bác 100 ly (3.9 in): trong khoảng năm 1974,
nếu dùng ấn bản Jane’s 73-74 hoặc các ấn
bản trở về trước để tra cúu
về đặc tính của chiến hạm loại K
th́ sẽ biết được là loại K có trang
bị một khẩu đại bác 100 ly ở phía sân
trước. Có lẽ v́ căn cứ vào Jane’s nên
hầu hết các sách và bài viết bằng tiếng
Việt liên quan đến trận hải chiến HS
trước và sau 1975 đều cho là hai chiếc 271,
274 trang bị khẩu 100 ly (như trong đặc san Lướt
Sóng số đặc biệt ‘Chiến thắng hoàng
Sa’, ‘Tài liệu hải chiến Hoàng Sa’, ‘Hạm
Đội HQ/QLVNCH- Hải chiến Hoàng Sa’, ‘Hải
Sử Tuyển Tập’…)
- Đại bác 85 ly (3.5 in): nếu tiếp tục tra
cứu ấn bản Jane’s 74-75 và các ấn bản
trở về sau th́ sẽ thấy một điểm
khác biệt hẵn là khẩu đại bác của K
không c̣n là 100 ly mà thay vào đó là khẩu đại
bác cở 85 ly. Lư do đă đưa đến sự
ghi nhận sai lầm này có lẽ cũng không có ǵ khó
hiểu lắm v́ trong thời điểm này, các nước
Cộng Sản c̣n đang bị kềm kẹp dưới
bức màn sắt, bí mật quốc pḥng được
bảo vệ một cách tuyệt đối. Do đó
việc thu thập tin tức và h́nh ảnh chiến
hạm là một điều rất khó khăn, hơn
nữa dụng cụ trang bị trên các vệ tinh và
phi cơ do thám cũng chưa được tinh vi
lắm v́ vậy không tránh khỏi thiếu sót và không
chính xác.
Ngoài Jane’s từ ấn bản 74-75 trở về sau,
các tài liệu Tây Phương trích dẫn dưới
đây cũng cho khẩu đại bác này là loại
85 ly:
- Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982 Part II
- Guide To Far Eastern Navies
- Naval Weapons of the World
- Kronstadt Class /Project 122-B Patrol Craft
Về phía TC, các tài liệu đă dẫn chứng
ở trên và một số bài viết về trận
hải chiến HS đều ghi nhận loại K trang
bị khẩu 85 ly.
Về phía Hạm Trưởng của các chiến
hạm VNCH đă tham dự trực tiếp trận
hải chiến HS, Hạm Trưởng HQ16 là HQ Trung Tá
Lê Văn Thự đă có nhận xét cũng gần chính
xác :
“…nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu TC số
hiệu 271 dài chừng 70m, có súng tương
đương với súng 76,2 ly, 40 ly ,20 ly và đại
liên 12,7 ly của tàu tôi”.
Các tài liệu viện dẫn trên đă chứng
tỏ là khẩu đại bác trang bị phía sân trước
loại K nói chung và 2 chiếc 271, 274 nói riêng là
loại đại bác cở 85 ly (3.5 in).
Lư do tại sao có một số chiến hạm
loại K được xáp nhập vào loại Hainan
vẫn chưa t́m được tài liệu giải
thích rơ ràng. Tuy nhiên qua bài viết của Xinhui th́ các
chiến hạm đầu tiên được xếp
vào loại Hainan mang số 267-285 và chiếc Hainan đầu
tiên mang số 278 bắt đầu đóng vào tháng
8-1962 và được hạ thủy vào tháng 12-1963.
Cũng theo Xinhui th́ sau khi hoàn tất chiếc K
cuối cùng vào năm1957, khả năng đóng tàu
tại các hải xưởng TC gia tăng, t́nh
trạng căng thẳng tại eo biển Đài Loan
đưa đến nhu cầu cần thêm nhiều
chiến hạm. Ngoài ra cấp chỉ huy HQ/TC không hài
ḷng với khả năng hoạt động của
loại K từ đó họ đă t́m cách thay thế
K bằng một loại tàu mới.
Thoạt đầu, theo lời đề nghị
của các cố vấn Nga Sô, TC dự tính cải
tiến loại K đang có bằng một loại K
mới với chiều dài ngắn hơn và mực nước
thấp hơn, nhưng sau khi đóng xong một số
họ vẫn không vừa ư v́ chiến hạm không
đạt dến vận tốc mong muốn là 28 knots,
v́ vậy họ đă thay thế bằng một
loại hoàn toàn mới về h́nh dạng và vũ khí
trang bị. Loại chiến hạm mới này
được đặt tên là Type 037 hay Hainan và các
chiến hạm mang số 267-277 tuy được
xếp vào loại Hainan nhưng thực sự chúng là
loại K và đă được đóng trong
khoảng thời gian sau năm 1957 và trước năm
1963.
Từ các dẫn chứng trên, có thể khẳng
định là trong trận hải chiến Hoàng Sa Trung
Cộng đă xử dụng 2 chiến hạm loại
Kronstadt mang số 271, 274 và chúng được trang
bị một khẩu đại bác 85 ly (3.5 in) ở
phía sân trước, tuy nhiên chúng lại được
xếp vào chung với loại Hainan. Đây là trường
hợp tương tự như trong loại Hộ
Tống Hạm của HQ/VNCH có hai loại khác nhau là
Trục Lôi Hạm (MSF- Minesweeper Fleet gồm có HQ 8, 9,
10 ,11 ,13) và Hộ Tống Hạm (PCE- Patrol Craft Escort
gồm có HQ 7, 12, 14 ) nhưng có điểm khác
biệt là 2 loại PCE và MSF có h́nh dạng và đặc
tính gần giống nhau c̣n giữa Kronstadt và Hainan th́
hoàn toàn khác biệt. Do đó khi tham khảo tài
liệu nên thận trọng. Nếu căn cứ vào
con số 271, 274 và dùng các ấn bản Jane’s,
Conway’s, Guide To Far Eastern Navies để tra cứu th́
sẽ dễ nhầm lẫn khi đi vào phần
viết về loại Hainan và từ đó sẽ
lấy ra những dữ kiện sai lầm về h́nh
dạng và đặc tính.
Hainan
( Type 037 submarine chaser)
Đây là loại chiến hạm săn tàu ngầm
giống như loại Kronstadt (K), ngoài ra chúng c̣n
được dùng vào công tác tuần tiểu và
hộ tống. Loại này hoàn toàn do Trung Cộng(TC)
đóng trong đầu thập niên 1960 và đặt tên
là Type 037. Chiếc đầu tiên mang số 278
được hạ thủy vào tháng 12-1973. Trong
Jane’s 70-71, lần đầu tiên viết về
loại này với các ghi chú rất thiếu sót và không
chính xác, những ấn bản về sau đă
được cập nhật hóa đầy đủ
hơn có viết là loại Hainan thoát thai từ
loại tàu tuần SO1 của Nga nhưng lớn hơn.
Nhận xét này đă bị các nhà vẽ kiểu TC bác
bỏ với lư do là TC không có một chiếc nào
loại SO1 để bắt chước (tác giả
Xinhui trong bài: 'Type 037 (Hainan) Family sub-hunter patrol craft').
Cũng
theo Xinhui th́ loại Hainan ra đời v́ các lư do sau
đây:
- Hải quân TC cần nhiều tàu cở nhỏ
vừa có khả năng tuần tiểu vừa
chống tàu ngầm để đối phó với t́nh
h́nh căng thẳng tại eo biển Đài Loan vào
thập niên 1960.
- không hài ḷng với khả năng hoạt động
của loại K về tốc độ, hỏa
lực, tầm hoạt động…..
- gia tăng khả năng đóng tàu tại các
hải xưởng.
Dưạ trên Jane’s 89-90 các chiến hạm loại
Hainan mang số: 267-285, 290, 302, 305, 609, 610, 641, 642, 661-
670, 677, 678, 680, 686, 687,690 + 18 (trong Conway’s và Nasog.net cũng
có các số gần giống nhau).
Theo Global Security khoảng 88 chiếc vẫn c̣n hoạt
động tính đến năm 2005. Chiến hạm
loại Hainan đă chứng tỏ rất hữu
hiệu trong các nhiệm vụ được giao phó
và rất thành công bán ra ngoại quốc.(xem h́nh
cuối bài)
Xác định chiến hạm đánh ch́m HQ10 (nguyên
là MSF 300 của Hải Quân Hoa Kỳ)
Tài
liệu do TC/CTCT/Quân LựcVNCH phổ biến năm
1974 viết : “TC đă xử dụng 4 phi tiển
hạm Komar….và HQ10 bị trúng hỏa tiển Styx
của TC”.
Trong ‘Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War’
của Kiem Do and Julie Kane có viết là trong ngày 17-1-1974
khu trục hạm HQ4 phát hiện hai phi tốc đỉnh
loại Komar và sáng ngày 19-1-1974, HQ10 đă bị trúng
hỏa tiển hải-hải của TC.
Trong
“Navsource Naval History” phần nói về tiểu sử
của USS Serene (tên của MSF 300 trước khi bàn
giao cho HQ/VNCH) đă viết: “ngày 19-1-1974, Nhật
Tảo (HQ10) đă bị ch́m v́ trúng hỏa tiển
hải-hải”. Hầu hết báo chí ngoại
quốc dựa trên lời tuyên bố của phát ngôn
viên quân sự Trung Tá Lê Trung Hiền cũng cho là HQ10
bị ch́m v́ trúng hỏa tiển Styx do chiến đỉnh
Komar phóng ra.
Tuy
nhiên một số bài viết do chính các Sĩ Quan và
nhân viên HQ10 c̣n sống sót sau lần đào thoát
đă chứng minh ngược lại như Nguyễn
Đông Mai trong bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng
Sa’ đă xác định rơ hơn: “Sau mấy ṿng
chạy quanh bắn xối xả vào HQ10, hai chiếc tàu
địch 281 và 282 bỏ chạy…” và 3 bài
viết của Vương Văn Hà, Tất Ngưu và
Hà Đăng Ngân cũng đă cho thấy là 2
chiến hạm TC ( không nói rơ số) đă xử
dụng hải pháo tác xạ vào HQ10. ‘Tài liệu
hải chiến Hoàng Sa’ của Vũ Hữu San &
Trần Đỗ Cẩm cũng có viết về 2
chiếc 281, 282 nhưng cho chúng là loại K: “…ngoài
ra c̣n có 2 Kronstadt mang số 281 và 282 tới sau trận
hải chiến…”
Trong
Wikipedia bài ‘Type 037 class submarine chaser’ viết :
“…trong các cuộc đụng độ giữa
TC-VNCH ngày 19-1-1974, hai chiếc của loại này
số 281 và 282 (2 trong tổng số 8 chiếc TC đang
có) đă tham gia trong nửa phần sau của cuộc
chiến, loại chiến hạm nhanh nhất
được xử dụng trong trận chiến.
Khởi đầu 2 chiếc này nằm chờ sẵn
tại đảo Phú Lâm (Woody island) nhưng v́ trở
ngại truyền tin nên chúng đă không được
thông báo kịp thời…”
Global
Security viết về Hainan cho là TC đă xử
dụng 2 chiếc loại này trong tháng 1-1974.
Về phía TC, ngoài Xinhui
đă xác nhận :
“…trong trận hải chiến năm 1974 với
Hải quân VNCH, hai chiếc loại Hainan (281 và 282)
với 2 chiếc loại Kronstadt (271 và 274)…” c̣n có
bài ‘On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution’
đăng trong MilitaryChina.com đă viết rơ hơn :
“lúc 11 giờ 49 phút, 2 chiến đỉnh 281, 282
loại 037 (ta chỉ có 8 chiếc loại mới này)…
đă tăng tốc độ tối đa để
kịp đến vùng giao chiến...”
Từ các dẫn chứng trên có thể xác định
là TC đă điều động 2 chiến hạm
loại Hainan mang số 281 và 282 đến vùng ḷng
chảo nhóm Nguyệt Thiềm sau khi HQ4 và HQ5 đă
triệt thoái về hướng Đông Nam và HQ16
đă ra khỏi ḷng chảo trực chỉ về
Đà Nẳng. Tại trận chiến các chiến
hạm TC có lẽ đang tự cứu hoặc đến
tiếp cứu lẫn nhau, bỏ mặc HQ10 hoàn toàn
bất khiển dụng đang trôi dạt, trên tàu
chỉ c̣n lại hai chiến sĩ anh hùng là Hạ Sĩ
1/VC Lê Văn Tây và Hạ Sĩ 1/VC Ngô Sáu đang gh́m
chặt súng liều chết tử thủ chờ tàu
địch đến gần, trong lúc đó 28
chiến sĩ HQ10 đă đào thoát trên các bè loang
lỗ đầy vết đạn cũng cách HQ10 không
xa lắm. Những ǵ xảy ra sau đó cho HQ10 đă
được bài của TC diển tả tiếp :
“…12 giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh
công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả vào
HQ10 và thủy thủ đoàn tàu này chống trả mănh
liệt. Đến 14 giờ 52 phút, chiếc HQ10 ch́m
tại địa điểm phía Nam băi Nam Dương
( băi đá Hải Sâm -Antelope reef) cách 2,5 km”.
Phụ chú:
Theo Hải Sử Tuyển Tập (HSTT): “Hồi 11:00H,
HQ 5 phát hiện 3 tàu lạ và 2 phi cơ cách 5 hải
lư về hướng Đông Bắc. Tàu lạ có h́nh
dáng giống như Phi Tiển Đỉnh Komar của
Hải Quân Trung Cộng và phi cơ giống như
phản lực cơ Mig.”
HQ/Đại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng
Hành Quân lực lượng HQ/VNCH trong biến cố
Hoàng Sa trong bài ‘Trận hải chiến lịch
sử Hoàng Sa’ cũng viết :
“Bất thần về phía Đông, vào khoảng 11
giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lư,
xuất hiện một chiến hạm của TC
loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép
hỏa tiển (loại hải-hải)”. (Có lẽ v́
hai chiến hạm Hainan 281, 282 đă tăng vận
tốc tối đa lên đến 30 hải lư nên
từ xa có thể nhầm lẫn với loại Komar
???).
Nếu đúng như HSTT
và Đại Tá Ngạc viết, th́ các chiến đỉnh
Komar này đă đến vị trí giao chiến có
lẽ trước khi HQ10 chuẩn bị đào thoát và
nếu chúng xử dụng hỏa tiển Styx th́
chắc là HQ10 sẽ bị đánh ch́m trong phút
chốc.
Ngoài ra tài liệu của Trần Đại Sỹ cũng
xác nhận là lực lượng tham chiến của
HQ/TQ có 4 chiếc Phi Tiển Đỉnh Komar mang số
133, 137, 139, 145 và theo báo New York Times ngày 21-1-1974 dựa
trên lời tuyên bố của Trung Tá Hiền trong ngày
20-1-1974 th́: “TC đă đưa vào một hạm
đội gồm 11 chiếc về sau tăng lên 14
chiếc trong đó có 4 phi tiển đỉnh 70
tấn loại Komar được trang bị hỏa
tiển hải-hải”
Tuy nhiên, qua các bài
viết do chính các Sĩ Quan và nhân viên HQ 10 đào thoát
kể lại, phối hợp với các tài liệu
dẫn chứng đă chứng minh là hai chiếc Hainan
281, 282 đă được điều động
đến vùng và chính các khẩu đại bác trên
2 chiếc này đă khai hỏa đánh ch́m HQ10.
Do đó để xác định sự hiện
diện của phi tiển đỉnh Komar trong trận
hải chiến HS, ta có thể dựa vào bài viết
của các nhân chứng sống trên HQ10 trong trận
hải chiến ngày 19-1-1974, sự quan sát trực
tiếp của G.Kosk trong ngày 20-1-1974 khi TC mở
cuộc hành quân đổ bộ tiến chiếm
quần đảo Hoàng Sa và các bài viết về phía
TC.
V́ cho đến nay
vẫn chưa t́m được tài liệu nào khác có
thể xác định sự tham dự trực
tiếp của các chiến đỉnh Komar nên
phần viết về Hải quân Trung Cộng không
đề cập đến loại này.
Điểm cần lưu
ư thêm là bài viết ‘Hành quân Trần Hưng Đạo
47 trong HSTT’ của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê
không nói đến việc HQ10 bị ch́m v́ hỏa
tiển Styx và ông cũng đặt câu hỏi về
sự tham dự của 3 Phi Tiển Đỉnh Trung
Cộng, ngoài ra Vũ Hữu San & Trần Đỗ
Cẩm trong ‘Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’ cũng
đặt nghi vấn về việc TC xử dụng
hỏa tiển Styx đánh ch́m HQ10 và hai ông đă
xếp ‘4 Khinh Tốc Đỉnh Hỏa Tiển
loại Komar’ vào thành phần ‘Lực lượng
ứng chiến trừ bị’ của HQ/TC.
T43 ( Type 010 )
Minesweeper
Đây là loại Trục Lôi Hạm (Minesweeper) tương
đương với loại Hộ Tống Hạm
(MSF-Minesweeper Fleet) của HQ/VNCH trong đó có HQ10 nhưng
dài hơn 2 m.
T43 do Nga đóng từ 1948-1957 và đă chuyển giao
hai chiếc cho TC vào năm 1954-1955.
Dựa trên kiểu mẫu của Nga Sô, TC đă đóng
thêm 18 chiếc có h́nh dạng tương tự như
T43 của Nga nhưng lớn hơn chút ít, tất
cả hoàn tất năm 1956. Loại này được
đặt tên là Type 010 Minesweeper.
So sánh với loại Kronstadt, T43 thực sự không
nhỏ hơn như Đại Tá Ngạc đă
viết : “…2 chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn
mang số 389 và 396…” mà trái lại T43 dài hơn
Kronstadt 8m, rộng hơn 2.3m, trọng tải gần
gấp đôi và thủy thủ đoàn đông hơn
khoảng 30 người.
Về trang bị vũ khí:
- Đại bác 85 ly T 43 không có K. có 1 khẩu
- Đại bác 37 ly T 43 có 4 khẩu K. có 2 khẩu
- Đại bác 25 ly T 43 có 4 khẩu K. không có
- Đại liên 14.5 ly T 43 có 4 khẩu K. có 6 khẩu
Do đó trong trận hải chiến Hoàng Sa, tuy T 43 không
có loại đại bác tương đương
với đại bác 127 ly trên HQ 16 và 76,2 trên HQ 10 nhưng
với chiến thuật bám sát các chiến hạm ta
trong khoảng cách gần các loại vũ khí này
đă chứng tỏ rất lợi hại.
Ghi chú:
Theo “Naval Weapons Of The World” th́ đại bác 37 ly trên
các chiến hạm Trung Cộng được xem là tương
đương với đại bác Bofors 40 ly trên các
chiến hạm ta.
Jiangnan (Type 065)
Trong Conway’s viết về loại Jiangnan dưới
tựa đề Kiangnan (Jiangnan) với chú thích Kiangnan
cũng được viết (hay được đánh
vần) là Jiangnan và một chiếc thuộc loại này
đă giao chiến với chiến hạm VNCH trong năm
1974.
Trong Jane’s ấn bản 78-79 viết là loại Kiangnan
có 5 chiếc mang số 209, 214, 231, 232, 233 và một
chiếc của loại này đă được báo cáo
là đă giao chiến với lực lượng VNCH
trong ngày 19-20 tháng 1 năm 1974. (ấn bản Guide To Far
Eastern Navies năm 1978 cũng dùng tên Kiangnan nhưng có
các con số là 230, 231, 232, 233, 234).
Từ ấn bản
Jane’s 82-83 trở về sau loại này đă có tên là
Jiangnan với các số mới 501, 502, 503, 504 và 529. Cũng
cần ghi nhận là nếu dùng tên Kiangnan để
truy cập trên Internet th́ sẽ không thấy kết
quả, nhưng nếu dùng tên Jiangnan sẽ ghi
nhận một số Website viết về loại này
như Wikipedia, Global Secutity, Federation Of American
Scientists…..
Loại Jiangnan là loại khu trục hạm tương
đương với loại Khu trục hạm
(DER-HQ4) và Tuần dương hạm (WHEC-HQ5, HQ16)
của HQ/VNCH đă tham dự trận hải chiến
HS, nhưng vũ khí được trang bị hùng
hậu hơn.(xem h́nh trang cuối)
TC đóng loại Jiangnan vào
năm 1965 và đăt tên là Type 065 dựa theo
loại Riga của Nga Sô nhưng vị trí của các
khẩu đại bác 100 ly đă được thay
đổi với 1 khẩu ở phía sân trước
và 2 khẩu ở phía sân sau (Riga có 2 khẩu trưóc
và 1 khẩu sau).
Trong tài liệu ‘TC đổ
bộ tấn công quần đảo HS tháng 1 năm
1974’của BLQHK/PTB th́ vào sáng ngày 20-1-1974 , từ
vị trí trên đảo HS, G. Kosh đă quan sát :
“…2 chiến hạm tuần duyên thuộc loại
Shanghai của HQ/TC… ngay tiếp theo đó 1 chiến
hạm lớn hơn không xác định được
loại nào …”. Tuy không xác định được
loại nào, nhưng qua tiếng nổ của các
quả đạn mà chiến hạm này đă tác
xạ lên đảo Cam Tuyền, G. Kosh đă có 1
kết luận gần chính xác là chiến hạm này
đă xử dụng loại đại bác 105 ly.
Qua trích dẫn từ Jane’s và Conway’s cùng sự quan
sát trực tiếp của G. Kosh ta có thể kết
luận là TC đă xử dụng một chiến
hạm loại Jiangnan (chưa rơ số) để
yểm trợ cho cuộc hành quân đổ bộ cưỡng
chiếm quần đảo HS trong ngày 20-1-1974.
Ngoài ra theo Jane’s, khu
trục hạm Jiangnan cũng đă có mặt trong ngày
19, báo New York Times ngày 20-1-1974 đăng lời tuyên
bố của Phát ngôn viên quân sự QL/VNCH Trung Tá Lê
Trung Hiền là TC đă đưa 750 lính và 11
chiến hạm gồm có 1 khu trục hạm trang
bị hỏa tiển và 1 chiến hạm chuyển
vận vào khu vực đảo Quang Ḥa (Duncan) trong
quần đảo Hoàng Sa. Như vậy khu trục
hạm Jiangnan có thể đă hiện diện trong khu
vực nhóm Nguyệt Thiềm sau khi xảy ra trận
hải chiến trong ngày 19-1-1974, v́ vậy chiếc này
đă không bị các chiến hạm ta phát hiện.
Cũng cần nói thêm là
trong các tài liệu viết về hải chiến HS
bằng Việt ngữ trước và sau 1975, chỉ có
quyển “Hạm Đội HQ/VNCH - Hải Chiến
HS” của tác giả Bảo Biển ấn hành năm
1990 là có đề cập đến 2 loại Jiangnan
và Kiangnan đă tham dự hải chiến HS (như
đă viết ở phần trên chúng chỉ là
một loại mà thôi), nhưng có lẽ v́ không có tài
liệu nào khác để kiểm chứng nên các tài
liệu xuất bản về sau đă không viện
dẫn từ tài liệu của ông.
Shanghai II (
Type 62 )
Đây là loại Tuần Duyên Hạm tương
tự như loại PGM (Patrol Gunboat Motor) của HQ/VNCH
nhưng lớn hơn, trang bị vũ khí hùng hậu
hơn và vận tốc cao hơn.(xem h́nh cuối trang)
Loại này đă được cải tiến qua
nhiều giai đoạn, những chiến hạm
sản xuất đầu tiên được đặt
tên là Shanghai I, kế tiếp là Shanghai II, Shanghai III và
Shanghai IV (TC đặt tên cho loại này là Type 62). TC
đă đóng trên 400 chiếc, trong đó có 8
chiếc chuyển giao cho Cộng Sản Bắc
Việt vào tháng 5-1966.
Theo Xinhui trong ‘PLAN Type 62
Coastal Defense Boat’ TC bắt đầu đóng Shanghai I
vào năm 1960 ( Conway’s, Jane’s, Guide To Far Eastern Navies cho
là năm 1959) sau khi đóng xong 3 chiếc đầu tiên,
( Conway’s ghi chú là 25 chiếc) TC đă thay thế
khẩu đại bác 57 ly bằng khẩu đại
bác 37 ly đôi, tăng vận tốc lên 30 knts,
giảm trọng tải 10 tấn và đặt tên cho
loại chiến hạm mới này là Type 62- 0111A hay c̣n
được gọi là Shanghai II.
Căn cứ vào tài
liệu của Bộ Lục Quân HK/P.T́nh Báo, qua
sự ghi nhận của G.Kosh, vào sáng ngày 20-1-1974 TC
đă xử dụng 2 chiến hạm loại Shanghai tác
xạ đại bác 37 ly lên hai đảo Cam Tuyền
và Hoàng Sa để yểm trợ cho cuộc hành quân
đổ bộ của bộ binh TC tiến chiếm
hai đảo này.
Điều nhận xét của G.Kosh cũng đă
được xác nhận qua bài viết của
Trần Thế Đức: “…2 tàu lớn của TC và
2 tàu đánh cá tiến lại đảo Hữu
Nhật (Cam Tuyền).
Từ hai tài liệu nêu trên đă xác nhận có 2
chiến hạm Shanghai II tham dự biến cố Hoàng
Sa trong ngày 20-1-1974.
Chiến
hạm chuyển vận
Trong Hải sử tuyển tập ghi nhận vào
khoảng 6 giờ 30 sáng ngày 19-1 có 1 tàu chuyên chở
TC ở phía Đông Nam đảo Duy Mộng,
khoảng 7 giờ, hai tàu đánh cá 402 và 407 mỗi
chiếc lấy khoảng 1 đại đội trên tàu
này, sau đó đổ bộ chúng lên bờ phía
Đông Bắc đảo Quang Ḥa, điều này phù
hợp với bài tường thuật trong báo NY times
ngày 20-1-1974.
Trong ngày 20-1, TC đă
xử dụng từ 4 đến 6 chiếc tàu đánh
cá Nan Yu để chở khoảng 5 đại đội
quân đổ bộ tấn công lên Cam Tuyền, Hoàng
Sa và Vĩnh Lạc, lần này 2 chiếc 402, 407 cũng
đă có mặt. Lực lượng đổ bộ
này chắc chắn cũng đă lấy từ
chiến hạm chuyên chở đă có mặt trong vùng
khoảng rạng sáng ngày 19-1.
HQ16 đến vùng
hoạt động ngày15-1, ngay sau đó đă phát
hiện 2 tàu đánh cá ngụy trang 402, 407 và 2
chiếc này đă hiện diện liên tục cho đến
ngày 20 tháng 1. Qua nhận xét của G. Kosh và từ bài
viết của các tác giả đă trực tiếp
quan sát th́ chúng có vẽ như là những tàu đánh
cá thông thường với thủy thủ đoàn
khoảng 15 người.
Như vậy chứng
tỏ là các tàu đánh cá Nan Yu đă được
phái đến HS với thủy thủ đoàn cơ
hữu, c̣n số quân lính được xử
dụng để đổ bộ lên đảo đă
túc trực sẵn trên tàu chuyển vận.
Để kết luận,
TC đă xử dụng ít nhất là một chiến
hạm để chuyên chở binh sĩ và quân cụ
từ đất liền ra Hoàng Sa và từ vị trí
an toàn ở phía ngoài ḷng chảo nhóm Nguyệt
Thiềm, lực lượng bộ binh trên tàu
được chuyển xuống các tàu đánh cá
ngụy trang Nan Yu để đưa đến
mục tiêu đă được chỉ định.
Dựa trên Jane’s 74-75, lực lượng chuyển
vận và đổ bộ của HQ/TC có 15 Dương
Vận Hạm và 13 Hải Vận Hạm (LST và LSM do
Hoa Kỳ đóng), ngoài ra c̣n 11 chiếc LST đă
được chuyển sang hàng hải thương
thuyền.
Năm 1971, TC bắt đầu đóng loại Yu Ling
giống như LSM nhưng dài hơn khoảng 50 ft, căn
cứ theo Jane’s 74-75, TC có 3 hay 4 chiếc loại này.
Đến nay vẫn chưa xác định loại và
số của chiến hạm chuyển vận đă
được dùng trong biến cố Hoàng Sa, tuy nhiên
với lực lượng bộ binh vào khoảng
một ngàn người có thể TC đă xử
dụng 1 chiếc LST hoặc để che dấu
sự theo dơi của không tuần Hoa Kỳ có thể
đây là chiếc LST đă được biến
đổi thành thương thuyền.
LỰC LƯỢNG
KHÔNG QUÂN
Từ các tài liệu và văn
thư chánh thức của chánh phủ VNCH, các bài tường
thuật của báo chí Hoa Kỳ, một số tài
liệu ngoại quốc và tài liệu TC, lực lượng
Không quân TC đă được ghi nhận có
những hoạt động sau đây trong biến
cố Hoàng Sa:
- Ngày 17-1-1974: lúc 19 giờ 40 một phi cơ lạ bay
ngang qua chiến hạm HQ4 của HQ/VNCH rồi bay
về hướng Đông Nam mất dạng (TC/CTCT).
- Ngày 19-1-1974: phi cơ lạ cũng đă được
ghi nhận xuất hiện trong vùng vào lúc hừng
đông và bay mất dạng về hướng
Bắc, HQ4 cũng quan sát thấy 3 phi cơ lạ bay
từ Bắc xuống Nam từ 06:00H đến 06:30H
(HSTT).
Các dẫn chứng về sự xuất hiện
của phi cơ lạ vào sáng ngày 19-1-1974 đă
được ghi chép qua các bài ‘Lần đào thoát
ở Hoàng Sa’ của Nguyễn Đông Mai, ‘Nhật
kư trận Hoàng Sa’ của Tất Ngưu và ‘Hoàng Sa
và HQ10’ của Hà Đăng Ngân.
Ngoài ra vào lúc 11:00 giờ, HQ5 phát hiện 2 phi cơ
giống như phản lực cơ Mig cách 5 hải lư
về hướng Đông Bắc.
Đặc san Lướt Sóng số đặc
biệt ‘Chiến Thắng Hoàng Sa’ trang 15:
“... đến 11 giờ 27 phút, qua màn ảnh radar không
thám, Trung Tâm Chiến Báo phát hiện và báo cáo
một phi đội phản lực cơ địch
đang trên đường tiến về đảo
Hoàng Sa…” (trùng hợp với sự phát hiện
của HQ5, nhưng khác thời gian).
Về phía TC bài viết ‘On January 19, 1974, Xisha defended
the war’ cũng đă đề cập đến
việc TC gởi 2 phi cơ đến Hoàng Sa thi hành
nhiệm vụ thám sát trong ngày 19-1-1974.
Ngày 20-1-1974: “… lúc 10 giờ 20 phút 4 phi cơ Mig 21 và
Mig 23 của TC đă oanh tạc các hải đảo
Hoàng Sa (Pattle), Cam Tuyền (Robert) và Vĩnh Lạc
(Money)”… đoạn viết này của TC/CTCT trùng
hợp với bài đăng trong New York Times ngày
21-1-1974 tường thuật lời tuyên bố của
Trung Tá Lê Trung Hiền Phát ngôn viên quân sự QL/VNCH.
Ngoài ra đặc san Lướt Sóng ‘Số đặc
biệt chiến thắng Hoàng Sa’ tác giả Phạm
Kim trong bài ‘Người về từ ngục tù Trung
Cộng’ viết theo lời kể của một nhân
viên HQ4 đă đổ bộ lên đảo Cam
Tuyền : “…khoảng 9 giờ 45 phút, anh Thắng và
các bạn đă thấy những hồi pháo kích như
mưa và cả bom của phi cơ dội xuống
quần đảo nhỏ ở gần đó.”
Điểm cần lưu ư là trong bức thơ do
Tổng Thống Nguyển Văn Thiệu gởi
Tổng Thống Nixon đề ngày 22-1-1974 (chuyển
qua trung gian Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Việt
Nam) và trong bản văn của Ngoại Trưởng
Vương Văn Bắc đọc trước các phái
đoàn Ngoại Giao trong ngày 21-1-1974, cả hai đều
đề cập đến việc Trung Cộng
xử dụng phi cơ oanh tạc các đảo Cam
Tuyền, Vĩnh Lạc và Hoàng Sa trong ngày 20-1-1974. Cho
đến nay thực sự vẫn chưa rơ từ
nguồn tin nào mà các giới chức thẩm quyền
cao cấp nhất của VNCH lại xác định là
phi cơ TC đă oanh tạc Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh
Lạc.
Trong Guide To Far Eastern Navies dựa theo lời tường
thuật từ Bắc Kinh: “… phản lực cơ
Mig 23 từ đảo Hải Nam cách xa khoảng 130
miles đă cung cấp không yểm ...”.
Tài liệu TC ‘On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed
solution’ đă nói đến việc TC gởi
phản lực cơ và oanh tạc cơ để che
chở cho lực lượng đổ bộ trong ngày
20-1-1974. Điều cần ghi nhận là 2 tài liệu
trên không nói đến việc phi cơ TC đă
trực tiếp tham dự oanh tạc hoặc tác
xạ vào các vị trí của quân trú pḥng VNCH trên 2
đảo Hoàng Sa và Cam Tuyền, nhận xét này
rất phù hợp với G. Kosh trong tài liệu của
BLQ/HK/PTB:
“…không có những cuộc oanh kích nào để
yểm trợ cho quân TC hay VNCH. V́ khoảng cách
giữa 5 đảo của nhóm Nguyệt Thiềm tương
đối ngắn, Kosh có thể phát hiện
được sự yểm trợ của loại phi
cơ có khả năng tác chiến cao ở bất
cứ nơi nào trong nhóm Nguyệt Thiềm…”
Bài viết của Bí Thư Thắng ‘Tôi đă đến
đó’, không thấy đề cập đến
sự xuất hiện của phi cơ: “chúng tôi toàn
thể 14 thủy thủ thuộc Khu trục hạm
Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng đảo Cam
Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng
với hỏa lực khủng khiếp từ hạm
đội địch cũng như lực lượng
hùng hậu của địch đổ bộ...”
Trần Thế Đức trong Hoàng Sa qua những nhân
chứng diễn tả rơ hơn: “...tàu TC bắn vào
Hoàng Sa (Pattle). Anh
em ra rừng và các đống phân nằm bố trí. Có
cả tiếng máy bay phản lực rít lên nữa…)
Với kinh nghiệm và khả năng ghi nhận
của G. Kosh, thêm vào dẫn chứng từ hai bài
viết nêu trên, ta có thể kết luận là trong
biến cố Hoàng Sa, Trung Cộng không xử dụng
phi cơ trực tiếp thi hành công tác oanh tạc và
tác xạ để yểm trợ cho lực lượng
Hải Quân và Bộ Binh, tuy nhiên họ đă
chuẩn bị sẵn để xử dụng chúng
khi cần cũng như đă xử dụng một
số phi cơ vào công tác thám sát và biểu dương
lực lượng để uy hiếp tinh thần các
chiến sĩ VNCH.
Lời chú thích:
Về phía VNCH, nhân chứng thẩm quyền nhất là
Thiếu Tá Nguyễn Văn Hồng trưởng toán Công
Binh đă có mặt trên đảo Hoàng Sa và đă
bị Trung Cộng bắt làm tù binh trong ngày 20-1-1974.
Ông đă xác nhận trong lần tiếp xúc tại tư
gia ông vào năm 2005 là phi cơ Trung Cộng không có
dội bom đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa trong ngày
20-1-1974.
LỰC
LƯỢNG BỘ BINH
Với
mưu đồ chiếm đoạt quần đảo
Hoàng Sa (HS), TC đă xử dụng bộ binh phối
hợp với hải quân và lực lượng dân quân
hàng hải để thực hiện các cuộc hành
quân đổ bộ quân lính lên các đảo trong nhóm
Nguyệt Thiềm.(xin xem chi tiết trong bài TC đổ
bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa trên trang hqvnch.net)
Hoạt động của bộ binh TC đă
được ghi nhận trên các đảo sau đây:
- Đảo Quang Ḥa (Duncan) : Ngày 16-1, HQ16 quan sát
thấy trên đảo Quang Ḥa (Duncan) đă bị TC
chiếm đóng, có cḥi canh, vọng gác, cờ TC.
Tài liệu BLQ/HK/PTB cho là TC đă đổ bộ lên
đảo Quang Ḥa trong ngày 11 hay 17-18 tháng 1 (không xác
định rơ) với quân số 1 đại đội.
Tài liệu TC/CTCT cũng có con số tương
tự : “…8: 30 ngày 19-1, 2 toán Biệt Hải
thuộc QL/VNCH gồm 74 người đổ bộ lên
đảo Quang Ḥa và bị hơn 1 đại đội
vơ trang vũ khí đủ loại tấn công.”
Hải Sử Tuyển Tập th́ cho là vào khoảng 2
đại đội : “tàu TC 402 & 407 đổ
bộ tăng cường khoảng 2 đại đội
lên bờ phía Đông Bắc đảo Quang Ḥa”.
Báo New York Times ngày 20-1-1974 viết :”…Phát ngôn viên quân
sự QL/VNCH Trung Tá Lê Trung Hiền tuyên bố TC đă
đưa 750 lính và 11 chiến hạm gồm có
chiến hạm chuyên chở quân lính và khu trục
hạm trang bị phi đạn vào khu vực đảo
Quang Ḥa. Ông c̣n cho biết thêm là TC đă đổ
bộ 1 Tiểu đoàn khoảng 600 quân lính lên đảo
Quang Ḥa…”
Các dẫn chứng kể trên không nêu rơ xuất
xứ của các nguồn tài liệu về con số
quân lính và chiến hạm. Điều dễ hiểu
là để đề pḥng các chiến hạm VNCH
đưa quân lên tái chiếm đảo th́ việc
TC xử dụng từ 1 đến 2 đại đội
trên đảo Quang Ḥa là rất hợp lư. Ngoài ra cũng
cần lưu ư là mặc dù HQ16 phát hiện đảo
Quang Ḥa đă bị quân lính TC chiếm đóng vào ngày
16-1 nhưng trên thực tế chúng đă chiếm
đảo này vào khoảng vài ngày trước đó,
v́ theo chiến thuật vết dầu loang sau khi đă
cũng cố xong hệ thống pḥng thủ trên đảo
Quang Ḥa, ngày 15-1 chúng bèn lấn sang đảo Cam
Tuyền.
- Đảo Cam Tuyền: chiều ngày 15-1, HQ16 phát giác
1 ghe đánh cá TC mang số 402 đưa một số
người người lên đảo Cam Tuyền
(Robert) cắm cờ và dựng lều, chiến
hạm dùng quang hiệu đuổi họ rời
khỏi đảo nhưng vô hiệu. Tuy nhiên trong ngày
17-1, sau khi HQ4 đưa toán Biệt Hải đổ
bộ lên phía Tây đảo th́ toán lính TC đă
rời khỏi đảo. Nhưng sau cùng trong ngày
20-1, TC lại xử dụng 2 đại đội
đổ bộ tấn công chiếm đảo.
- Đảo Hoàng Sa: TC đă dùng 2 đại đội
để tấn công vào đảo
- Đảo Vĩnh Lạc: có lẽ TC đă biết
trước sẽ không gặp phải 1 sự
chống cự nào nên chúng chỉ xử dụng 1
đại đội đổ bộ lên đảo Vĩnh
Lạc
Về phía TC không t́m thấy tài liệu viết
về lực lượng bộ binh đă xử
dụng trước ngày 20-1-1974, nhưng trong bài ‘On
January 1974 Xisha Defended the War’ có viết là TC đă dùng
tổng cộng 500 lính trong ngày 20-1-1974, và trong Guide To
Far Eastern Navies qua lời tường thuật từ
Bắc Kinh th́ vào khoảng 600 lính đổ bộ
tấn công đă ở trên các tàu khác nhau.
Các con số này cũng gần đúng với con
số 600 người từ tài liệu của
BLQ/HK/PTB (TC đổ bộ 2 đại đội lên
đảo Cam Tuyền, 2 đại đội lên
đảo Hoàng Sa và 1 đại đội lên đảo
Vĩnh Lạc). Ngoài 5 đại đội đă
xử dụng trong ngày 20-1, TC c̣n phải duy tŕ
khoảng hơn 1 đại đội để pḥng
thủ đảo Quang Ḥa.
Do đó có thể đi đến kết luận là
Trung Cộng đă dùng một lực lượng
bộ binh tổng cộng vào khoảng gần 1,000 người
trong biến cố Hoàng Sa.
Thành
phần và các đơn vị tham dự:
TC cho biết là lực lượng đổ bộ
gồm có bộ binh và dân quân. Tuy nhiên theo nhận xét
của G.Kosh (trong tài liệu BLQ/HK/PTB) th́ với
hiệu quả và kỷ luật mà lực lượng
này đă chứng tỏ qua các cuộc đổ
bộ tấn công, TC đă xử dụng quân lính
lấy từ các đơn vị chánh quy hay địa
phương mà đến nay vẫn không xác định
được danh xưng.
Tài
liệu tham khảo:
- Bảo Biển Thái Văn A ‘Hạm Đội
HQ/QLVNCH - Hải chiến Hoàng Sa’ (Melbourne, Úc 1990)
- Barry M. Blechman and Robert P. Berman, Guide To Far Eastern Navies (US
Naval Institute Press Annapolis, Maryland 1978)
- Bí thư Thắng ‘Tôi đă đến đó’
đặc san Lướt Sóng số 73 năm 1998
(Hội Ái Hữu HQ Bạch Đằng miền
Bắc California)
- Bộ Lục Quân Hoa Kỳ-Văn Pḥng Phụ Tá Tham
Mưu Trưởng về T́nh Báo (viết tắt là
BLQ/HQ/PTB) ‘Trung Cộng đổ bộ tấn công
quần đảo Hoàng Sa tháng 1-1974’ (hqvnch.net)
- Chinese Defence Today
- Conway’s All The World’s Fighting Ships 1947-1982 / Part II The
Warsaw Pact and Non-Aligned Nations (Naval Institute Press, 1983)
- Điện thư số 00910 ngày 21-01-1974 của Ṭa
Đại Sứ Mỹ Saigon
- Điện thư số 1035 ngày 23-1-1974 của Ṭa
Đại Mỹ Saigon
- Hà Đăng Ngân ‘Hoàng Sa và HQ 10’ (hqvnch.net)
- Hà Văn Ngạc ‘Trận hải chiến lịch
sử Hoàng Sa’ (Hải Sử Tuyển Tập (HSTT) –
Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (TH/HQHH)
ấn hành 2004
- Jane’s Fighting Ships
- Kiem Do and Julie Kane ‘Counterpart, A South Vietnamese Naval
Officer’s War’ (Naval Institute Press, Annapolis, Maryland – 1998)
- Kronstadt Class/Project 122-B (Russianwarrior.com)
- Lê Văn Thự ‘Sự thật về trận
hải chiến Hoàng Sa’ (Calitoday, March 08, 2004)
- Liu Bingfeng ‘On January 19, 1974 Xisha defended the war’(military.china.com)
- Lướt Sóng ‘Số đặc biệt Chiến
thắng Hoàng Sa’ ( Khối CTCT/P.Tâm Lư Chiến
BTL/HQ/VNCH ấn hành 1974).
- Nasog.net/datasheets/warships
- Navsource Naval History ‘Serene (MSF 300)’
- Naval Weapons of the World
- Nguyễn Đông Mai ‘Lần đào thoát ở Hoàng
Sa’ (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Phạm Mạnh Khuê ‘Hành quân Trần Hưng Đạo
47’ (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Sidney Trevethan ‘Prognosis for China’ (Federation of American
Scientists)
- The New York Times ‘Sunday, January 20, 1974 và Monday, January 21,
1974’
-Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/CụcTâm Lư
Chiến ‘Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng
Hoàng Sa’ của VNCH (TC/CTCT/C.TLC ấn hành 1974).
- Trần Đại Sỹ ‘T́m hiểu trận
hải chiến Hoàng Sa 19/01/1974’ (www.hqvnch.net)
- Trần Kim Diệp ‘Bên lề trận hải
chiến Hoàng Sa’ (T́nh đại dương- bản
tin K17/SQHQ/NT tháng 7/2004)
- Trần Thế Đức ‘Hoàng Sa qua những nhân
chứng’ (Calitoday.com – 2004)
- Type 6604 Kronstadt (woodsbear.blogchina.com)
- Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm, ‘Tài
Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’ ấn hành 2004
tại Hoa Kỳ.
- Vương Văn Hà ‘Người về từ Hoàng
Sa” (HSTT-TH/HQHH, 2004)
- Wikipedia : ‘Type 010 class minesweeper”, “Kronstadt class
submarine chaser’, ‘Type 62 class gunboat’, ‘Type 037 class
submarine chaser’ ‘Jiangnan class (Type 065)’
- Xinhui ‘Type 037 (Hainan) Family Sub-Hunter Patrol’, ‘PLAN Type 62
Coastal Defense Boat’ (China Defense.com)
- Xisha naval battle detailed solution (Military.china.com) |