Toàn bộ tranh chấp của các quốc gia trên quần đảo Trường Sa Trúc Giang MN |
1* Mở bài
Biển Đông dậy sóng là do Trung Cộng quậy phá tơi bời mà nạn nhân đầu tiên là Việt Nam và đau nhất là do người thầy tin cẩn, người đồng chí anh em trên 16 chữ vàng và 4 tốt giáng cho quư đồng chí Hán ngụy những đ̣n nháng lửa xiểng niểng. Tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa gồm có: Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và thủ phạm gây ra cớ sự chính là Trung Cộng. 2* Tổng quát về Quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) Quần đảo Trường Sa là một nhóm đảo có hơn 148 đảo nhỏ, gồm các đảo san hô, đảo đá ngầm, băi cạn, cồn, nằm rải rác rời nhau trên một diện tích biển gần 410,000 Km2. Đường dài trên biển 926 Km. Quần đảo nầy nằm ngoài khơi ngang hàng với những tỉnh của Nam bộ VN, từ Sàig̣n đến Cà Mau. Chưa có hải cảng nào nhưng đă có 4 đường băng trên các đảo. Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một số thủy thủ từ Âu châu ghé vào quần đảo nầy, trong đó có thủy thủ tên Richard Spratly, cho nên quần đảo nầy mang tên tiếng Anh và được quốc tế công nhận. V́ có hơn 100 ḥn đảo rời rạc nhau cho nên ngư dân các nước trong vùng biển Đông đến đó khai thác hoặc cư trú, v́ thế, hiện nay có nhiều nước xác định chủ quyền của ḿnh trên quần đảo Trường Sa nầy. Việt Nam, Đài Loan và Trung Cộng, mỗi nước tuyên bố chủ quyền của ḿnh trên toàn bộ quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, Brunei, Philippines và Malaysia mỗi nước tuyên bố chủ quyền một phần của quần đảo. Mỗi nước tranh chấp đưa quân đội của ḿnh đến đóng từng phần của Trường Sa. Riêng Trung Cộng, ngoài tài nguyên thiên nhiên của khu vực, Trường Sa c̣n là một vị trí chiến lược để kiểm soát con đường hàng hải quốc tế nối liền Ấn Độ Dương đến Thái B́nh Dương, thông qua eo biển hẹp Malacca, nằm giữa 2 đảo của Indonesia và Malaysia, cho nên TC cố chiếm cho được quần đảo nầy. Đó là TC cho tàu chiến đến bảo vệ và cho xây cất căn cứ quân sự, sân bay...Đồng thời, lập cơ quan hành chánh để quản lư 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở tỉnh Hải Nam. 3*Trường hợp nào Đài Loan chiếm đảo Ba B́nh ở Trường Sa 3.1. Ba B́nh thuộc nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam Năm 1932, Pháp chiếm đảo Ba B́nh và xem nó là một phần của lănh thổ Việt Nam dưới quyền cai trị của Pháp ở VN. Trước thế chiến 2, Pháp xây một đài quan trắc khí tượng ở Ba B́nh. Đài nầy thuộc tổ chức khí tượng quốc tế, nên nó là bằng chứng Việt Nam có chủ quyền trên ḥn đảo nầy. 3.2. Trường hợp nào Đài Loan chiếm đóng Ba B́nh ở Trường Sa? 3.2.1. Trường hợp 1 Trong thế chiến 2, Nhật chiếm đảo Ba B́nh làm căn cứ tàu ngầm mà Bộ chỉ huy đặt tại thành phố Cao Hùng, ở phía Nam của đảo Đài Loan, cho nên mọi liên lạc quân sự của Nhật ở Ba B́nh đều thuộc về bộ chỉ huy quân sự của Nhật ở Đài Loan, xem như sát nhập Ba B́nh vào Đài Loan về mặt quân sự. Năm 1946. Sau khi bị bại trận, Nhật trả Ba B́nh cho Đài Loan, mà trong thời gian đó, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch c̣n quyền cai trị trên toàn bộ lănh thổ Trung Hoa, và Ba B́nh được đặt dưới sự quản lư của tỉnh Quảng Đông. Năm 1949. Mao Trạch Đông lên nắm quyền cai trị trên Lục địa. Trung Hoa Dân Quốc thua trận, chạy ra Đài Loan và kiểm soát luôn đảo Ba B́nh cho tới ngày nay. 3.2.2. Trường hợp 2 Năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) của Tưởng Giới Thạch đưa 4 chiến hạm, phát xuất từ cảng Ngô Tùng, đến chiếm đảo Hoàng Sa ngày 29-11-1946. Chính phủ Pháp phản đối việc chiếm đóng bất hợp pháp đó của THDQ. Ngày 17-10-1947, Pháp đưa chiến hạm Tonkinois đến Hoàng Sa, yêu cầu rút quân, nhưng THDQ từ chối. Pháp gởi một phân đội lính, trong đó có lính Quốc Gia VN đến đóng đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa) Năm 1947. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 15-8-1945, Tưởng Giới Thạch được Hiệp Định Postdam giao cho quyền tước khí giới quân Nhật ở VN, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Họ Tưởng chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée-[Pháp]) cuối năm 1946, và chiếm đảo Ba B́nh năm 1947. 3.3. Việt Nam làm chủ toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa Năm 1950, Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 14-10-1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền quản lư Hoàng Sa, Trường Sa lại cho chính phủ Bảo Đại. Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo chủ tọa cuộc chuyển giao quyền hành trên hai quần đảo HS/TS. Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là lănh thổ của Việt Nam. Sau năm 1950, 2 quần đảo HS/TS không c̣n quân đội ngoại quốc nào đóng trên đó cả, mà chỉ có Quân đội Quốc Gia của Chính Phủ Bảo Đại đồn trú trên đó mà thôi. Năm 1956 Trung Hoa Dân Quốc trở lại chiếm đảo Ba B́nh cho đến hiện nay. Theo Hiệp Định Genève năm 1954, 2 quần đảo HS/TS ở dưới vĩ tuyến 17, nên thuộc quyền quản lư của Việt Nam Cộng Ḥa. 4*
Đảo Ba B́nh do Đài Loan quản lư 4.1.
Tổng quát về đảo Ba B́nh Ba
B́nh là tên do VN đặt. Tên quốc tế là Itu Aba
và tên Đài Loan là Thái B́nh. Ba
B́nh là đảo lớn nhất trong quần đảo
Trường Sa. Chu
vi: 2.8km. Diện tích: 43.2 hecta, có ṿng đai san hô chung
quanh đảo. Chiều
dài: 1.47km. Rộng: 500m. Độ cao trung b́nh so với
mặt nước biển là 2.8m. Trên đảo có
dừa, chuối, đu đủ, cây cọ cao 7m và
nhiều bụi rậm. Những
xây dựng trên đảo: -
1 ngọn hải đăng -
Các trạm thời tiết, trạm phát thanh -
Sân bay, giếng nước… Ngoài
đảo Ba B́nh, Đài Loan c̣n có quân trú đóng trên
đảo Bàn Than (Ban Than Jiao) với những công tŕnh
xây dựng và pḥng thủ. 4.2.
Đài Loan đưa hỏa tiễn, xe tăng tới
đảo Ba B́nh Ngày
12-6-2011, phát ngôn viên quân đội Đài Loan cho
biết, họ sẽ triển khai tàu hỏa tiễn
Seagull và xe tăng đến đảo Ba B́nh, v́ quan
ngại lực lượng bảo vệ Ba B́nh không
đủ khả năng đối phó với
những xung đột ở Biển Đông. Đồng
thời 150 TQLC cũng dược điều đến
đó. Đài
Loan đang chiếm đóng đảo Ba B́nh, đảo
lớn nhất trong quần đảo Trường Sa,
đă không tham gia các cuộc đàm phán song phương
hoặc đa phương liên quan đến vấn
đề chủ quyền ở Biển Đông. 4.3.
Đường băng trên đảo Ba B́nh Ngày
24-1-2008, phi cơ vận tải quân sự C-130 đáp
xuống đảo Ba B́nh. Đường băng
bằng bê tông dài 3,800 bộ, rộng 100 bộ,
được xây dựng năm 2005. Ngày
2-2-2008, Tổng thống Trần Thủy Biển đến
thăm đảo Ba B́nh, mục đích xác định
chủ quyền của Đài Loan trên đảo
nầy. Ngày
25-5-2014 hăng tin Reuters dẫn lời các quan chức
Đài Loan cho biết họ sẽ bỏ ra 100
triệu USD để xây một bến cảng cho
những tàu chiến có độ choán nước trên
3,000 tấn. Đồng thời nâng cấp đường
băng từ 1,200m lên 1,500m. Việt
Nam phản ứng mạnh mẽ, nhưng chỉ là
phản ứng lấy lệ mà thôi, v́ không có kèm
theo biện pháp trừng phạt hoặc trả đủa
nào cả. Các
nước có đường băng trên quần
đảo Trường Sa. VN
có đường băng ở đảo Nam Yết và
Trường Sa Lớn. Malaysia
có đường băng trên đảo Đá Hoa Lau Philippines
có phi đạo trên đảo Song Tử Đông. 5*
Philippines và quần đảo Trường Sa 5.1.
Tổng quát về nước Philippines Philippines
là một quần đảo gồm 7,107 ḥn đảo,
trải dài 1,210 km, chia thành 3 nhóm đảo: Luzon,
Visaya và Mindanao, trong đó 700 đảo có người
ở. Diện
tích: 300,000km2. Dân
số: 87,857,473 người. Thủ
đô: Manila Ngôn
ngữ: Tiếng Tagalog và tiếng Anh. Nhiều
núi lửa đang hoạt động. 5.2.
Philippines tuyên bố chủ quyền trên Trường
Sa Ngày
15-5-1956, một công dân Philippines tên Tomas Cloma tuyên
bố thành lập nhà nước mới tên là
Kalayaan. Nhà nước nầy trải ra toàn bộ phía
Đông của quần đảo Trường Sa,
tức là phía Tây của đảo quốc Philippines,
gồm các đảo Ba B́nh, Pagasa (Thị Tứ) và
đảo Nam Yết. Tháng
7 năm 1956, Tomas Cloma lập ra một thuộc địa,
đặt thủ đô tại đảo Pagasa
(Thị Tứ), mà Tomas Cloma là Chủ tịch Hội
Đồng nhà nước Kalayaan. Hành động
nầy của Cloma bị các nước xem là hành
động gây hấn của Philippines về việc
chiếm các đảo. Sự
phản ứng quốc tế xảy ra. Đài Loan,
Trung Cộng, VNCH, Pháp, Anh và Hoà Lan lên tiếng
phản đối. Hoà Lan phản đối v́ họ
coi Trường Sa là một phần của nước
New Guinea là thuộc địa của họ. Nhân
vụ nầy, Đài Loan đưa hải quân đến
đồn trú trên đảo Ba B́nh. 5.3.
Tổng quát về đảo Pagasa (Thị Tứ) Pagasa
là tên do Philippines đặt. Tên quốc tế là Thitu
Island. Tên VN là Thị Tứ. Là một trong những
đảo lớn của Trường Sa. Đảo
được che phủ bởi những cây to và
nhiều loại thực vật. Dân
cư: 300 gồm trẻ em. Binh sĩ: 40. Một
đường băng, một bến tàu, nhà máy
lọc nước, nhà máy diện và một tháp
truyền thông thương mại. 5.4.
Philippines đang chiếm đóng đóng các đảo
ở Trường Sa Hiện nay, Philippines chiếm đóng trên 7 đảo, 2 băi đá ch́m và 1 đảo nhỏ: - Đảo B́nh Nguyên (là tên VN), tên quốc tế là Flat Island. -
Đảo Thị Tứ (Thitu island) -
Đảo Loại Ta (Loaita island) -
Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay) -
Đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island) -
Đảo Bến Lạc (West York island) -
Cồn san hô Lan Can (Lankiam Cay) -
Đảo Cá Nhám (Irving reef) -
Đá Công Đo (Commodore Reef) Đầu
năm 1971, Philippines nhân danh Tomas Cloma gởi một công
hàm đến Đài Loan, yêu cầu rút quân khỏi
Ba B́nh. Ngày
10-7-1971, Tổng thống Ferdinand Marcos thông báo sát
nhập 53 ḥn đảo mà họ gọi là quốc
gia Kalayaan, mặc dù cà Cloma và Marcos không chỉ rơ
đó là những đảo nào. Người Phi
chủ trương tuyên bố chủ quyền càng
nhiều càng tốt. Tháng
4 năm 1972, Kalayaan chính thức sát nhập vào
tỉnh Palawan. Năm
1977, Phi đưa quân đến đánh chiếm Ba B́nh
nhưng bị quân Đài Loan đẩy lui. Năm
2005, một trạm điện thoại di động
được xây dựng trên đảo Pagas (Thitu
island- Thị Tứ) bởi công ty Smart Communications
của Philippines. Một
lư do khiến cho Philippines tuyên bố chủ quyền
trên các đảo đó v́ nó nằm trong Khu Đặc
Quyền Kinh Tế (EEZ) 200 hải lư của nước
nầy. 6*
Các đảo ở Trường Sa do Trung Cộng
quản lư Trung
Cộng chiếm 9 băi đá ch́m -
Đá Châu Viên. Tên quốc tế là Cuarteron Reef).
Chỉ có đá san hô, cao nhất 1.5m. Chiếm đóng
năm 1988. -
Đá Chữ Thập. (Fiery Cross Reef). Diện tích
8,080 dăm vuông. Mỏm đá cao 1m. Tất cả ch́m
xuống nước khi triều dâng. Xây 1 cảng
hải quân bằng cách cho nổ san hô rồi dồn
lại thành đống. Có 1 phi đạo, 1 trạm
quan sát hàng hải. -
Đá Ga ven. (Gaven Reef). Tất cả ch́m xuống
nước khi thủy triều dâng. Gồm một
đụn cát và băi đá ngầm. Trên mặt băi
đá, được xây trải ra một lớp xi măng
làm nền. Nhiều căn nhà 2 tầng được
xây trên nền xi măng. Con người ở tầng
trên. -
Đá Gạc Ma. (Johnson South Reef). Nằm cách băi
Đá Co Lin của VN 6km. Băi đá chỉ nhô lên
mặt nước khi thủy triều xuống.
Chiếm năm 1988. -
Đá Vành Khăn. (Mischief Reef). Chỉ có vài
mỏm đá nhô lên khi thủy triều xuống,
tức là khi triều lên th́ băi đá hoàn toàn ch́m dưới
mặt nước. Có một hệ thống pḥng
thủ bằng gỗ treo cao trên những cột
trụ. -
Đá Su Bi. (Subi Reef). Nằm cách đảo
Thị Tứ (Thitu island) của Philippines 26km. Chỉ nh́n
thấy, khi mực nước rút xuống. Trung
Cộng xây nhiều căn nhà 3 tầng, bến tàu và
một băi đáp trực thăng. -
Đá Ba Đầu. (Whitson Reef). Nhiều mỏm
đá nhô lên mặt nước khi thủy triều
xuống, tức là nước ngập toàn băi. -
Đá Huy Cơ. (Hughes Reef). Chỉ nổi lên khi
triều xuống. Nhiều nhà treo để đóng quân.
Chiếm năm 1988. Trong
trận “hải chiến” ngày 14-3-1988, Tổng Bí Thư
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn
Đồng (đến Thành Đô ngày 3-9-1990 xin làm
khu tự trị thuộc Bắc Kinh) và Hải quân
CSVN đă hèn nhát dâng một số đảo trên cho
Trung Cộng. Trung
Cộng không có bằng chứng cụ thể và
vững chắc nào để chứng minh là có
chủ quyền trên các quần đảo HS/TS cả.
Họ chỉ nói là lịch sử cho biết, thời
nhà Tống th́ 2 quần đảo nầy đă
thuộc về Trung Hoa. Rồi đem những miểng
chén, miểng sành không biết lấy từ đâu ra
để cho biết rằng thời kỳ đó,
đă có người Tàu sống trên các đảo
nầy. Thế
mà tay VC Ung Văn Khiêm, chưa bao giờ trông thấy
những “miểng sành” đó ra sao, mà cũng nâng
bi “Theo những dữ kiện lịch sử của
VN, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là
một bộ phận lịch sử của lănh
thổ Trung Quốc”.Và ông Lê Lộc, thuộc Bộ
Ngoại Giao VC cũng vuốt đuôi:”Xét về
mặt lịch sử th́ các quần đảo
nầy hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ
thời nhà Tống”. Thật
ra, những mảnh vở của đồ sành, đồ
sứ mà TC trưng ra, có thể đúng là của các
quan thái thú Tàu đă cai trị VN hơn 1,000 năm.
Nếu căn cứ vào người Tàu có mặt
ở lănh thổ, lănh hải VN làm bằng chứng là
lănh thổ đó thuộc Trung Hoa, th́ có thể nói VN
thuộc về nước Pháp, v́ người Pháp cũng
đă có mặt và sinh sống ở VN trên 80 năm. 7*
Trung Cộng xây đảo nhân tạo để
khống chế Biển Đông 7.1.
Đảo nhân tạo Đảo
nhân tạo (Artificial island hoặc Man-made island) là
một đảo do con người dùng đất,
đá bồi đắp vào đảo có sẵn,
mở rộng diện tích để biến đảo
nhỏ thành đảo lớn hơn. 7.2.
Trung Cộng xây đảo nhân tạo 5 tỷ USD
ở Biển Đông Tờ
Bưu điện Hoa Nam (Hongkong) đưa tin, Trung
Cộng sẽ xây một đảo nhân tạo 5
tỷ USD gồm một cầu cảng, một sân bay,
các công tŕnh xây dựng của một căn cứ quân
sự bao gồm một văn pḥng, một khu nhà
nghỉ tập thể, một pḥng thể thao và
những kho chứa nhu yếu phẩm quân sự. Đảo
nhân tạo nầy to gấp hai lần căn cứ
Diego Garcia của Mỹ ở Ấn Độ Dương
có diện tích 44km2. Hăng
tin Bloomberg cho biết Philippines đă công bố
những ảnh chụp cho thấy Trung Cộng đang
chuyển vật liệu xây cất đến đảo
Gạc Ma (Johnson Reef). Một số học giả Trung
Cộng th́ cho rằng một đảo nhân tạo
sẽ được xây ở Đá Chữ Thập
(Fiery Cross Reef) 7.3.
Ư đồ khống chế Biển Đông của
Trung Cộng Đảo
nhân tạo phục vụ cho những công tác như:
Tiếp tế cho tàu bè và các giàn khoan trong khu vực.
Mở rộng sức mạnh quân sự để
kiểm soát Biển Đông. Giúp cho chiến đấu
cơ hoạt động lâu dài trong khu vực, v́ các
đảo trong Trường Sa cách lục địa
quá xa, trên 1,500 dặm, đồng thời xây dựng
một vùng nhận dạng pḥng không ADIZ (Air Defense
Identification Zone). Vùng
nhận dạng pḥng không là vùng trời do một
quốc gia tự ấn định và đ̣i hỏi
phi cơ dân sự phải khai báo vị trí, “lư
lịch” để nhận diện và chịu sự
kiểm soát trước khi bay vào vùng trời đó.
Nó không phải là không phận nhưng được
coi như vùng bảo đảm an ninh cho một
quốc gia, chống lại những tấn công
bất ngờ bằng phi cơ. Trung
Cộng từng bước gia tăng sức mạnh
quân sự ở Biển Đông và sẽ thành công
trong việc kiểm soát vùng biển h́nh lưỡi ḅ,
nếu như chiến lược xoay trục của
Tổng thống Obama không được thi hành
một cách có hiệu quả. Đảo
nhân tạo nầy là mối đe dọa trực
tiếp đối với Việt Nam. 8*
Philippines và Trung Cộng tranh chấp băi cạn
Scarborough 8.1.
Tổng quát về băi cạn Scarborough Scarborough
Shoal (hoặc Scarborough Reef) là một băi san hô h́nh ṿng
tṛn gồm nhiều đá ngầm và đá nổi cách
vịnh Subic (Philippines) 198km, nằm trong quần đảo
Trường Sa ở Biển Đông. Băi
đá nầy mang tên một thương thuyền buôn
trà bị đắm ngày 12-9-1784, mọi người
trên tàu đều thiệt mạng. Băi
nầy được tạo thành bởi một
chuỗi san hô h́nh ṿng tṛn, chu vi 55km, diện tích
150km2. Một vài ḥn đá nhô lên từ 0.5m đến
3m. Nhiều rạn đá ngầm ch́m xuống dưới
mặt nước khi thủy triều lên. Băi
cạn nầy cách đảo lớn Luzon của Phi
220km và cách Trung Cộng 800km. Hiện
tại, Đài Loan, Trung Cộng và Philippines tranh
chấp về chủ quyền của băi cạn
nầy. 8.2.
Tranh chấp băi cạn Scarborough 1).
Hai bên tranh căi về chủ quyền trên băi cạn
Scarborough Philippines
cho rằng họ đă chính thức làm chủ băi
nầy từ năm 1965 bằng chứng là họ
đă xây một hải đăng bằng kim loại
trên đó. Hơn nữa, băi nầy nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế 200 hải lư của Công
Ước về luật biển của LHQ. Trung
Cộng đưa ra tấm bản đồ cổ làm
bằng chứng là băi cạn nầy đă thuộc
về Trung Hoa từ thế kỷ 13. Băi
cạn nầy không có người ở. Trước
tháng 4 năm 2012, Trung Cộng và Phi không có mặt thường
trực ở băi nầy. Ngư dân Việt Nam,
Philippines và Trung Hoa đă từng đến khu vực
nầy để khai thác hải sản. 2).
Tranh chấp giữa Trung Cộng và Philippines về băi
cạn Scarborough Từ
những năm 2000 hải quân Phi đă ngăn
chặn và bắt giữ những ngư dân Trung Hoa
đi vào khu vực nầy. Ngày
10-4-2012 soái hạm BRP Gregorio del Pilar ra ngăn chận tàu
cá của ngư dân Trung Hoa nhưng bị 2 tàu hải
giám của Trung Cộng ngăn cản. Kể
từ đó, tàu của chính phủ hai bên có mặt
thường xuyên tại vùng Scarborough. Cuối tháng 5
năm 2012 Trung Cộng đưa 7 tàu hải giám và
những tàu của Ủy ban Nghề cá bảo vệ
cho tàu cá ngư dân gia tăng hoạt động đánh
bắt cá mạnh hơn. 3).
Trung Cộng chiếm băi Scarborough Tổng
thống Benigno Aquino III tố cáo Trung Cộng đang xây
75 cột khối bê tông chuẩn bị cho công tŕnh xây
cất trên băi cạn nầy. Bắc Kinh bác bỏ cáo
buộc và khẳng định chủ quyền không
thể chối căi được của họ trên băi
cạn Scarborough. Tháng
4 năm 2014, Trung Cộng xử dụng sức mạnh
kinh tế: cấm du khách đến Phi và áp dụng
những biện pháp kiểm tra ngặt nghèo lên
việc nhập cảng chuối, mặt hàng chủ
yếu xuất khẩu của Phi. Giữa
tháng 5 năm 2014, căng thẳng bắt đầu
giảm dần. Trung Cộng dỡ bỏ kiểm
dịch mặt hàng chuối, và Phi cử lại đại
sứ đến Bắc Kinh. Hai bên thỏa thuận rút
tàu ra khỏi vùng tranh chấp. Phi thi hành giao ước,
nhưng trái lại, Trung Cộng chẳng những không
rút tàu mà c̣n thiết lập chướng ngại
vật ngăn cản tàu bè đi vào khu vực tranh
chấp bằng cách dùng dây thừng buộc vào
những cái phao đặt trước cửa ra vào
duy nhất, giăng dây không cho tàu bè xâm nhập vào vùng
tranh chấp. Trung Cộng chiếm quyền quản lư
Scarborough từ đó. Philippines
đưa đơn ra ṭa án quốc tế kiện
Trung Cộng, nhưng nước nầy khẳng định
chủ quyền không thể tranh căi được
ở Scarborough mà họ đặt tên là Hoàng Nham, cho
nên không tranh tụng, không tranh căi. 9*
Thoả thuận quốc pḥng giữa Mỹ và
Philippines (EDCA) Thỏa
thuận tăng cường hợp tác quốc pḥng
Mỹ-Philippines (EDCA) được kư ngày 28-4-2014
giữa Bộ trưởng Quốc pḥng Phi Voltaire
Gazmin và Đại sứ Mỹ ở Manila là Philip
Goldberg. (EDCA=The
Enhanced Defense Cooperation Agrement) Nội
dung thỏa thuận là quân đội Mỹ sẽ luân
phiên đóng quân và xử dụng những căn
cứ quân sự của Phi trong 10 năm mà không
phải trả tiền thuê như trước kia,
đă trả mỗi năm 203 triệu USD cho căn
cứ KQ Clark và căn cứ HQ Subic. 9.1.
Nội dung của thỏa thuận không rơ ràng Thỏa
thuận chỉ là cái khung tổng quát. Khi kư th́
Tổng thống Obama tuyên bố: “Mục tiêu của
chúng tôi không phải là để chống lại và
kiềm chế Trung Quốc. Mục tiêu của chúng tôi
là bảo đảm quy tắc luật pháp quốc
tế bao gồm các khu vực tranh chấp hàng
hải”. Hai
điểm chính của tuyên bố là: quy tắc
luật pháp quốc tế và tranh chấp hàng hải. Người
Phi tin tưởng rằng Trung Cộng không giải
quyết tranh chấp thông qua luật quốc tế, và
Mỹ không nhắc đến tranh chấp lănh
thổ, v́ thế họ cho rằng Hoa Kỳ đang
đi dây giữa Trung Cộng và Philippines. Xét ra Trung
Cộng có nhiều quyền lợi cho Mỹ hơn là
Philippines. 9.2.
Những bất ḥa trong quá khứ giữa Mỹ và
Philippines Philippines
đă từng là thuộc địa (duy nhất)
của Mỹ trong 48 năm (1898-1946). Sau khi trả độc
lập lại cho Phi, hai bên kư hiệp ước năm
1951 Hoa Kỳ bảo vệ Phi. Đồng thời
Mỹ thuê 2 căn cứ của Phi. Năm
1992, nhiều cuộc biểu t́nh chống Mỹ
nổ ra và Thượng Viện Phi ra lịnh “đuổi”
Mỹ ra khỏi hai căn cứ nói trên. Do
Thượng viện phản đối nên thỏa
thuận EDCA ngày 28-4-2014 phải kư ở cấp
thấp, không phải là một hiệp ước cho
nên không qua tay thượng viện phê chuẩn. Ngày
27-4-2014, tức là một ngày trước khi Tổng
thống Obama đến Manila, các nhà hoạt động
tổ chức cuộc biểu t́nh chống Mỹ và
chống thỏa thuận EDCA. Quan
hệ ngoại giao giữa Mỹ và Philippines trước
kia được thể hiện qua vụ Trung
Cộng chiếm Scarborough một cách ngon lành mà không
thấy phản ứng rơ rệt nào của Mỹ. 9.3.
V́ sao Mỹ không hợp tác quân sự toàn diện
với Philippines? Quân
đội Philippines quá yếu. So với Việt Nam th́
Phi c̣n kém rất xa, c̣n đối với sức
mạnh quân sự của Trung Cộng th́ Phi chẳng
nhằm nḥ ǵ. Nếu Mỹ hợp tác quân sự toàn
diện với Phi th́ chẳng khác nào đưa vai ra
mang cái gánh nặng đánh giặc cho Phi mà rốt
cuộc có thể không được một tiếng
cám ơn nào cả. 10*
Các đảo ở Trường Sa do Việt Nam
quản lư
Phế
tích bia chủ quyền Trường Sa do Việt Nam
Cộng ḥa
-
Đảo Song Tử Tây. (Southwest Cay). Cách đảo
Song Tử Đông do Philippines trấn đóng 2.82km.1
ngọn hải đăng (1933), 1 đường băng,
1 toà nhà 3 tầng đề đóng quân. -
Đảo Trường Sa. (Spratly island). Đảo
lớn thứ tư của quần đảo. Cao 2.5m.
Địa h́nh bằng phẳng. 1 cḥi đá cao 5.5m, 1
đường băng, 1 cảng cá, một số công
tŕnh xây dựng và 1 trại lính. -
Đảo An Bang. (Amboyna Cay). Một hải
đăng (1995), một hệ thống pḥng thủ
chặt chẽ. -
Băi Đá Ngầm. (Barque Canada Reef). Dài 29km, Đỉnh
cao nhất 4.5m. Các công tŕnh quân sự được
nâng cấp gần đây. Ngoài
ra, c̣n các đảo và băi đá như: Các
đảo: Trường Sa Đông, Nam Yết, Sơn
Ca, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông. Các
băi: Tốc tan, Thuyền Chài, Đá Cô Lin, Đá Núi
Le, Đá Lớn, Đá Đông, Đá Lát, Đá Len
Đao, Đá Núi Thi, Đá Tiên Nữ… 11*
Những biến cố ở đảo Song Tử Tây 11.1.
Tổng quát về Song Tử Tây Hai
đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây trước
kia thuộc VNCH. Hai đảo cách nhau 2.82km, đảo
nầy nh́n thấy đảo kia ở đường
chân trời. Năm
1959, chính phủ VNCH đổi tên hai đảo thành
một tên là đảo Song Tử, sát nhập vào
tỉnh Phước Tuy. Hiện
nay, Philippines quản lư đảo Song Tử Đông và
VN quản lư Song Tử Tây. Song
Tử Tây tên quốc tế là Southwest Cay, một trong
những cồn san hô lớn thứ sáu trong Trường
Sa. Điểm cao nhất là 4m. vành đá bao quanh
nổi bật khi thủy triều xuống. Đảo
phủ phân chim và cây cối um tùm, trước kia là
nơi đẻ của các loài chim. 11.2.
Những biến cố ở Song Tử Tây Những
biến cố ở Song Tử Tây là một chuỗi
những sự kiện thay cờ đổi chủ trên
ḥn đảo nầy, giữa hải quân VNCH với
hải quân Philippines và với hải quân Cộng
Sản Bắc Việt. Năm
1933. Nhà cầm quyền Pháp đưa 3 tàu chiến:
Alerte, Astrobale và De Lanessan đến thu thập các
đảo Song Tử, nhập vào thuộc địa
VN của Pháp. Năm
1956. Pháp chuyển giao 2 đảo nầy lại cho
VNCH. Năm
1959. Chính phủ VNCH đổi tên 2 đảo thành
một tên là đảo Song Tử, sát nhập vào
tỉnh Phước Tuy. Năm
1963. Thủy thủ 3 chiến hạm Hương Giang
(HQ-404), Chi Lăng (HQ-01) và Kỳ Hoà (HQ-09) của
HQ/VNCH đến thiết lập bia chủ quyền trên
2 đảo Song Tử nầy. Năm
1968. Năm 1968, lính Philippines chiếm 2 đảo Song
Tử, Đông và Tây, mà họ gọi là Parola và
Pugad. 1).
Sự kiện tháng 1 năm 1974 Ngày
19-1-1974, Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa của
VNCH. Liền sau khi mất Hoàng Sa, VNCH mở chiến
dịch Trần Hưng Đạo 48, bất ngờ
chiếm đảo Song Tử Tây từ tay Philippines.
Đó là lúc mà binh sĩ Phi từ Song Tử Tây kéo
sang đảo Song Tử Đông để dự
tiệc sinh nhật của viên chỉ huy đảo,
ăn nhậu đàn đúm. Khi
quân lính Phi trở về th́ thấy quân VNCH có vũ
trang đang hát quốc ca ở Song Tử Tây, nên
họ trở về Song Tử Đông. Từ tháng 4
đến tháng 12 năm 1974, HQ/VNCH hoàn tất hệ
thống pḥng thủ trên đảo. Chính quyền
Philippines im lặng trước việc nầy. 2).
Sự kiện tháng 4 năm 1975 Khi
pḥng tuyến Phan Rang bị vở, Song Tử Tây
mất về tay CSBV, binh sĩ VNCH chạy sang Song
Tử Đông của Philippines lánh nạn. Sau
30-4-1975, toàn bộ lănh thổ VNCH bị mất về
tay CSBV, Trường Sa cũng chịu chung số
phận. 12*
Malaysia tuyên bố chủ quyền trên các đảo
thuộc Trường Sa Đá Hoa Lau Sân bay quân sự trên đảo Đá Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa Căn cứ vào Công Ước LHQ về Luật Biển, ấn dịnh thềm lục địa là 350 hải lư, Malaysia (Mă Lai) tuyên bố chủ quyền trên 12 thực thể địa lư, bao gồm đảo, băi đá, nằm trong thềm lục địa đó. Đó là đảo An Bang, đá Công Đo, đá Én Ca, đá Hoa Lau, đá Kỳ Viên, đá Sác Lốt, đá Suối Cát, đá Thuyền Chài, băi Kiêu Ngựa, băi Thám Hiểm, cùng với rạn ṿng Louisa và Luconia. Tháng 5 năm 1983 Mă Lai cho quân đội đổ bộ lên chiếm đá Hoa Lau. Năm 1986, 20 binh sĩ lên chiếm đá Kiêu Ngựa, một trung đôi chiếm đá Kỳ Vân. Năm 1987 quân Mả Lai chiếm đá Suối Cát. Băi Thám Hiểm và Én Ca cũng hiện diện binh sĩ Mă Lai. Tháng 3 năm 2009 Thủ tướng Abdullah bin Ahmad Badawi đến viếng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch ở đá Hoa Lau, đồng thời tuyên bố chủ quyền trên các thực thể địa lư nằm trong thềm lục địa của Mă Lai. 13* Brunei tuyên bố chủ quyền trên ba thực thể địa lư ở Trường Sa 13.1. Về chủ quyền Căn cứ vào Công Ước LHQ về Luật Biển, ấn định thềm lục địa là 350 hải lư, Brunei tuyên bố chủ quyền trên rạn ṿng Louisa, băi Vũng Mây và băi Chim Biển. Tại Louisa Mă Lai đă dựng một ngọn đèn hiệu và tuyên bố chủ quyền ở đó. Băi Vũng Mây là một băi ngầm do Việt Nam kiểm soát. Như vậy Brunei tranh chấp với Mă Lai về rạn ṿng tṛn Louisa và tranh chấp với Việt Nam về băi Vũng Mây. 13.2. Vài nét tổng quát về Brunei Brunei là một quốc gia nhỏ, theo Hồi Giáo, gồm có hai đảo tách rời ra. Diện tích 5,765km2. Dân số 415, 717 (tháng 7 năm 2012). Thủ đô Bandar Seri Begawan. Độc lập ngày 1-1-1984. Lực lượng quân sự gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh đóng trên toàn quốc. Một vài chiếc tàu tuần tiểu mua của Đức. Tạp chí Forbes xếp Brunei là quốc gia giàu thứ 5 trên 182 quốc gia. Giàu nhờ dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên. Không có công nợ. Gia nhập LHQ ngày 21-9-1984. 14* Tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Cộng Một mặt xây trường học ở Hoàng Sa, một mặt xây đảo nhân tạo ở Trường Sa, cho thấy Trung Cộng cố ư bám chặt vào hai quần đảo nầy. Hoàng Sa mất sau một trận hải chiến oanh liệt hào hùng, “kiên cường trong chiến bại”, trái lại Trường Sa mất chỉ là một kịch bản được dàn dựng để nhóm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng dâng biển đảo của khu tự trị lên cho chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Nh́n lại cái gọi là “hải chiến Trường Sa ngày 14-3-1988” th́ thấy rơ ư đồ đó của Việt Cộng. Hải quân VC vô cùng hèn nhát trước kẻ thù cướp nước, xem như dâng đảo cho quan thầy. 14.1. Há miệng mắc quai, bút sa gà chết Ngày thứ hai 9-6-2014, tại LHQ, hăng tin AP tường thuật việc Phó Đại sứ Trung Cộng Vương Minh, yêu cầu Tổng Thư Kư LHQ Ban Ki-moon chuyển đến 193 thành viên của tổ chức nầy, văn kiện chứa “những tài liệu mà Việt Nam lâu nay “công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa”. Rơ ràng là Trung Cộng dùng công hàm Phạm Văn Đồng và những lời tuyên bố công nhận HS/TS là của Trung Cộng. Phạm Văn Đồng kư ngày 14-9-1958, bút sa gà chết. Giấy trắng mực đen con dấu màu đỏ c̣n sờ sờ trước mất. Vô phương chối căi. Những lời tuyên bố và những bằng chứng cụ thể như sau: 1) Ung Văn Khiêm tuyên bố “Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là một bộ phận lịch sử của lănh thổ Trung quốc". 2) Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN: … "xét về mặt lịch sử th́ các quần đảo này đă hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống" 3). Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đă tuyên bố: “Thà giao Hoàng
Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xă hội
chủ nghĩa anh em c̣n hơn để tụi
Ngụy Sài G̣n quản lư”! Cuốn
thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội
biên soạn. “Ngày 14/9 Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đă thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nh́n nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lănh hải". 6). Sách Địa lư năm 1974 “Các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Đài Loan của Trung Quốc, h́nh thành một bức tường pḥng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.” 7) Tháng 2 năm 1972, Cục Đo đạc và Bản đồ, trực thuộc Phủ Thủ tướng phát hành “Tập Bản đồ Thế giới”, trong đó Hoàng Sa và Trường Sa bị đổi tên là Tây Sa và Nam Sa. 8). Tháng 5 năm 1976, tờ Sài G̣n Giải Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà c̣n là người thầy tin cẩn, đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng ta có ngày hôm nay. V́ vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ th́ cũng vậy thôi!”. (Hết trích) Như trên cho thấy không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả đảng và Nhà nước CSVN đă có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng. Sự thật rành rành như thế. Vô phương chối căi. Bút sa gà chết! Há miệng mắc quai. 14.2. Việt Nam luôn tỏ ḷng biết ơn Trung Quốc vĩ đại. Lănh đạo đảng CSVN luôn miệng tỏ ra một ḷng một dạ mang ơn Trung Cộng. Nguyễn Tấn Dũng nói rằng “Việt Nam luôn luôn ghi nhớ sự giúp đở to lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong việc xây dựng phát triển kinh tế ngày nay. Khẳng định, chính sách trước sau như một của VN là tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt”. Nguyễn Chí Vịnh tuyên bố: “Việt Nam không bao giờ dựa vào bất cứ một quốc gia nào để chống lại Trung Quốc. Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác phát triển, th́ đâu có ai hơn được một Trung Quốc XHCN láng giềng, với hơn 1 tỷ 300 triệu dân, đang phát triển và có vị trí và uy tín ngày càng cao trên thế giới.” Có lẻ bây giờ các lănh đạo Đảng tự cảm thấy vô cùng xấu hổ khi nh́n lại quá khứ lịch sử bán nước của họ. 15* Kết luận Trung Cộng vừa mới chứng minh tội bán nước của đảng CSVN chẳng những tại LHQ mà c̣n yêu cầu phổ biến đến 193 thành viên của tổ chức nầy trên toàn thế giới. Trung Cộng đă đưa bằng chứng ra công luận, đó là sự thật, LHQ không phải là chỗ để nói chơi cho vui miệng. Bây giờ mới thấy t́nh đồng chí XHCN nó xấu đến mức độ nào. Bây giờ mới thấy rơ Hồ Chí Minh và đảng CSVN làm điều vô cùng tầm bậy. Đó là đưa cả thế hệ thanh niên sinh Bắc tử Nam làm việc tầm bậy. Đó là đánh giặc thuê cho Trung Cộng và Liên Xô, thống nhất đất nước để đưa cả dân tộc lên XHCN thật đúng là tầm bậy, v́ CNCS đă chết từ lâu rồi. Mua vũ khí th́ phải trả tiền, số tiền 870 tỷ thiếu nợ từ 1954 đến 1975 là số tiền lớn, không có tiền th́ phải cắt đất dâng biển trừ nợ. Tóm lại, các đồng chí lănh đạo hăy tự chất vấn lương tâm, thành thật khai báo, ăn năn hối căi, và tự giải tán cái đảng ôn hoàng mắc dịch nầy, để cùng nhân dân “thoát Trung”. Trúc Giang Minnesota ngày 15-6-2014 |