TƯỜNG THUẬT CỦA MỘT CHỨNG NHÂN TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA |
Chúng
tôi xin được giới thiệu cùng đồng
hương về lời tường thuật của
anh Đặng Quốc Tuấn, tŕnh bày trong buổi
Lễ Tưởng Niệm Ngày Hoàng Sa, tổ chức
ngày 23.1.2011 tại Nieuwegein – Ḥa Lan. Anh Đặng
Quốc Tuấn là một quân nhân Hải Quân / Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa, là một chứng nhân
đă trực tiếp tham dự trận hải
chiến Hoàng Sa trong thời điểm 19.01.1974. Trận
hải chiến Hoàng Sa đă xảy ra 37 năm trước
đây, nhưng trong ḷng những quân nhân đă
trực tiếp hoặc gián tiếp tham chiến
vẫn c̣n mang nặng nỗi uất nghẹn v́ đă
không giữ được hải đảo của
Tổ Quốc. Xin các anh an tâm, giữ tinh thần cho
thanh thăn, bởi v́ các anh đă bất
khuất và hết ḷng v́ Quê Cha-Đất Tổ không
khác ǵ những tấm gương trung liệt của tiền
nhân. Đương đầu với giặc
Tàu phương bắc xâm lược, có khi thất
bại lúc tranh hùng, nhưng dân tộc vẫn
luôn hănh diện về hành động và khí phách
của các anh. (VDCV) ————————
oOo ———————— Kính
thưa quư vị, quư đồng hương, Chúng
tôi hân hoan chào đón quư vị, chúng tôi cảm
thấy hân hạnh về sự hiện diện
đông đảo của quư vị, và rất hănh
diện khi được tiếp đón quư vị. Trước
tiên, chúng tôi xin chân thành cảm tạ quư anh
trong nhóm Vinh Danh Cờ Vàng, đă bỏ rất
nhiều công sức tổ chức ngày Hoàng Sa năm
nay, tạo điều kiện để chúng ta
gặp gỡ, trao đổi nhau những kinh nghiệm
trong những ngày lưu vong, tưởng nhớ đến
ngày 19-01-1974, 37 năm về trước ngày xảy ra
trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa, và đặc
biệt là truy điệu các chiến sĩ đă
bỏ ḿnh trong trận hải chiến. Với
tư cách là một chứng nhân, đă tham dự
trực tiếp trận đánh, tôi sẽ cố
gắng tŕnh bày chi tiết một cách khách quan để
hầu chuyện cùng quư vị những điều
mắt thấy tai nghe, mấy lúc sau này, có rất
nhiều sách và tài liệu viết về trận hải
chiến, đă đề cập đến nhóm đổ
bộ chúng tôi trên đảo Vĩnh Lạc (Money), khi
đối chiếu các tài liệu, sách vở, các bài
viết này tôi nhận thấy có nhiều sự
lệch lạc, chẳng hạn một số sách cho
nhóm chúng tôi 15 người, có sách viết 12 người,
hoặc 8 người, chúng tôi là nhóm Biệt Hải
người nhái, có tài liệu viết nhóm chúng tôi
đào thoát trên biển 15 ngày, hoặc 12 ngày hay 8 ngày,
thậm chí có bài viết huyền hoặc là nhóm chúng
tôi được cá Ông hoặc cá Voi đưa vào
gần bờ. Nay tôi xin đính chánh lại là nhóm
đổ bộ chúng tôi gồm 10 người là nhân
viên cơ hữu của tuần dương hạm Lư
thường Kiệt HQ16, chớ không phải là
Biệt Hải người nhái như một số sách
đă viết, chúng tôi chỉ giữ một vai tṛ
khiêm nhường trong trận đánh, đó là
nhận lệnh đổ bộ lên đảo Vĩnh
Lạc (Money), phá hủy và gom góp các chứng cớ
ngụy tạo, nhổ cờ Trung Cộng và dựng
lại cờ vàng Việt Nam Cộng Ḥa, tổ
chức pḥng thủ trên đảo, sau trận hải
chiến, trước hỏa lực mạnh mẽ
của Trung Cộng để chuẩn bị cho lính
của họ đổ bộ, chúng tôi đào thoát
bằng xuồng cao su lênh đênh trên biển 10 ngày và
được một tàu đánh cá Việt Nam
cứu vớt tại Mũi Yến ở Qui Nhơn. CUỘC
ĐỜI QUÂN NGŨ Tôi
xin bắt đầu với cuộc đời quân ngũ
của chính tôi. Tôi
xin tự giới thiệu, tôi là một cựu quân nhân
Hải Quân QLVNCH, tôi nhập ngũ ngay sau Tết
Mậu Thân, vào khoảng tháng 3 năm 1968, sau khóa căn
bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện HQ
Cam Ranh, tôi được đưa về học
hải nghiệp ở Trung Tâm Hải Quân Nha Trang ngành
Giám Lộ. Sau khi tốt nghiệp, khoảng tháng
12.1968 tôi được thuyên chuyển đến
giang đoàn 513 PBR và tiếp đó là 512 PBR Hải Quân
Hoa Kỳ đồn trú tại căn cứ Hải Quân
Rạch Sỏi Rạch Giá (PBR là chữ tắt
của Patrol Boat River). Đây là loại giang tốc
đỉnh trang bị vũ khí mạnh với vận
tốc cao khoảng 30 knots tức khoảng 55
km/giờ, toàn chiến trường sông ng̣i Việt
Nam lúc ấy có khoảng 250 chiến đỉnh PBR,
đây là giai đoạn chuẩn bị Việt Nam hóa
chiến tranh của Hoa Kỳ, tháng 06.1969 hai giang đoàn
Hoa Kỳ trên được gộp lại bàn giao và
h́nh thành giang đoàn 55 Tuần Thám thuộc lượng
Tuần Thám Hải Quân Việt Nam (lực lượng
này gồm 15 giang đoàn ). Sau đó giang đoàn 55
tuần thám này được chuyển đến căn
cứ Hải Quân Cái Dầu ở Châu Đốc tham
dự chiến dịch hành quân ở kinh Vĩnh
Tế, đây là chiến trường lớn của
vùng 4 chiến thuật với sự tham dự
của hầu hết các quân binh chủng QLVNCH.
Khoảng
tháng 10.1971, giang đỉnh tôi bị trúng đạn
phóng lựu B40, tôi bị thương được
đưa về điều trị tại Quân y
Viện Châu Đốc, sau hơn 2 tháng trị
liệu, tôi được lệnh tŕnh diện pḥng
nhân viên Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài G̣n để
làm thủ tục qua Mỹ nhận lănh HQ16 Lư Thường
Kiệt theo chương tŕnh Việt nam hóa chiến
tranh, chúng tôi gồm 2 nhóm, nhóm đầu 40 người
đă đi trước đó hơn 1 tháng, nhóm 2
trong đó có tôi gồm 37 người khởi hành
khoảng đầu năm 1972, về lai lịch
của chiến hạm HQ16 này đại khái như
sau: hạ thủy năm 1942 thuộc lực lượng
Tuần Dương Hoa Kỳ (WHEC), ngay sau khi hạ
thủy trực tiếp tham dự chiến trường
Bắc Đại Tây Dương thời Đệ
Nhị thế chiến, sau đó v́ nhu cầu tân trang
hóa của Hải Quân Hoa Kỳ, chiến hạm này
đă lỗi thời, bị đem vào bỏ neo ở
băi phế thải tàu cho đến khi chúng tôi
qua tiếp nhận, tàu được kéo vào ụ, sơn
phết, thiết kế Rada, gắn máy móc,trang bị
vũ khí sau đó chiến hạm này hải hành
về Việt Nam nhận lănh trách nhiệm tuần
tiểu và bảo vệ lănh hải Việt Nam. Riêng tôi
là nhân viên Giám Lộ phục vụ tại Trung Tâm
Chiến Báo trên chiến hạm Lư thường
Kiệt HQ16 từ lúc ấy cho đến ngày xảy
ra trận hải chiến Hoàng Sa. Ngày
14-01-1974, tuần dương hạm Lư thường
Kiệt HQ16, lúc ấy đang cập bến Tiên Sa
tại căn cứ Hải Quân vùng 1 Duyên Hải
ở Đà Nẳng, chúng tôi được lệnh
ra công tác ngoài quần đảo Hoàng Sa, chở theo 1
thiếu tá bộ binh tên là Hồng (tôi đọc
được nhờ vào bảng tên gắn trước
ngực ), 4 tùy viên quân sự thuộc Quân Đoàn 1,
Tiểu khu Quảng Nam, 1 cố vấn Mỹ mặc thường
phục măi về sau này khi nằm điều trị
ở Quân Y Viện Qui Nhơn, tôi mới biết
tên ông ta là Gerald Kosh.Về hành lư của người
Mỹ dân sự này, chúng tôi thấy có điều
kỳ lạ, bởi v́ ngoài túi xách quần áo thông
thường, c̣n có một số dụng cụ và máy
móc đo đạc và một thùng chất nổ TNT,
chúng tôi bày tỏ sự lo ngại về thùng TNT
với ông Kosh th́ ông ta bảo đảm 100% an toàn
bởi v́ ng̣i nổ vẫn c̣n ở trong xách tay
của ông ta, c̣n về các máy móc dụng cụ đo
đạc, th́ một người bạn cùng tàu có
vẻ rành rẽ về việc này đă giải thích
với chúng tôi, đó là các máy địa chấn kư
và máy ghi nhận tín hiệu cũng như máy vẽ
biểu đồ về sự rung chuyển trong ḷng
đất, anh bạn này c̣n quả quyết là người
Mỹ này sẽ ḍ t́m dầu hỏa ở vùng
quần đảo Hoàng Sa, anh em chúng tôi nghe sự
giải thích này có vẻ hợp lư và xuôi tai nên không
thắc mắc hỏi thêm nữa. Tàu
khởi hành lúc chiều tối ngày 14-01-1974 và đến
Hoàng Sa vào buổi sáng ngày 15-01-1974. Khi đến nơi,
tàu liên lạc vô tuyến với nhóm Địa Phương
Quân trên đảo và họ lái xuồng ra rước
viên thiếu tá bộ binh, mấy tùy viên quân sự và
người Mỹ dân sự lên đảo, kế
tiếp tàu rời đảo Hoàng Sa, hải hành ra xa
và sau đó thả trôi trong khi chờ đợi
đưa những người khách về lại
Đà Nẵng. NGÀY
16-01-1974. Khoảng
10 giờ sáng ngày hôm sau 16.01.1974 một người
bạn giám lộ đang trực phiên trên đài
chỉ huy chiến hạm phát hiện trên màn ảnh
Rada 1 vệt nhỏ đang di chuyển về hướng
đảo Quang Ḥa (Duncan), chúng tôi dùng ống ḍm quan
sát, nhưng vẫn không thấy được v́ quá
xa, sĩ quan trưởng phiên báo cáo với hạm trưởng
và cho khởi động máy tàu chạy về hướng
đảo Quang Ḥa (Duncan), khi gần đến, chúng tôi
quan sát từ đài chỉ huy mới thấy vệt
nhỏ trên màn ảnh Rada lúc năy là một tàu Trung
Cộng ngụy trang đánh cá, sơn mầu xanh lá cây
đậm, vỏ bằng sắt, trang bị đại
bác 25 ly, chiến hạm dùng quang hiệu yêu cầu tàu
Trung Cộng rời khỏi lănh hải VNCH, tàu này không
trả lời, sau đó chiếm hạm tiến
lại gần th́ tàu Trung Cộng mới rời
khỏi hải phận Hoàng Sa, chạy về hướng
Đông Bắc. HQ16 chúng tôi quan sát trên đảo
Quang Ḥa, mới phát hiện đảo này đă
bị chiếm đóng, trên đảo có mấy dăy
nhà gỗ, có cḥi canh vọng gác cao, cắm cờ
Trung Cộng, có rất nhiều người di
chuyển qua lại h́nh như họ đang xây
cất thêm doanh trại. HQ16
gọi máy về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên
Hải báo cáo mọi sự việc. Chúng tôi nhận
được chỉ thị đi quan sát các đảo
khác trong quần đảo và ghi nhận các sự
kiện sau :
HQ16
báo cáo các sự việc về Bộ Tư Lệnh Vùng
1 Duyên Hải, và nhận lệnh tuần tiểu trong
vùng ḷng chảo, đề cao cảnh giác chờ
lệnh mới. Chiều ngày 16-01-1974, chúng tôi
được tin Khu trục hạm HQ4 (Trần Khánh Dư)
sẽ ra tăng cường và tối ngày hôm đó
HQ4 rời Đà Nẳng trực chỉ Hoàng Sa mang theo
nhóm Biệt Hải người nhái gồm 25 người. NGÀY
17-01-1974. Lúc
08.00h ngày 17-01-1974 chúng tôi nhận lệnh đổ
bộ lên đảo Vĩnh Lạc (Money). Đảo Vĩnh
Lạc này chỉ là đảo nhỏ trong quần
đảo Hoàng Sa, đảo có chiều dài khoảng
1Km , chiều ngang 0,5km, trên đảo có rừng cây
cao. Toán đổ bộ chúng tôi gồm 10 người,
sự chọn lựa này có tính cách ngẫu nhiên, các
ban ngành đề cử 1 người cho toán đổ
bộ, danh sách 10 người này tôi vẫn c̣n
nhớ, mặc dù đă trôi qua 37 năm, vài người
trong nhóm tôi có liên lạc sau này, nhóm đổ
bộ 10 người chúng tôi gồm: 1/-
Lâm trí Liêm (trung úy), trưởng toán. Chúng
tôi mang theo vũ khí, đạn dược, máy
truyền tin, thực phẩm, nước uống, chúng
tôi dùng xuồng cao su để đổ bộ, đây
là loại xuồng được chế tạo
rất đặc biệt, vỏ rất dầy,
được cấu trúc rất nhiều ngăn và có
thể bơm không khí riêng rẽ vào các ngăn, dài
khoảng 5m, ngang 2m, ở 2 đầu trước sau có
trang bị sẵn các lỗ hổng bằng sắt
để dùng gắn súng đại liên, hoặc các
máy động cơ, phía trước mũi có đính
sẵn 1 la bàn từ loại nhỏ, và 2 bên hông
gắn những quai sách để người xử
dụng dễ dàng bám vào khi ở mực nước
xâu, cũng như xách di chuyển trên cạn. Chúng
tôi đổ bộ lên đảo từ hướng
Đông Bắc, nơi đây trong vùng ḷng chảo
bờ biển sâu thuận tiện cho việc đổ
bộ, chúng tôi được chỉ thị nếu
gặp địch quân hoặc ngư dân Trung Cộng,
cố gắng ḥa hoăn đến mức tối đa,
chỉ nổ súng khi thật cần thiết để
tự vệ, ngoài ra chúng tôi phải triệt
hạ các chứng cớ ngụy tạo nếu t́m
thấy. Sau khi đặt chân lên đảo Vĩnh
Lạc (Money) chúng tôi lập tức nhổ các lá
cờ Trung Cộng ớ rải rác khắp đảo
và dựng lại cờ vàng VNCH ngay tại vị trí
các cờ Trung Cộng bị nhổ bỏ, sau đó
toán đổ bộ chúng tôi thám sát toàn đảo,
trên đảo không có người, giữa đảo
trong rừng cây có một miếu thờ nhỏ
rất xưa cũ có khắc chữ Việt tên
họ cùng ngày tháng năm , tôi nghĩ là của các
ngư phủ Việt Nam trước đây đă lên
đảo lập miếu thờ, về phía Nam đảo,
chúng tôi phát hiện trong rừng cây 4 nấm mộ (2 gắn
bia đá, 2 bia gỗ), khắc chữ Tàu, tất
cả trông có vẻ xưa cũ, nhưng vết tích
th́ mới, chúng tôi dùng xẻng đào các nấm
mộ nhưng không tỉm thấy xương cốt
ǵ cả. Điều chúng tôi thắc mắc là
tại sao lính Trung Cộng đă cố t́nh ngụy
tạo các nấm mộ, bỏ công cắm nhiều
cờ ở băi biển, mà lại không phá hủy cái
miếu nhỏ xưa cũ của Việt Nam ta, điều
đó chứng tỏ là họ rất vội vă,
vừa thực hiện xong lập tức đi ngay không
có th́ giờ thám sát đảo. Tất
cả sự việc này được báo cáo về
đài chỉ huy chiến hạm HQ16, sau đó chúng tôi
được lệnh triệt hạ các chứng
cớ ngụy tạo, đem các tang vật này gồm
2 bia đá, 2 bia gỗ và các lá cờ Trung Cộng giao
cho xuồng máy đem về chiến hạm HQ16 để
làm bằng chứng sau này, tiếp theo chúng tôi
nhận thêm lương thực và nước ngọt
đồng thời tổ chức pḥng thủ trên
đảo. Đào các hố cá nhân trong rừng cây, gài
lựu đạn ở các hốc đá và dùng rong
biển đắp lên, đặt nhiều ḿn định
hướng Claymore và dùng cát phủ lên ở băi
biển mà chúng tôi nghĩ là địch quân sẽ
đổ bộ, tất cả các vị trí nảy
đều được chúng tôi đánh dấu
cẩn thận trên hải đồ. Khoảng
11.00h, qua máy truyền tin chúng tôi được
biết Khu Trục Hạm Trần khánh Dư HQ4 đă
ra đến nơi và lập tức đổ bộ
lên đảo Cam Tuyền (Robert) 1 toán nhân viên
Biệt Hải người nhái gồm 25 người
do 1 Thiếu úy chỉ huy, chúng tôi nhận được
bản mă từ HQ16, sau khi dịch mă th́ đó là
tần số đặc biệt để chúng tôi có
thể liên lạc với đảo chính Hoàng Sa cùng
với toán đổ bộ HQ4 trên đảo Cam
Tuyền, t́nh h́nh trên đảo này cũng không có ǵ
đặc biệt, chỉ mấy lá cờ Trung
Cộng bị toán đổ bộ nhổ bỏ và
cắm lại cờ vàng VNCH, ngoài ra không phát hiện
ǵ thêm, cũng như toán chúng tôi, họ được
lệnh ở lại tổ chức pḥng thủ trên
đảo. Qua
máy truyền tin, chúng tôi được biết
chiến tranh với Trung Cộng có thể xảy ra,
trong trường hợp này, Hải Quân sẽ
được sự yểm trợ của Không Quân,
phi đoàn F5-E của Sư Đoàn 1 Không Quân đang
trú đóng tại Đà Nẳng. Chiều
ngày hôm đó (17-01-1974), 2 chiến hạm Trung Cộng
xuất hiện trong vùng mang số 271 và 274, đây là
loại tàu chiến Hộ tống hạm của Liên
Sô chế tạo, được gọi là tàu
Kronstadt, Kronstadt là tên của hăng đóng tàu quân
sự Liên Sô nằm ở cực Bắc Âu Châu trong
vịnh Finland, hăng đóng tàu này tọa vị trên ḥn
đảo Kotlin, ngoài vành thành phố cũng mang tên
Kronstadt ở phía Tây thành phố Sint-Petersburg (trước
đây được gọi là Leningrad), hai tàu này
chiều dài khoảng 100m hơi ngắn hơn
HQ16, nhưng vận tốc nhanh hơn. Hai
chiến hạm ta HQ16 và HQ4 dùng quang hiệu yêu
cầu họ lập tức rời vùng lănh
hải VNCH, th́ liền đó nhận lại quang
hiệu mang ư nghĩa tương tự, sau đó 2
chiến hạm Trung Cộng bỏ đi về hướng
Đông Bắc quần đảo. NGÀY
18-01-1974. Tảng
sáng sớm ngày 18-01-1974 Tuần Dương Hạm HQ5
(Trần b́nh Trọng), đă có mặt tại Hoàng
Sa, và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 cũng
đă khởi hành hướng về Hoàng Sa, theo
dự định sẽ đến nơi vào chiều
tối ngày hôm ấy, trên chiến hạm HQ5 có
Hải Quân Đại Tá Hà văn Ngạc là người
chỉ huy trận hải chiến. Khi vừa đến
nơi Đại Tá Ngạc truyền lệnh của
BTLHQ vùng 1 Duyên Hải cho tất cả các đơn
vị hiện diện tại Hoàng Sa, đó là
phải tỏ thiện chí ḥa hoản tối đa, các
toán đổ bộ không được tùy tiện
nổ súng khi chưa có lệnh. Khoảng
10.00h sáng ngày 18-01-1974, HQ4 nhận lệnh đưa toán
nhân viên cơ hữu 15 người lên đảo Cam
Tuyền (Robert) để thay thế nhóm người
nhái 25 người đă đổ bộ hôm trước,
nhóm người nhái này chuẩn bị nhận
nhiệm vụ mới. Ngay lúc này 4 chiến hạm
Trung Cộng lại xuất hiện, 2 trong số chúng
tôi đă nhận dạng hôm trước, đó là các
Hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274, c̣n 2 chiếc khác
mang số 389 và 396, 2 chiến hạm này h́nh dạng
khác hơn 2 Hộ tống hạm kia, chiều dài
ngắn hơn, khoảng 70m, trang bị vũ khí
nhiều hơn, ở trên đảo dùng ống ḍm
quan sát chúng tôi thấy như vậy, về lực lượng
Không quân và Hải Quân Trung Cộng, chúng tôi không
được biết ǵ nhiều, theo tài liệu th́
hầu hết các chiến cụ Trung Cộng đều
mua của Liên Sô trong thập niên 60 cho đến khi
xảy ra chiến tranh biên giới giữa 2 nước
năm 1969 th́ việc mua bán chiến cụ bị
hủy bỏ. Do đó 2 chiến hạm 389 và 396 chúng
tôi nghĩ la do Liên Sô chế tạo và gọi là pháo
hạm, cả 4 chiến hạm Trung Cộng đều
vận chuyển cản đường và khiêu khích ,
qua máy truyền tin chúng tôi ghi nhận các sự
kiện sau:
Khoảng
chiều tối ngày 18-01-1974, Hộ tống hạm
Nhật Tảo HQ10 đă ra đến nơi, lúc này
ở trên đảo Vĩnh Lạc (Money) chúng tôi
nhận được bản mă văn mới, sau khi
dịch mă th́ đó là 3 tần số khác nhau, 1 để
liên lạc trực tiếp với chiến hạm, 1
với các toán đổ bộ, và 1 với đài khí
tượng ở đảo Hoàng Sa, v́ tần số
các chiến hạm xử dụng tần số âm
thoại đơn ngắn SSB (Single.Side.Bandmodulation)
đă bị phát hiện, sóng vô tuyến đă
bị chen vào phá rối, thỉnh thoảng nghe ra hàng
loạt tiếng Tàu, do đó các chiến hạm
chuyển sang xử dụng loại máy truyền tin
VRC46 và PRC25, 2 loại này rất tiện lợi trong
việc chuyển đổi tần số, nhất là
loại sách tay di động PRC 25 chúng tôi đă mang
theo xử dụng khi đổ bộ lên đảo ngày
hôm trước, tuy nhiên loại máy này có khuyết
điểm là chỉ liên lạc trong phạm vi
gần khoảng 10, 15 hải lư mà thôi, chúng tôi
biết thêm là 4 chiến hạm ta được chia
làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm HQ5 và HQ4 sẽ hoạt động
chung nhau về phía Nam quần đảo, nhóm 2 gồm
HQ16 và HQ10 đang vận chuyển ở phía Tây
quần đảo Hoàng Sa, bên ngoài khu ḷng chảo. Đêm
18-01-1974 trôi qua một cách yên lặng. NGÀY
19-01-1974. Trời
tờ mờ sáng, t́nh h́nh có vẻ rộn rịp căng
thẳng lên, lúc 08.00h sáng ngày 19-01-1974, qua máy vô
tuyến chúng tôi được biết HQ5 đang
yểm trợ HQ4 đổ bộ nhóm người nhái
gồm 25 người lên đảo Quang Ḥa (Duncan)
từ phía Nam bên ngoài khu ḷng chảo, nơi đây
HQ4 đă không vào sát bờ được v́ có
nhiều đá ngầm, toán người nhái đă dùng
xuồng cao su để bơi vào đến băi đá
ngầm sau đó họ phải lội bộ lên đảo,
mực nước biển ngang đầu gối,
thiếu úy trưởng toán người nhái báo cáo
họ bị lính Trung Cộng tấn công bằng súng
thượng liên và phóng lựu từ trong rừng cây
cũng như trong các cḥi canh vọng gác trên đảo,
sau vài phút, toán người nhái báo cáo là viên
thiếu úy trưởng toán người nhái và 1 binh
sĩ tử thương, toán đổ bộ đă
phản kích bằng phóng lựu M79 và đại liên
M60, nhưng không hiệu quả v́ quá xa tầm, tóm
lại t́nh h́nh hoàn toàn bất lợi, toán người
nhái đang lội b́ bỏm dưới nước chưa
đặt chân được lên bờ, họ
trở thành mục tiêu tác xạ của lính Trung
Cộng. Sau cùng toán người nhái được
lệnh rút lui về HQ4. Tất cả sự việc
trên chỉ xảy ra trong ṿng 2 giờ đồng
hồ. Khoảng
10 giờ sáng ngày 19-01-1974, ờ trên đảo Vĩnh
Lạc (Money), chúng tôi thấy HQ16 và HQ10 đang
tiến vào khu ḷng chảo, trong khu này đă hiện
diện 3 tàu Trung Cộng mang số 274 (Hộ tống
hạm), 396 (Pháo hạm) và 402 (tàu đánh cá ngụy
trang), nơi chúng tôi trú đóng rất thuận
tiện để theo dơi cả 2 mặt trận
sắp sửa xảy ra, mặt trận phía Bắc
trong khu ḷng chảo của HQ16 và HQ10, nơi này
rất gần chúng tôi có thể dùng ống ḍm để
quan sát rơ ràng, c̣n mặt trận phía Nam ngoài khu ḷng
chảo xa về hướng Nam của đảo Quang
Ḥa (Duncan), HQ5, HQ4 cũng đang ở trong t́nh
trạng căng thẳng, dùng ống ḍm ta chỉ có
thể phân biệt giữa tàu chiến ta và tàu Trung
Cộng khác biệt về màu sắc, tàu Hải Quân
Việt Nam sơn màu xám nhạt, c̣n tàu Trung Cộng sơn
màu xanh lá cây đậm, và ở đây có 3 tàu
chiến Trung Cộng, v́ ở quá xa chúng tôi không
đọc được số tàu, qua đối
chiếu và suy đoán tổng số tàu địch
hiện diện trong vùng, chúng tôi nghĩ 3 tàu Trung
Cộng này là 271 (Hộ tống hạm), 389 (Pháo
hạm) và 407 (tàu đánh cá ngụy trang). Sự
hiềm khích và t́nh trạng căng thẳng giữa các
chiến hạm Việt Nam và Trung Cộng trong các ngày
qua, nhưng không bên nào khai hỏa, để tạo
thế thượng phong bất ngờ, Đại tá
Hà văn Ngạc (người chỉ huy trận đánh)
ra lệnh đồng loạt khai hỏa lúc 10.25h. Các
chiến hạm Việt Nam đă đồng loạt
khai hỏa, mặt trận phía Bắc trong vùng ḷng
chảo, ngay phút đầu tiên, tàu 274 và 396 đă
bị trúng đạn và bốc cháy, sau một lúc
quần thảo, ở trên đảo dùng ống ḍm
quan sát, chúng tôi thấy HQ10 đă trúng hỏa
tiễn địch ở đài chỉ huy (sau này khi
nằm điều trị tại bệnh viện Qui Nhơn,
tôi được biết báo chí lúc đó gọi
đây là loại hỏa tiễn Styx do Liên Sô chế
tạo) chúng tôi nghĩ là các hỏa tiễn
được bắn từ tàu 402, điều có
thể nhận ra loại đạn thường hay
hỏa tiễn là với đạn thường sau
khi bắn, sẽ có khói bốc ra ở đầu súng, c̣n
hỏa tiễn sẽ vạch ra một đường
khói dài từ nơi xuất phát, và điều này
đă được chúng tôi nh́n thấy bằng
mắt thường ở trên đảo. Sau 30 phút
giao tranh, sự thiệt hại đôi bên mặt
trận phía Bắc trong vùng ḷng chảo được
chúng tôi ghi nhận sau:
Bất
chợt, người bạn trong nhóm chúng tôi anh
Trần Phừng (vô tuyến) nhận được
ám ngữ muốn nói chuyện với Trung úy Liêm
trưởng toán, đó là hạm trưởng HQ16 chúng
tôi, ông cho hay t́nh h́nh rất tệ hại, tàu
chỉ c̣n 1 máy, bên hông phải bị trúng đạn,
trung sĩ điện khí Xuân bị thương
nặng, tàu không thể dừng lại rước chúng
tôi được, máy phát điện bất
khiển dụng nên không thể nào khởi động
máy ép gió để chạy máy tàu, do đó ông trao toàn
quyền quyết định cho trung úy Liêm. Khoảng
16.00h chiều ngày 19-01-1974, có 6 phản lực cơ
Trung Cộng xuất hiện trong vùng, nơi Trung Tâm
Chiến Báo của chiến hạm mấy lúc sau này
để giúp nhân viên nhận dạng phi cơ đối
phương, có dán h́nh chụp nh́n ngang cũng như
nh́n từ dưới lên h́nh các phản lực cơ
Mig17, Mig19 và Mig21, do đó chúng tôi nhận dạng 6
phản lực cơ này thuộc loại Mig19, v́ chúng
bay rất thấp lượn chung quanh các đảo
ở Hoàng Sa rất nhiều lần, có lẽ là quan sát
t́nh h́nh chung trong vùng, sau đó biến mất về
hướng Bắc. Đêm ngày 19-01-1974, trung úy Liêm
đă hội ư và bàn bạc với cả nhóm, lúc này
cận Tết gió mùa Đông Bắc, nếu dùng
xuồng cao su hiện có và poncho làm buồm, chặt cây
trên đảo làm cột buồm, cơ hội về
đến đất liền rất lớn, chúng tôi
nhất trí đào thoát về đất liền
bằng cách này, kiểm điểm lại lương
thực chúng tôi c̣n đủ dùng trong 4 ngày, 1 can nước
ngọt khoảng 18 lít, đêm hôm ấy b́nh thản
trôi qua sau một cơn biến động dữ
dội. Sáng
ngày hôm sau, 20-01-1974, 7 chiến hạm Trung Cộng
xuất hiện trong vùng, 4 trong số này là loại
Kronstadt Hộ tống hạm, c̣n 3 chiếc khác là
loại chuyển vận hạm, chúng tôi đoán là
họ đang chuẩn bị đổ bộ. Khoảng
09.00h ngày 20-01-1974, các chiến hạm Trung Cộng
đồng loạt bắn vào các băi biển ở các
đảo do ta trấn đóng để dọn băi
chuẩn bị cho lính của họ đổ bộ,
trên đảo Vĩnh Lạc (Money), chúng tôi ẩn núp
ở các hố cá nhân đă đào trước đây
dưới các gốc cây lớn trong rừng phía Nam
đảo, lúc này chúng tôi liên lạc đều
đặn với các đơn vị trú đóng, chúng
tôi được biết sau:
Chúng
tôi đă đổ bộ lên đảo ở chỗ
này v́ nơi đây bờ biển sâu, rất
thuận tiện cho việc đổ bộ, cũng chính
nơi đây chúng tôi đă gài nhiều ḿn và
lựu đạn để tổ chức pḥng
thủ. Ngay
lúc này chúng tôi quyết định rời đảo
từ hướng Nam, nơi đây bờ biển lài
đầy san hô và đá ngầm, chúng tôi 10 người
mang xuồng cao su và các vật dụng kể cả vũ
khí cá nhân và máy truyền tin, ra xa đến 2, 3km mà
mực nước chỉ ngang đến bụng, sau
đó chúng tôi lên xuồng, cố gằng bơi
thật nhanh, rời xa đảo càng sớm càng
tốt, khi thấy đảo chỉ c̣n 1 vệt
nhỏ, lúc ấy chúng tôi mới dựng cột dùng
Poncho căng làm buồm hướng về phía Đông
Nam. Chúng tôi lênh đênh trên biển 2 ngày lương
thực và nước ngọt cạn dần, trung úy
Liêm đă nh́n thấy điều này nên quyết
định giới hạn khẩu phần lương
thực và nước ngọt, đến chiều
ngày 22-01-1974, khi mặt trời chưa lặn, chúng
tôi ghi nhận 1 điều rất đặc biệt,
từ phía sau lưng chúng tôi phía xa ở đường
chân trời, bất chợt hỏa châu được
bắn lên, chúng tôi cũng đáp ứng lại
bằng hỏa châu, cả 2 bên đều làm tin cho
nhau bằng hỏa châu vài lần rồi sau đó im
bặt, chúng tôi không biết nguồn hỏa châu này
từ đâu, chỉ suy đoán là của phi cơ
trinh sát, hoặc của tàu ḍ t́m các nhân viên
chiến hạm bị trôi trên biển sau trận
hải chiến, sau này được chuyển từ
Quân Y viện Qui Nhơn về Bệnh Viện Hải
Quân Sài G̣n, khi trao đổi các mẫu chuyện, chúng
tôi mới biết đó là nhóm 23 người
HQ10 đào thoát trên bè cấp cứu của chiến
hạm, họ may mắn hơn chúng tôi khoảng vài
giờ sau, được 1 thương thuyền Ḥa
Lan cứu vớt. Chúng
tôi tiếp trục trôi trên biển đến ngày
thứ 6 th́ lương thực và nước ngọt
hoàn toàn hết sạch, từ đó trở đi,
nếu trời mưa, chúng tôi dùng Poncho hứng nước,
trời nắng th́ chúng tôi dùng ca sắt (đây là
loại mà quân đội thường dùng khi hành quân)
múc ít nước biển, sau đó lấy bao nylon
của bịch gạo sấy Quân tiếp vụ bít
lên, một thời gian sau, nước bay hơi đọng
ở phía dưới bao nylon, cẩn thận mở bao
nylon dùng lưỡi mà liếm, đó là cách chúng tôi
giải khát từ ngày thứ 6 trở đi. Sang
đến ngày thứ 10, anh em chúng tôi đă hoàn toàn
kiệt sức, trưa ngày hôm ấy, anh Nguyễn văn
Duyên (quản kho) đă hấp hối, trong t́nh
trạng mê sảng, anh lầm bầm trong miệng
những câu nghe không được rơ, khoảng 2
giờ sau, anh Nguyễn văn Cảnh (y tá) là người
khỏe nhất trong nhóm, đă lay mọi người
dậy cho hay là anh Nguyễn văn Duyên đă từ
trần, chiều ngày hôm ấy khoảng 15.00h, có
một tàu đánh cá chạy về hướng chúng
tôi, trên tàu đánh cá có 4 ngư phủ, đó là
những vị cứu tinh của chúng tôi, từng người
một, chúng tôi được họ ẵm lên tàu và
thay phiên nhau đút từng muỗng cháo cho anh em chúng
tôi, kế đó họ báo là anh Nguyễn văn Duyên
(quản kho) đă chết, và chúng tôi cho họ hay là
chúng tôi đă biết lúc mấy giờ trước,
xuồng cao su được các ngư phủ cột
vào sau lái tàu và sau đó kéo về quân cảng Qui Nhơn,
tàu đánh cá cập bến quân cảng Qui Nhơn lúc
xế chiều, và chúng tôi được xe hồng
thập tự chở vào Quân Y viện Qui Nhơn để
được cấp cứu, đây là ngày không bao
giờ quên của nhóm chúng tôi, ngày 30-01-1974, ngày chúng
tôi được cứu sống sau 10 ngày lênh đênh
trên biển. Trưa
ngày hôm sau, Phó Đề Đốc Lâm ngươn Tánh
(Tư Lệnh Phó Hải Quân) đă ghé bệnh
viện thăm viếng và ủy lạo anh em chúng tôi.
Xác anh Nguyễn văn Duyên (quản kho) được
vợ anh nhận lănh mang về an táng nơi quê nhà
nếu tôi nhớ không lầm là ở Vĩnh Long,
chị Duyên lúc ấy đang mang thai 3 tháng, măi về
sau này anh Nguyễn văn Cảnh (y tá) cho tôi hay
chị Duyên đă hạ sanh một cháu trai, tính đến
nay cháu ấy đă 36 tuổi rưởi, sắp sinh
nhật 37 tuổi. Một tuần sau, chúng tôi
được chuyển về Bệnh Viện Hải
Quân Sài G̣n để được tiếp tục
điều trị. Hai tháng tiếp theo, tôi được
thuyên chuyển về Căn Cứ Hải Quân Cát Lái
Sài G̣n và tôi phục vụ tại nơi đây cho
đến ngày 30-04-1975. Kính
thưa quư đồng hương, Trong
những ngày lửa đạn của đầu năm
1974, người lính VNCH thuộc các quân binh
chủng tôi đă phải 1 tay 2 súng, đương
đầu với 2 đối phương phía
Bắc, chưa hết c̣n phải chịu áp lực chính
trị lớn lao từ phía sau lưng của đồng
minh Hoa Kỳ. Chúng tôi nêu ra đây không phải là
để đỗ lỗi cho đồng minh về
sự thất bại này, cũng không phải là lư do
để biện minh cho sự sai lầm hèn kém
của ḿnh, mà là một sự yêu cầu thông
cảm cho t́nh trạng của anh em quân nhân chúng tôi lúc
ấy. Ngày
hôm nay, trước sự hiện diện đông
đảo của quư đồng hương, anh em
cựu quân nhân chúng tôi muốn nói lên lời tâm
huyết xuất phát tự đáy ḷng, những
lời nói theo lẽ từ lâu chúng tôi muốn nói, nhưng
không có dịp để nói, nhất là nói với
thế hệ thanh niên hiện tại, các thế
hệ đàn em. Tính
đến nay, đă 37 năm từ ngày xảy ra
trận hải chiến Hoàng Sa, riêng cá nhân tôi th́
đây là sự thất bại lớn lao nhất,
quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, trong
cảnh dầu sôi lửa bỏng của những ngày
cận Tết Giáp Dần 1974, những kẻ thất
phu như anh em chúng tôi đă không làm tṛn
được tránh nhiệm bảo vệ tổ
quốc, để mất vào tay Trung Cộng phần lănh
hải mà tiền nhân chúng ta đă bỏ ra không
biết bao nhiêu công lao để tạo dựng, tôi
cảm thấy hổ thẹn, chính v́ vậy mà
những bạn bè quen biết khi hỏi tôi về
sự việc này tôi chỉ ầm ừ cho qua
hoặc chỉ kể vắn tắt. So với
những chiến tích lẫy lừng của tiền nhân
trong suốt 4 ngàn năm dựng quốc và vệ
quốc, anh em chúng tôi quả là những kẻ
bất tài. Các
bạn thanh niên của thế hệ hiện tại, các
em, các cháu thân mến, Các
em, các cháu là những hậu duệ ưu tú của
Nguyễn trung Trực với lửa hồng Nhật
Tảo kinh thiên địa, kiếm bạc Kiên Giang khóc
quỷ thần, của Lư Thường Kiệt đă
phạt Tống b́nh Chiêm, của Trần Khánh Dư
với chiến tích Vân Đồn, của Trần b́nh
Trọng hiên ngang khi chiến đấu, bất
khuất khi sa cơ, thà làm quỷ nước Nam không
làm vương đất Bắc. Xin
hăy thứ lỗi cho thế hệ đàn anh chúng tôi
v́ đă không làm tṛn bổn phận bảo vệ
quốc gia, đành phải trút trách nhiệm vô cùng
nặng nề lên vai các em, các cháu . Các
bạn thanh niên, các em các cháu thân mến, Xin
hăy hướng mắt nh́n về phía Đông Việt
Nam để luôn luôn nhớ rằng 2 quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa vẫn c̣n bị Trung cộng
chiếm đóng. Việt Nam là một dân tộc
hiếu ḥa, chúng ta không muốn gây hiềm khích,
tạo chiến tranh hoặc cướp đất
đai của bất kỳ nước nào, chúng ta
chỉ muốn lấy lại những ǵ của chúng
ta. Đó là dành đoạt lại phần đất
thân yêu của tổ quốc Việt Nam chúng ta. Dù
ǵ cũng phải thực hiện cho bằng được,
cho dù 5, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa cũng
được. Để
dứt lời, chúng tôi kính cẩn nghiên ḿnh trước
anh linh các tử sĩ Hoàng Sa. Chúng
tôi xin gửi đến quư vị lời chào trân
trọng nhất. Kính
chào và cám ơn quư vị. Đặng
Quốc Tuấn |