Trong
lich sử tranh đấu giành độc lập
của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi,
hai lần nước ta đă được các nhà
cầm quyền đương thời chính thức
tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất
vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế
Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng
9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm
Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí
Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người
Việt chỉ biết hay chỉ được
học có một lần. Họ chỉ biết hay
chỉ được học bản tuyên ngôn
của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay
không được học bản tuyên ngôn của
Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do
đó chỉ được biết có một
nửa thay v́ toàn vẹn. Bài này nhằm bổ
khuyết cho t́nh trạng thiếu sót đó, đồng
thời phân tích nội dung và ư nghĩa của
từng bản.
TUYÊN
NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Hoàn
cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng
Đế Bảo Đại được công
bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật
đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau
một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng
9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất
này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước
khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến
Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam
bị sống dưới sự cai trị của
cả người Pháp, từ sau khi Ḥa Ước
1884 được kư kết, lẫn người
Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với
một hậu quả khủng khiếp là Trận
Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này
đă làm cho không chỉ riêng những người
Cộng Sản, vốn chủ trương đánh
đổ chế độ quân chủ để cướp
hay giành chính quyền (chữ của chính người
Cộng Sản) để từ đó thực thi cách
mạng vô sản mà luôn cả những người
không những không có cảm t́nh với chế độ
quân chủ đương thời mà c̣n chủ trương
lật đổ chế độ này để thay
thế bằng một chế độ dân chủ,
không nh́n nhận giá trị đích thực của
của bản tuyên ngôn này. Lư do là v́ Bảo Đại
luôn luôn bị coi như một ông vua bù
nh́n, trước kia trong tay người
Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo
họ trước kia người Pháp bảo sao, ông
làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945,
người Nhật bảo ông tuyên bố độc
lập th́ ông tuyên bố độc lập, thế
thôi. Người ta hiểu hay được học
đơn giản như vậy. Nền độc
lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ
chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên
ngôn của ông chẳng có một giá trị ǵ trong
lịch sử đấu tranh giành độc lập
của người Việt. Thực chất của nó
chỉ là “sự
tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của
triều đ́nh Bảo Đại”[1]
không hơn không kém. Nhiều người
lại viện lư do là nền độc lập này
chưa hàn toàn. Sự thực không đơn
giản như vậy. Người Nhật có lư do làm
đảo chính lật đổ người Pháp và
Bảo Đại có lư do phải chấp nhận yêu
cầu của người Nhật tuyên bố
Việt Nam độc lập. Lư do của Bảo
Đại đă được ông giải thích khi
tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng
thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng
đầu tiên của chính phủ Việt Nam độc
lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại
được Trần Trọng Kim kể lại như
sau:
-”Trước
kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước
ta, nay đă không giữ được nước
cho ta, để quân Nhật đánh đổ,
vậy những điều trong hiệp ước năm
1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng
thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy.
Trẫm phải dứng vai chủ trương
việc nước và lập chính phủ để
đối phó mọi việc.”[2]
Người ta cần phải nhớ là hơn mười
năm trước đó, sau khi du học từ Pháp
về tới Huế được hai ngày, ngày tháng
10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đă ra Dụ
số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định
chế độ quân chủ của Nam Triều
hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do
Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu
là Tôn Thất Hân, kư với Toàn Quyền Đông Dương
thời ông c̣n nhỏ tuổi và đang du học bên
Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành
c̣n lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách
nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ...kèm theo
nhiều dụ khác nhằm thực hiện những
cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính
phủ Nam Triều, nhưng đă bị người
Pháp ngăn cản và bị thất bại.
Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu
cầu tuyên bố độc lập của người
Nhật dù ǵ đi chăng nữa cũng là điều
vị hoàng đế c̣n trẻ tuổi từ lâu
mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và
giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim chịu
khó lập chính phủ mới.
Ông nói :
-“Trước kia người ḿnh chưa độc
lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc
lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có
đủ tư cách để độc lập.
Nếu không có chính phủ th́ người Nhật
bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách
cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho
nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố
lập thành một chính phủ để lo việc
nước.”[3]
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng
ở đây cho ta thấy từ lâu ông đă mong có
dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu
rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo “chưa
phải độc lập hẳn”.
Chưa hết, tuyên bố rồi
ông c̣n nói tới nhu cầu “phải
tỏ
ra có đủ tư cách để độc
lập”
và nhất là để tránh không
cho người Nhật “lập
cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất
hại cho nước ta”,
một
sự e ngại chỉ có những người có
kiến thức về lịch sử và chính trị
học mói biết được. Ngoài ra những
tiếng “rất
có hại cho nước ta”
cũng cho người ta thấy
đối tương của hành động tuyên cáo
độc lập của ông không phải là ngôi vua
mà là đất nước Việt Nam và dân tộc
Việt Nam, đất nước của ông và
thần dân của ông. Cái nh́n và quan điểm này
cũng như sự hiểu biết của ông
về t́nh h́nh thế giới và thế tất
bại của người Nhật về sau đă
được ông nói rơ trong hồi kư của ông.
Riêng đối với người Nhật, ông đă
không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài
Đại Đông Á của họ. Nói cách khác
Bảo Đại ở vị thế phải
chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rơ
sự phức tạp của vấn đề.
Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi
kư của ông: Độc lập là ước mơ
của tất cả mọi người Việt Nam
thời đó.
Nội dung bản Tuyên
ngôn
Đây là một bản văn tương đối
ngắn so với những bản văn cùng loại,
nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ
một ḥa ước Triều Đ́nh Huế trước
kia đă kư với nước Pháp, tuyên bố
Việt Nam độc lập, đứng vào khối
Đại Đông Á trong chương tŕnh phát
triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin
tưởng vào “ḷng thành” của nước
Nhật với nguyên văn như sau:
Cứ
t́nh h́nh chung trong thiên hạ, t́nh thế riêng cơi
Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố
từ ngày này điều ước bảo hộ
với nước Pháp băi bỏ và nước Nam khôi
phục quyền độc lập.
Nước
Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến
triển cho xứng đáng một quốc gia độc
lập và theo như lời tuyên ngôn chung của
Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho
cuộc thịnh vương chung.
Vậy
Chính Phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành
ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí
hợp tác với nước Nhật, đem hết
tài sản trong nước để cho đạt
được mục đích như trên.[4]
Bản Tuyên Ngôn được đề ngày
11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm
Bảo Đại thứ 20 được Bảo
Đại kư tên với sáu thượng thư phó
thự. Sáu vị nthương thư gồm có:
Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc
Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi
Bằng Đoàn, bộ H́nh, Trần Thanh Đạt,
bộ Học, và Trương Như Định,
bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần
đầu tiên trong lịch sử một văn
kiện được kư bởi nhà vua và tất
cả các nhân vật quan trọng nhất trong
triều đ́nh.[5]
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này
của Bảo Đại, người ta cần chú
ư tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất:
Bản tuyên ngôn được mở đầu
bằng quyết định hủy bỏ một
điều ước đă được kư
kết trước đó mà v́ t́nh h́nh biến
chuyển, một trong hai phía đă không tôn trọng
những ǵ ḿnh đă kư kết hay không thực thi
được những ǵ ḿnh đă kư kết trong
một sinh hoạt quốc tế. Điều ước
bị hủy bỏ ở đây là Ḥa Ước Giáp
Thân được kư kết giữa Triều Đ́nh
Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884,
đặc biệt hai điều khoản của ḥa
ước này là
điều khoản thứ nhất, theo đó
Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền
Bảo Hộ của nước Pháp và điều
khoản thứ mười lăm, theo đó nước
Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn
lănh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai
trị và bảo vệ nhà vua chống lại
những sự xâm nhập từ bên ngoài
và những cuộc nổi
loạn từ bên trong..[6].
Sự hủy bỏ này phải được
hiểu là do người Pháp bất lực không
bảo vệ được Việt Nam trước
sự bành trướng của quân đội
Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đă
bị người Nhật lật đổ trong
cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn
phương từ phía Bảo Đại với tư
cách là người kế vị chính thống
của Triều Đ́nh Nhà Nguyễn căn cứ vào
những ǵ đă xảy ra vào thời điểm này.
Điểm cần
được lưu ư ở đây là từ
ngữ ḥa ước trong văn kiện này
được dùng theo số ít, trong tiếng
Việt, không có chữ “các” hay “những” đi
kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau.
Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo
chỉ hủy bỏ ḥa ước bảo hộ
tức Ḥa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay v́
hủy bỏ tất cả các ḥa ước đă
được kư kết trước đó. Đó là
các Ḥa Ước Nhâm Tuất 1862 và Ḥa Ước
Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ
theo đó xứ này đă bị nhường
dứt cho người Pháp và trở thành thuộc
địa của họ, không c̣n thuộc quyền
cai trị của Vua và Triều Đ́nh Huế
nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ
do đó chưa được giải quyết ngay
nhưng đă trở thành mối bận tâm và
một phần hành quan trọng của chính Bảo
Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến
Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính
Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt
thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam
Kỳ chỉ được người Nhật trao
trả trong những ngày cuối của chính phủ
này và chỉ chính thức trở về với lănh
thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào
giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại
với tư cách Quốc Trưởng tiếp
nhận từ tay người
Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người
biết đến. Hai chữ “độc lập” đă được
sử dụng (nước
Việt Nam khôi phục quyền độc lập)
và nhà vua đă dùng danh từ tuyên
ngôn độc lập (proclamation d’indépendance) khi
nói tới văn kiện này trong hồi kư của ông.[7]
Thứ hai: ”Nước
Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến
triển cho xứng đáng một quốc gia độc
lập....giúp cho cuộc thịnh vượng chung.”
Câu này xác định
phương thức hoạt động nhằm
thực hiện tư cách độc lập (tự
phát triển như một quốc gia độc
lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho
xứng đáng một quốc gia độc lập)
và thế đứng của Việt Nam trên trường
quốc tế (tự coi ḿnh là một phần
tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc
thịnh vượng chung). Nên để tới
khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người
Nhật đưa ra trong thời gian này, một
khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập
của các nước Á Châu lúc đó c̣n là
thuộc địa của các đế quốc Âu
Châu. Đây cũng là một cách nói trước
một cách khéo léo để ngăn chặn trước
sự can thiệp vào nội t́nh Việt Nam của
người Nhật.
Thứ ba: “Chính
phủ Việt Nam một ḷng tin
cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế
quốc...”. Câu
này nhằm buộc chặt
lời hứa của người Nhật bằng cách
nhấn mạnh vào sự trung thành với những ǵ
họ đă nói, với quan niệm trung thành như
một truyền thống chung của các dân tộc
Á Đông.
Thứ tư: ”quyết
chí hợp tác với nước Nhật đem
hết tài sản trong nước để cho đạt
được mục đích như trên.” Mục
đích như trên là mục đích ǵ? Phải
hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự
tiến triển cho xứng đáng một quốc
gia độc lập”
và “giúp cho cuộc
thịnh vương chung”
như
là một
phần tử của khối Đại Đông Á
chứ không phải cho Đế Quốc Nhật
Bản hay rơ hơn nữa là choriêng nước
Nhật.
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy
ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan
trọng v́ nó vừa mang tính cách pháp lư, có liên
hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác
đă được h́nh
thành trước đó, vừa biểu lộ
chủ trương của một quốc gia
được trao trả độc lập trong
một hoàn cảnh không nhận không được,
vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc
t́nh h́nh thế giới biến chuyển quá
nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và
quốc gia đảm nhận sự trao trả
nền độc lập này. Mỗi điều nói
ra, mỗi chữ được viết đều
đ̣i hỏi người soạn thảo phải vô
cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả
của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến
nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang
giữ chức thượng thư bộ lại.
Điều này có nhiều phần đúng nếu người
ta để ư tới khả năng nghị luận
và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu
biết và kinh nghiệm của một học giả,
một người làm báo, và sau đó là một
ngự tiền văn pḥng tổng lư của nhà vua cũng
như thượng
thư bộ lại trước đó. Nó cũng
được Phạm Khắc Ḥe, đương
thời là ngự tiền văn pḥng tổng lư
của Bảo Đại, trong hồi kư của ông này
xác nhận.[8]
Ngoài ra ta không c̣n một tài liệu nào khác nói
về sự kiện này.
BẢN TUYÊN NGÔN
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A HỒ CHÍ MINH
Hoàn cảnh
được công bố
Bản tuyên ngôn này đă được
Hồ Chí Minh một ḿnh soạn thảo, một ḿnh
đứng tên và đọc tại Quảng Trường
Ba Đ́nh ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2
tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên
ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần
lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười
ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính
quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại
chính thức thoái vị. V́ được công
bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại,
sau khi người Nhật đă đầu hàng cũng
như chế độ bảo hộ của người
Pháp đă bị người Nhật lật đổ
trước đó, bản tuyên ngôn này đă bị
nhiều người cho là thừa, không cần
thiết, chưa kể tới sự kiện là chính
phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế
vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại
thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái
vị của Bảo Đại. Chiếu này đă
được Hồ Chí Minh và chính phủ mới
của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa
trong những điều kiện này đương
nhiên kế tục những ǵ Bảo Đại và
chính phủ Trần Trọng Kim đă làm trước
đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như
vậy là hoàn toàn hợp lư đứng trên phương
diện công pháp quốc tế.
Một lập luận đơn giản và hoàn
toàn dễ hiểu. Câu hỏi được đặt
ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên
của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của ḿnh
có biết là trước đó Bảo Đại
đă làm công việc này rồi hay không? và biết
như vậy tại sao ông lại c̣n làm lại
việc đó một lần nữa?
Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời
là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải
biết là Bảo Đại trước đó đă
tuyên cáo hủy bỏ ḥa ước bảo hộ
1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công
việc này v́ ông có nhu cầu phải làm. Những
nhu cầu đó là những nhu cầu ǵ? Thứ
nhất là v́ từ lâu toàn
dân ai nấy đếu khao khát được
thấy nước nhà độc lập, đúng như
Bảo Đại đă viết trong hồi kư
của ông, độc lập là ước mơ
của mọi người dân Việt [9],
cũng như nó được phản ảnh ở
khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng
9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc
đó là gơ đúng tần số của bất
cứ một người dân Việt Nam nào từ
đó đem lại công lao và thanh thế cho người
chính thức công bố ra điều đó. Thứ
hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ
Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng
như ở ngoài nước. Vơ Nguyên Giáp, một
trong những cộng sự viên thân cận nhất
của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đă
viết trong hồi kư của ḿnh rằng: “Ba
tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đă
vang đi khắp thế giới với những
truyền thuyết mà người ta thường dành
cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái
tên mới của Bác vẫn c̣n mới lạ
với nhiều đồng bào. Số người
biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái
Quốc khi đó không nhiều.”[10]
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng
8 năm 1945, khi nhận được điện tín
của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn
Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường
nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà
vua thoái vị nhường quyền lănh đạo
quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng
với chủ tịch là “Cụ
Hồ Chí Minh”
đă không biết Hồ Chí Minh
là ai. C̣n Phạm Khắc Ḥe, người được
Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không
biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang
Phiệt, một đảng viên Cộng Sản,
rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi
vắng và Đào Duy Anh lục
lọi, truy t́m các tài liệu, sách vở ông có
nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn
Hiền, ở Bắc về mới xác nhận
Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[11]
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối
với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do
đó là cách tự giới thiệu ḿnh tốt
nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể
đồng bào và để được nh́n và
được chấp nhận như là lănh tụ
đầu tiên đă mang lại được độc
lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam,
một nhu cầu tối cần thiết, dầu
rằng nền độc lập này hoàn toàn không
phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo
ra mà là do những biến cố khác của lịch
sử, trong đó quan trọng nhất là Đảo
Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người
Nhật đă loại bỏ người Pháp, kèm
theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng
Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng
là sự bại trận sau này của người
Nhật. Chúng ta cũng cần để ư là đối
với đa số người Việt Nam thời
đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng
như Nguyễn Hữu Đang, người được
Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này,
gọi qua các văn thư chính thức ông
đă gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó
có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội [12]
và theo b́a in bản tuyên ngôn của bản đầu
tiên năm 1945, do
Chủ Tịch Chính Phủ
Lâm Thời Việt Nam
Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”[13].
Nhưng đối với Hồ
Chí Minh ngày 2 tháng 9 c̣n có một ư nghĩa quan
trọng hơn nữa. Đó
là “ngày
khép lại
cuộc Cách mạng tháng
Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng ḥa”,
theo lời ông nói với
Nguyễn Hữu Đang, “Chú
phải nhớ...[14]
Tại sao vậy? Tại v́
Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước
khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc
biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt
họ trước một sự đă rồi, không
thể đảo ngược đươc.. Sự
kiện vua Bảo Đại thoái vị được
nhắc tới và câu “Toàn
dân Việt Nam, trên dưới
một ḷng, kiên quyết chống lại âm mưu
của bọn thực dân Pháp”
là nhằm
vào mục tiêu này. Một lư do khác cũng được
người ta nhắc tới là cho măi đến ngày
2 tháng 9 năm 1945 nên độc lập của nước
Việt Nam mới thực sự là hoàn toàn. Lư do này
tuy nhiên cũng c̣n cần phải được xét
lại v́ nó không hoàn toàn đơn giản ở
thời điểm này và các thời điểm sau
đó. Những lư do lien hệ tới nhu cầu
của cá nhân Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng Sản đương
thời vẫn là chính.
Nội
dung bản Tuyên Ngôn
Bản
Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, v́
được phổ biến rộng răi và hầu
như đ ược coi là duy nhất gắn
liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa rồi Cộng Ḥa
Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đă
được nhiều người đọc, phân
tích và t́m hiểu. Trong phần này người
viết chỉ nêu lên những ǵ ít được
mọi người nhắc hay để ư đến
mà thôi.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại
đơn giản chỉ là một bản văn
thuần túy pháp lư nhằm hủy bỏ ḥa ước
bảo hộ mà triều đ́nh Huế đă kư trước
đó căn cứ vào sự bất lực của
người Pháp, v́ người Pháp đă không
giữ được cam kết ghi trong điều
khoản thứ nhất và điều khoản
thứ mười lăm của ḥa ước này, mà
ít nhằm tới một quần chúng hay quốc
tế, th́ bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh
nhằm vào toàn thể người Việt qua
lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”.
Tuy nhiên ở những đoạn
cuối tác giả lại nhắm vào các nước
Đồng Minh. Điều này phải tinh ư người
ta mới nhận ra được. Về tư cách,
Bảo Đại nhân
danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng
đầu của một quốc gia độc
lập đă tồn tại từ trước khi người
Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính
thống của các vua Nhà Nguyễn, th́ Hồ Chí
Minh đă nhân danh “Lâm
Thời Chính Phủ của nước
Việt Nam mới.”
Mới là v́ đến ngày đó
chính phủ này mới chính thức được
ra mắt trước quốc dân. Lời văn do
đó phản ảnh hai tư cách của hai bản
chất con người khác nhau. Một người là
hoàng đế kế thừa chính thống của
một triều đại đă trị v́ một
quốc gia từ hơn một trăm năm trước
dù cho là chỉ c̣n hư vị; người kia là lănh
tụ của một phong trào cách mạng vừa
chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương
chống Nhật và lật đổ chế độ
quân chủ để giành chính quyền. Văn phong
trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn
phong b́nh thường của người cầm
quyền cao nhất nước; c̣n văn phong
của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở
một mức độ nào đó có tính cách b́nh dân,
kể lể dài ḍng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí
Minh đă trích dẫn một
số câu trong phần đầu của Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của người
Mỹ và một câu trong Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền
và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích
dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của
quần chúng Việt Nam c̣n thấp kém, đặc
biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế
giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng
người Việt mà nhằm vào người
Mỹ và người Pháp. Lư do là Hồ Chí Minh như
là một đảng viên Cộng Sản Quốc
Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai
hết là người Mỹ vào thời điểm
này đă đóng một vai tṛ vô cùng quan trọng
trong chính t́nh ở Á Châu, trong đó có Việt Nam.
Được nguời Mỹ công nhận là coi như
làm chủ được chính quyền. Hiểu
được như vậy, ngay từ khi c̣n ở
chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người
Mỹ đă yêu cầu họ cung cấp cho ông
một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước
Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước
Mỹ như là một cách để chinh phục
cảm t́nh của họ. Đó chính là lư do tại
sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi
Hồ Chí Minh tuyên đọc Bản Tuyên Ngôn
Dộc Lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng, ông
đă cho xe tới chở Đại Úy Archemedes L. A.
Patti, trưởng nhóm t́nh báo OSS mới tới Hà
Nội không lâu, đến gặp ông. Mục đích
của cuộc gặp mặt theo Hồ Chí Minh không
phải là để bàn về chuyện người
Tàu mà là để nói về những ǵ ông đă làm
vài ngày trước đó (buổi họp ngày 27
về Chính Phủ Lâm Thời) và ít ngày sau đó (ngày
2 tháng 9 đă được chọn là Ngày Độc
Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam
độc lập và giới thiệu thành phần chính
phủ lâm thời) với Patti như là người
đầu tiên được biết. Quan trọng hơn
hết Hồ Chí Minh đă cho Patti coi bản nháp
của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông
bằng tiếng Việt với những sửc
chữa chằng chịt mà Pattti không đọc
được và chỉ hiểu sơ sơ qua
lời một thông ngôn.[15]V́
chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ư và
cảm t́nh của người Mỹ, Hồ Chí Minh
đă không đi xa hơn nữa và rất có
thể ông cũng không hiểu rơ hơn hay cố t́nh
không hiểu sự khác biệt trong quá tŕnh giành
độc lập của mười ba thuộc địa
của người Mỹ vào cuối thế kỷ
XVIII và của nước Việt Nam thời năm
1945. V́ vậy ông đă áp dụng quan điểm
của người Mỹ về quyền b́nh đẳng,
quyền được sống tự do và mưu
cầu hạnh phúc của mọi-người-như-là-những-cá-nhân-riêng-lẻ
vào trường hợp chung của cả nước
Việt Nam như một-quốc-gia-đ̣i-quyền-độc-lập,
một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo
quan điểm chủ quan của ḿnh bằng lối
loại suy với dụng ư riêng. Cũng vậy
với những ǵ ông trích dẫn từ bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng
Pháp.
Phần kế
tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người
Nhật, đồng thời ông kể công cho
Việt Minh: “Trước
ngày mồng 9 tháng 3, đă bao lần Việt minh
đă kêu gọi người Pháp liên minh để
chống Nhật...”,
sau đó “đă
giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên
thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra
khỏi nhà giam
Nhật và bảo
vệ tính mạng
và tài sản cho họ”
và kết
luận rằng “Sự
thật là dân ta đă lấy lại nước
Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải
từ tay Pháp”.
Điều như người
viết đă nói ở trên là không đúng sự
thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại
- Trần Trọng Kim đă lấy lại được
toàn thể nước Việt Nam từ Bắc chí
Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Kư từ trong tay người
Nhật, trước khi người Nhật đầu
hàng và Việt Minh đă cướp chính quyền
từ trong tay của chính phủ Bảo Đại
-Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm
1945 sau đó, sau khi Nhật đă đầu hàng, nói
cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945. Lư do là v́
Việt Minh “Việt Minh
chủ trương khác”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng
Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này
là Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng trong Chính
Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh[16].Trong
những đoạn này Hồ Chí Minh đă dùng các
từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất
nước ta”, nhưng mục đích không
nhằm vào người Việt Nam mà vào người
Pháp. Ông đă kể công vói người Pháp dự
trù cho việc họ trở lại sau này.
Phần cuối cùng của bản văn,
từ “Bởi thế
cho nên...” cho đến hết, lời văn cho
người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng
về người Việt mà về cả thế
giới. Trong phần này ông xưng là “chúng
tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn
dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly
hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước
Đồng Minh công nhận quyền độc
lập của dân Việt-nam...Phần này Hồ Chí
Minh thay v́ nói về quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc
của mọi - người - như - những - cá -
nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải
hiểu là tự nhiên ai cũng có, đă nói về
quyền hưởng
tự do và độc lập của cả nước.
Đây là một lập luận có tính cách cưỡng
ép, hoàn toàn không đúng với tinh thần của
bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Người Mỹ và nhất là
của bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp
mà danh xưng của nó đă nói lên một cách rơ
ràng: Nhân Quyền và Dân
Quyền, không thể hiểu sai được.
Độc lập của một dân tộc không
phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do,
dân quyền và nhân quyền của mỗi một cá
nhân người dân như những thành phần
của dân tộc ấy. Không những thế, thay v́
coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ
Chí Minh lại lư luận là v́ dân tộc Việt Nam
là “Một
dân tộc đă gan góc chống ách nô
lệ của Pháp hơn
tám mươi năm nay, một dân tộc đă gan
góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít
mấy năm nay, dân tộc đó phải được
tự do! Dân tộc ấy phải được
độc lập!”. Lư
luận như vậy người
ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng
những dân tộc không gan góc chống lại
những thế lực đè nén, áp bức ḿnh và
không gan góc đứng về phe Đồng Minh,
chống phát-xít là không đáng được
tự do, độc lập. Cũng vậy, với các
quyền độc lập, tự do và mưu cầu
hạnh phúc của con người do Thượng
Đết ban cho như là những cá nhân trong xă
hội. Chính v́ vậy Luật SưTrần thanh
Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do
phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đă có lư
khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này
là “một
bản tuyên ngôn phi nhân quyền”[17]
dù cho là nó đă được chính tác giả
của nó trích và soạn thảo theo tinh thần
của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người
Mỹ và bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân
Quyền của người
Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự
kiện này đă phản ảnh chủ trương
giai đoạn, khôn phải là mục tiêu cuối cùng
của những người Cộng Sản Việt
Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường
hợp điển h́nh.
Về thời gian soạn thảo, nhiều người
cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày sau khi ông
từ chiến khu của Việt Minh về Hà
Nội, trong khi ông c̣n phải bận rộn với
nhiều vấn đề cấp bách khác.
Điều này không đúng v́ trước
đó từ lâu, như đă nói ở trên, khi
tiếp xúc với một sĩ quan người
Mỹ, ông nhờ người này kiếm cho ông
một bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của người
Mỹ rồi.[18]
Nói cách khác, Hồ Chí Minh đă nghĩ tới và
đă thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu
chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2
tháng 9 năm 1945. Do đó những ǵ ông nói tới,
những từ ngữ ông dùng đều được
cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ư riêng
với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này
phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và
có thể sau này khi mọi việc liên hệ đă
xảy ra rồi, người ta mới có thể
hiểu được. Điều đáng tiếc là
khi thực thi những ǵ ông đă trích dẫn và
đề cao trong bản tuyên ngôn của ông, Hồ
Chí Minh và các đồng chí của ông và sau này
những người nối nghiệp ông trong Đảng
Cộng Sản Việt Nam chỉ thực thi những
ǵ ông đă suy rộng ra theo lối suy luận
loại suy (độc lập của dân tộc) mà làm
ngược lại những ǵ đích thực
về nhân quyền và quyền tự do mưu
cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người,
theo đúng nguyên bản của bản Tuyên Ngôn
Độc Lập của người Mỹ và
bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của
ngựi Pháp. Nói cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng
chí của ông trong đó có Trường Chinh, Vơ Nguyên
Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu
duệ của các ông, thay v́ đi theo con đường
tự do, dân chủ của các nhà lănh đạo
của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, trong đó có
Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần
của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của
họ mà các ông đă trích dẫn phần mở
đầu, đă theo con đường của Lê
Nin, Xít Ta Lin và Mao Trạch Đông. Hậu quả là
67 năm sau, Bà Hillary Clinton, Ngoại Trưởng Hoa
Kỳ, khi đế thăm Việt Nam đă phải
công khai nhắc người đồng nhiệm
của Bà ở Việt Nam và luôn cả các ông
Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính
Phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư
Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn
đề dân chủ và nhân quyền ở Việt
Nam. Người ta không hiểu là khi làm công việc
nhắc nhở này, Bà Clinton có biết rằng 67 năm
trước Hồ Chí Minh đă đọc bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của ông với
phần trích dẫn về nhân quyền từ
bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước
Mỹ hay không? Người viết tin là có. Cũng
vậy với Đại Sứ David Shear khi ông này
tới thăm Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và
Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Quảng Độ
ở Saigon. Nhưng dù có hay không, khi trích dẫn
những tài liệu này, Hồ Chí Minh và từ đó
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đă
mắc một món nợ tinh thần với cả hai
dân tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9
năm 2012 này, những ai quan tâm đến
vấn đề nhân quyền và dân quyền ở
Việt Nam hiện tại, nhất là người
Mỹ và người Pháp, nên nhắc nhở
những người đang nắm vai tṛ lănh đạo
ở quốc gia này phải tôn trọng và thực
thi những ǵ Hồ Chí Minh, người đă khai sáng
nên chế độ của họ đă long
trọng trích dẫn và tuyên đọc 67 năm trước,
cần phải “thật thà”[19]
coi trọng những lư tưởng mà chính vị
“Cha Già” của họ đă viện dẫn từ
hai bàn Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và
Tuyên Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp, coi như
một h́nh thức trả nợ mà b́nh thường
mọi người đều phải làm nếu không
muốn mang tiếng là lừa đảo.
Phạm Cao Dương
[1]
Dương Trung Quốc, Việt
Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử
(1919-1945). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo
Dục, 2002, tr. 288.
[2]
Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một
Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon:
Nhà Xuất Bản Vinh Sơn, 1969, tr. 49.
[4]
Dương Trung Quốc, Việt
Nam,,,, đă dẫn, tr.388; Nguyễn Vỹ. Tuấn,
Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Tḥi
Đại Từ 1900 đến 1970), Quyển
II. Saiggon: ?, 1970. Fort Smth, AR tái bản tại Hoa
Kỳ, ?, tr. 512.
S. M. Bao Dai, Le Dragon d’Annam. Paris: Plon, 1990. tr. ; Cameron, Alan W. Vietnam
Crisis.A Documentary History, Vol. I, 1940-1956. Ithaca, NY:
Cornell University Press, 1971, tr. 31-32; Hai bản tiếng
Việt in trong tác phẩm của Dương Trung
Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi
khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn toàn
giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam
1945, The Quest for Powe (Berkeley: University of California
Press, 1995), trang 71 có nói tới bản tiếng
Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và
bản đăng trên tờ Dân
Báo, ngày 12 tháng 3. Vũ Ngự Chiêu cũng nói
tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời nguời
viết bài này chưa đến được các
nơi cần đến để t́m khiếm.
[5]
S.M Bao Dai, Le Drafon d’Annam, tr. 104
[6]
Taboulet, Georges, La geste
francaise en Indochine, histoire par les extes de la France en
Indochine des origins à 1914, tome II. Paris:
Adrien-Maisonneuve, 1956, tr. 809-812; Phan Khoang, Việt
Nam Pháp Thuộc Sử, 1884-1945. Saigon: ?, 1961, tái
Bản ở Hoa Kỳ, tr. 322-328.
[7]
S.M. Bao Dai, như trên.
[8]
Phạm Khắc Hoè, Từ
Triều Đ́nh Huế Đến Chiến Khu
Việt Bắc. Huế: Thuận Hóa, 1987, tr. 16.
[9]
S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annnam…, tr. 103.
[10]
Vơ Nguyên Giáp. “Những Năm Tháng Không Thể Nào
Quên”, trong Tổng
Tập Hồi Kư. Hà Nội: Nhà Xuất
Bản Quân Đội Nhân Dân, 2006, tr. 255.
[11]
Phạm Khắc Hoè. Từ
Triều Đ́nh Huế…., tr. 76.
[12]
Phùng Quán, Ba Phút
Sự Thật.Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà
Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114-115.
[13]
Hồ Chí Minh.Tuyên Ngôn
Độc Lập Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà. Hà Nội: Nhà Xuất Bản
Sự Thật, 1976, tr. 13. Nguyễn Khánh Toàn và
Lữ Huy Nguyên,
Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập
36. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xă
Hội, 1980, tr. 812-823.
[15]
Patti, Archimedes L.A. Why
Vietnam? Prelude to America’s Albatross. Berkeley; University
of California Press, 1980, tr. 223.
[16]
Thụy Khuê, Nói
Chuyện Với Hoàng Xuân Hăn và Tạ Trong
Hiệp. CaliforniaVăn Nghệ, 2002, tr. 180-181.
[17]
Trần Thanh Hiệp và Trương Giang. “Một
Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật
Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ
Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
[18]
Sĩ quan này là Trung Úy Dan Phelan, người đă
nhả dù xuống gặp Hồ Chí Minh trong
chiến khu của ông này. Xin xem: Fenn, Charles, Ho Chi Minh, A Bibliographical Introduction. New York: Scribner’s
Sons, 1973, tr. 81-82; Duiker, William J. Ho
Chi Minh. New York:Hyperion, 2000, tr. 301; Bartholomew-Feis,
Dixee R The OSS and Ho Chi Minh, Unexpected Allies Against Japan.
Lawrence, Kansas: University Press of Kansas, 2006, tr. 243-244;
bản dịch tiếng Việt của Lương
Lê Giang nhan đề OSS
và Hồ Chí Minh, Đồng Minh Bất Ngờ
Trong Cuộc Chiến Chống Phát Xít Nhật. Hà
Nội: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 2007, tr.
367-368. Xin để ư: trong nhan đề tiếng
Việt người dịch đă thêm hai chữ
Phát Xít vào tên nước Nhật mà trong nhan
đề nguyên thủy tiếng Anh không có.
[19]
chữ Hồ Chí Minh thường dùng.