Cách
Trung Cộng khai thác kẽ hở trong luật quốc
tế để hùng bá ở Đông Á
James
Kraska TS.Phan Văn Song phỏng dịch |
James
Kraska là
một Thành viên Cao cấp trong Chương tŕnh về
An ninh Quốc gia của FPRI. Ông là Giáo sư Luật và
Chính sách Đại dương tại Trung tâm Nghiên
cứu về Luật quốc tế Stockton tại US
Naval War College; Nghiên cứu viên ưu tú tại Viện
Luật Biển, trường Luật Berkeley Đại
học California; Thành viên Cao cấp Trung tâm Luật và
Chính sách Đại dương tại trường
Luật Đại học Virginia; và Thành viên Cao cấp
tại Trung tâm Luật và An ninh Quốc gia tại trường
Luật Đại học Virginia. Ai
“quan tâm tới kẽ hở” ở Biển Đông?
Kẽ
hở,
được tạo ra trong luật pháp quốc tế
liên quan đến việc dùng vũ lực hay cưỡng
ép và quyền tự vệ của các quốc gia
nạn nhân. Trung Cộng khai thác lỗ hổng này trong
luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ
lực để buộc các nước láng giềng
chấp nhận quyền bá chủ của Trung Cộng
ở Đông Nam Á. Với
việc sử dụng các lực lượng trên
biển không đối xứng (chủ yếu là các tàu
cá và tàu hải cảnh), Trung Cộng thôn tính Biển
Đông và Biển Hoa Đông một cách chậm và
chắc. Bằng cách
khai thác kẽ hở trong luật pháp quốc tế do Ṭa
án Quốc tế (ICJ) tạo ra, họ đă tiến hành
việc này khiến các quốc gia trong khu vực khó có
thể phản ứng một cách hiệu quả. Phương
diện pháp lư này của chánh trị quốc tế
về các tranh chấp biển ở Đông Á không
được nhiều người hiểu biết, nhưng
đó là cốt lơi của chiến lược của
Trung Cộng trong khu vực. 1/
Chiến lược của Trung Cộng Trong
mưu đồ lớn này, Trung Cộng phải vượt
qua kháng cự từ ba nhóm đối kháng. Thứ
nhất, Trung
Cộng phải áp đảo Nhựt Bổn và Đại
Hàn ở Biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Kế
hoạch 1:
chia để chinh phục. Phải chắc chắn rằng
Nhựt Bổn và Đại Hàn ghét nhau nhiều hơn
là họ ghét Trung Cộng. Chừng nào mà Nhựt và Hàn
c̣n ấp ủ nỗi đau lịch sử th́ Tàu
Cộng c̣n thủ lợi. Thứ hai, Bắc Kinh phải
“Phần Lan hoá”
các quốc gia xung quanh Biển Đông bằng cách
đưa vùng biển nửa kín này vào quỹ đạo
của nó. Kế
hoạch 2:
sử dụng một bộ cà rốt và gậy để
đưa các “bạn ngoài mặt” (frenemies)
yếu hơn nhiều – như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia,
Brunei
– vào ṿng thần phục. Tương tự như
vậy, sự chia rẽ trong nhà ASEAN làm lợi cho Trung
Cộng. Chiến lược này tự thân nó là
một cách tiếp cận mạnh mẽ, và 150 năm
đầu Mỹ gieo rắc thống trị và chia
rẽ ở Nam Mỹ đă mở ra một con
đường tuyệt vời cho một đế
quốc đang h́nh thành tiếp bước. Cuối cùng, Bắc Kinh
phải thủ thế
để ngăn ngừa khả năng can thiệp và
ngăn trở của hai cường quốc biển
lớn bên ngoài khu vực. Chỉ có Huê Kỳ và Ấn
Độ
là ở trong vị thế cản phá tham vọng
của Trung Cộng thôi. Kế
hoạch 3: gây sức ép trong khu vực
mà không liều lĩnh tới mức biến thành
chiến tranh trên biển giữa các cường
quốc. Đặc biệt, tránh né những “quá khích”
dễ đụng chạm vào các thỏa thuận an ninh
của Mỹ với Nhựt Bổn, Đại Hàn
hoặc Philippines [1]. Trong mưu đồ của ba
kế hoạch này, Trung Cộng gây sức ép qua hết
các bực thang của sức ép mức thấp, song
cẩn thận không đến mức bị xem là
“tấn công vũ trang” trong luật pháp quốc
tế, và do đó mở đường cho quyền
tự vệ của cá nhân và tập thể. Ví dụ, bắt đầu vào
năm 1999, Trung Cộng tuyên bố “lệnh cấm đánh bắt cá”
theo
mùa khắp Biển Đông, dù họ không có thẩm
quyền pháp lư để quy định việc đánh
cá ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư
(EEZ) của ḿnh. Chỗ
xa nhất mà lệnh cấm của Trung Cộng vượt
tới cách mũi phía nam của đảo Hải Nam hơn
1000 hải lư.
Lệnh cấm đánh bắt cá nhằm cai quản
nguồn cá trong vùng EEZ của
Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và Brunei.
Hăy tưởng tượng điều tương
tự ấy nếu như Huê Kỳ bắt đầu
kiểm soát các tàu đánh cá và các giàn khoan dầu
trong EEZ của Mexico. Trung Cộng cũng đă không
ngớt đề cao quyền lịch sử đối
với các đảo và các cá thể địa lư, và
hầu như tất cả các vùng biển liên quan
của toàn bộ Biển Đông. Thế giới đều mất kiên nhẫn với
yêu sách lạ lùng, vừa lạnh lùng vừa ngang ngược
của Trung Cộng về “vùng nước lịch
sử” ở Biển Đông.
Yêu sách biển được dựa trên các nguyên
tắc được quy định trong Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (LOSC) mà
Trung Cộng tham gia năm 1996. Tuy nhiên, yêu sách quá
mức nầy của Bắc Kinh là dựa trên
đường 9 (bây giờ 10) đoạn vốn
được Trung Hoa Dân Quốc – Đài Loan công
bố năm 1947. Dù
một quy tắc cơ bản của các nguồn pháp
luật quốc tế là cái “mới nhứt
chiếm ưu thế”, Trung Cộng vẫn trắng
trợn nêu ra yêu sách đường nhiều đoạn
như một con ách đứng đầu các lá bài
để bỏ qua nghĩa vụ pháp lư trong Công ước
Luật biển.[2] Trung Cộng cũng đă làm mới
yêu sách lịch sử ở Biển Hoa Đông đối
với quần đảo Senkaku, và ở Hoàng Hải. Yêu
sách biển tạo thành “lỗi
tự gây ra” [unforced error] lớn nhất
của Trung Cộng khi mạo nhận rằng ḿnh là
một nước lớn “đang trỗi dậy
một cách hoà b́nh”. 2/ Chiến thuật của
Trung Cộng Bắc Kinh triển khai
nhiều mặt ở số lượng đáng kinh
ngạc các giàn tàu thuyền và máy bay dân sự và thương
mại trợ giúp áp đặt yêu sách của ḿnh và
hù dọa nước khác. Tàu đánh cá và tàu ngư
chính là đội tiên phong của chánh sách này, dẫn
đến các cuộc đụng độ thường
xuyên với tàu tuần tiểu an ninh biển trong EEZ
của các nước láng giềng.[3] Defense News gọi
đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc là những
“kẻ phụ tá đắc lực” (proxy enforcer)
hoạt động phối hợp với Cảnh sát
biển và Hải quân Giải phóng Nhơn dân Trung
Quốc (PLAN) để “khoanh vùng một khu vực
tranh chấp tranh giành hoặc tạo ra một hàng rào
bảo vệ” đối với lực lượng
hải quân của các đối thủ. Chẳng
hạn, tàu Hải giám Trung Cộng đă đóng kín hoàn
toàn lối vào đầm phá rộng lớn của băi
ngầm Scarborough, nằm bên trong EEZ của Philippines và cách
Tây Philippines 125 hải lư. Đôi khi, những biến
cố này làm chết người. Thí dụ: tháng 12
năm 2011, một ngư dân Trung Cộng giết
chết một cảnh sát biển Đại Hàn khi anh
này cố t́m cách bắt giữ tàu Trung Quốc v́
đánh cá bất hợp pháp. Đoàn tàu đánh cá là “đám
được thuê phản đối” (rent-a-mobs)
trên biển, tuy nhiên chúng đặt ra một t́nh
thế lưỡng nan nhạy cảm đối với
các nước trong khu vực. Nếu tàu đánh cá
bị lực lượng thi hành pháp luật biển
của các nước láng giềng tra hỏi đuổi
đi th́ có vẻ như ngư dân Trung Quốc đang
bị đối xử nặng tay. Yếu tố chánh
trị này cũng là cách hâm nóng chủ nghĩa dân
tộc của Trung Cộng Mặt khác, nếu các
quốc gia ven biển im lặng đối với
những hoạt động của các tàu đánh cá
đó th́ có nghĩa họ nhường thẩm
quyền và chủ quyền trong EEZ của ḿnh cho Trung
Cộng. Trung Cộng bắt đầu
sử dụng tàu cá làm lực lượng không chính
quy lần đầu tiên vào đầu thập niên 1990
cho hai đảo Mă Tổ [Matsu] và Kim Môn [Jinmen]
để tạo sức ép lên Đài Loan trong những
lúc có căng thẳng chính trị [4]. Hiện nay Trung Cộng sử dụng
chiến thuật này chống Nhựt ở Biển Hoa
Đông và chống lại Philippines, Việt Nam và
Malaysia ở Biển Đông. Trung Cộng cũng sử
dụng các đoàn tàu cá đối với Đại
Hàn ở Hoàng Hải. Năm
2009, lúc đối đầu với tàu đặc
nhiệm USNS Impeccable khi tàu
này tiến hành khảo sát quân sự cách Đảo
Hải Nam 75 hải lư, Trung Cộng đă sử
dụng một đội tàu gồm một tàu t́nh báo
hải quân, một tàu ngư chính, một tàu hải dương
học và hai tàu chở hàng nhỏ hoặc tàu đánh
cá. Một số tàu có vẻ được bố trí
với nhơn viên thuộc lực lượng đặc
biệt Trung Quốc [5]. Để thống nhứt các
nỗ lực mạnh mẽ hơn trong chánh phủ,
Bắc Kinh nhập năm cơ quan riêng biệt thành
một lực lượng Hải Cảnh duy nhứt
hồi tháng 3 năm 2013. “Năm
con rồng” đó là Tuần duyên Trung Quốc
thuộc Công an Biên pḥng, Cục An toàn Hàng hải Trung
Quốc thuộc Bộ Giao thông vận tải, Hải
giám Trung Quốc thuộc Cục Quản lư Đại dương
Quốc gia, Lực lượng Ngư chính Trung Quốc
thuộc Bộ Nông nghiệp và lực lượng
thuế trên biển thuộc Tổng cục Hải quan. Năm ngoái, Trung Cộng nhét
thêm giàn khoan dầu vào rọ các lực lượng bán
quân sự trên biển khi giàn khoan HD
981 thuộc Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi
Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đặt gần quần
đảo Hoàng Sa trong EEZ của Việt Nam. Giàn khoan này
đă được bảo vệ với một đoàn
khoảng 30 tàu đánh cá, tàu bán quân sự, tàu
chiến của PLAN cho đến khi rút đi một tháng
sau đó. Biến cố giàn khoan dầu đưa quan
hệ Tàu -Việt xuống điểm thấp nhứt
tính từ năm 1979. Trước đó, lực lượng
Việt Nam Cộng Hoà, của Miền Nam Tự Do
bị thủy quân lục chiến Trung Cộng đẩy
khỏi quần đảo Hoàng Sa trong cuộc xâm lược
đẫm máu năm 1974, trong
sự cổ vũ đồng lỏa của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Ḥa Miền Bắc Việt Cộng–
thà giao đảo biển cho ngoại bang Tàu Cộng
c̣n hơn để cho đồng bào Ngụy! Khi khu vực này đang
chờ phán quyết của trọng tài quốc tế
theo đơn kiện của Philippines để bảo
tồn quyền chủ quyền trong EEZ của ḿnh, th́
việc Trung Cộng phiêu lưu trên biển trong khu
vực tạo một lỗ hổng trong luật nhơn
đạo quốc tế do một số luật gia hàng
đầu thế giới soạn thảo trong vụ
kiện trước ICJ 1986 về các hoạt động
quân sự và bán quân sự chống lại Nicaragua
(Nicaragua kiện Hoa Kỳ). 3/ Trung Cộng “lưu tâm
đến kẽ hở” trong Luật quốc tế Để cho chiến lược
của ḿnh có tác động, Trung Cộng phải ép
buộc dần các nước láng giềng phải
chấp nhận bá quyền của Bắc Kinh, nhưng
tránh đối đầu quân sự. Trung Cộng
sử dụng vũ lực thông qua các tàu hải
cảnh, tàu đánh cá, và bây giờ cả giàn khoan
để thay đổi quan cảnh chánh trị và pháp
lư trên biển ở Đông Á, nhưng họ vẫn
cố ư giữ tàu hải quân xa ngoài chân trời để
tránh nguy cơ kích động chiến tranh. Hiến chương của Liên
Hiệp Quốc điều chỉnh luật về
việc sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế.
Mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là nhằm ngăn
chặn “các hành vi xâm lược và vi phạm hoà b́nh
khác.”[6] Trong khi Hiệp ước Kellogg-Briand 1928
nổi tiếng đặt ngoài ṿng pháp luật các hành
vi “chiến tranh”, và thỏa thuận này bây giờ
được coi là cái “tột cùng” của sự
ngây thơ giữa hai cuộc chiến, việc ngăn
cấm vũ lực trong Hiến chương Liên
Hiệp Quốc thậm chí c̣n rộng hơn. Theo Điều
2 (4) của Hiến chương, “tấn công vũ
trang” (hay chính xác hơn, xâm lược vũ trang
hoặc aggression armée trong bản dịch tiếng
Pháp chính thức) là trái pháp luật. Điều 2 (4) cũng
nói rằng đe dọa sử dụng vũ lực cũng
là vi phạm như chính việc sử dụng vũ
lực. Các quốc gia có thể làm ǵ
nếu họ bị tấn công vũ trang hoặc xâm lược
vũ trang?
Điều 51 của Điều lệ công nhận
quyền tự vệ cá nhơn và tập thể
của tất cả các nước để đối
phó với một cuộc tấn công. Cho đến ngày
nay điều này vẫn được hiểu như
vậy – bất kỳ việc sử dụng vũ
lực bất hợp pháp nào đều được
coi là tấn công vũ trang ; và tấn công vũ
trang tức là cho phép quyền tự vệ của nước
nạn nhơn, đúng thế không? Sai, ít nhất là
theo Ṭa án Công lư Quốc tế. Phán quyết trong vụ
Nicaragua kiện ở toà ICJ năm 1985 mở ra một “kẽ hở”
giữa việc tấn công vũ trang của một nước
và quyền tự vệ của nước nạn nhân. Vụ kiện phát sanh từ các
cuộc chiến tranh ở Trung Mỹ trong thập niên
1980. Chế độ Sandinista ở Nicaragua nắm
quyền vào năm 1979, và bắt tay vào một chiến
dịch Marxist “giải phóng” Honduras, El Salvador và Costa
Rica. Nicaragua yểm trợ các phong trào kháng chiến manh
mún ở El Salvador với vũ khí, đạn dược,
tiền bạc, đào tạo, t́nh báo, chỉ huy và
kiểm soát, cũng như cung cấp nơi trú ẩn
ngoài biên giới. Với sự trợ giúp này, lực
lượng du kích làm tê liệt nền kinh tế El
Salvador và biến bất măn của thiểu số thành
một cuộc nổi dậy toàn diện. Dân chúng trong
vùng gánh chịu đau khổ, và cả hai bên đều
phạm các hành vi tàn bạo. Để ổn định El
Salvador, Tổng thống Ronald Reagan đă kư Nghị
Quyết An ninh Quốc gia 17 (NSSD 17) vào ngày 23 tháng 11, năm
1981. NSSD 17 cho phép CIA tổ chức thành lập
một lực lượng đặt tên gọi là
Contra tiến hành hoạt động bí mật để
lật đổ chế độ Sandinista ở
Nicaragua. Viện trợ quân sự (Mỹ) đổ
vào Honduras và El Salvador để giúp họ chống
lại phiến quân cộng sản Sandinista. Quyết
định này phản ánh một trong những chương
tŕnh đầu tiên của chủ thuyết Reagan
chống lại việc mở rộng ảnh hưởng
của Liên Sô. Năm 1984, Chính phủ
Nicaragua đă khởi kiện Huê Kỳ trước ICJ,
lập luận rằng các hoạt động bí
mật của Mỹ chống Nicaragua, bao gồm
việc trang bị vũ khí cho phiến quân Contra và
thả ḿn các cảng của Nicaragua, là vi phạm
chủ quyền của Nicaragua. Hoa Kỳ phản
biện rằng các hoạt động của Mỹ
là thực hành quyền tự vệ cố hữu
của cá nhân và tập thể theo theo Điều 51
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Tổng thống Duarte của El Salvador nói với
giới truyền thông vào ngày 27 tháng 7 năm 1984: “Như tôi đă tuyên
bố, theo quan điểm của Salvador, là chúng tôi
đứng trước vấn đề bị xâm lược
bởi một nước tên là Nicaragua bên trong El
Salvador, rằng bọn họ đang đưa vũ khí,
huấn luyện, con người, đạn dược
và và bao nhiêu thứ nữa vào El Salvador. Xin khẳng
định, ngay vào giờ phút này họ đang sử
dụng tàu đánh cá ngụy trang, đưa vũ khí
vào El Salvador vào ban đêm. Trước t́nh h́nh này, El
Salvador phải t́m cách ngăn chặn. Phe Contra … đang
tạo ra một loại rào cản ngăn chặn không
để Nicaragua tiếp tục đưa những
thứ đó vào El Salvador qua đường bộ
Họ thay thế bằng cách chuyển hàng vào bằng
đường biển, và thâm nhập được
qua ngă Monte Cristo, El Coco, và El Bepino.”[7] Ṭa đă bác bỏ lập
luận của Mỹ và El Salvador về tự vệ
chống lại tấn công vũ trang của Nicaragua.
Trong một quyết định tạm thời về
vụ kiện này, ICJ phán quyết với số
phiếu 15-0 rằng Huê Kỳ phải “ngay lập
tức ngừng và từ bỏ mọi hành động
hạn chế, phong tỏa, hoặc gây nguy hiểm cho
việc ra vào các cảng của Nicaragua ….”.
Trong phán quyết cuối cùng dựa trên chứng lư
[ruling on Merits], qua một cuộc bỏ phiếu 14-1 ICJ
khẳng định rằng chủ quyền
của Nicaragua đangbị các hoạt động
bán quân sự của Mỹ hủy hoại. Huấn
luyện, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, và tiếp
tế cho lực lượng Contra là vi phạm luật
pháp quốc tế, và không phải là một
biện pháp tự vệ hợp pháp mà Huê Kỳ và
các đồng minh thực hiện trong khu vực
của ḿnh để đối phó với sự xâm lăng
của Nicaragua. ICJ phán rằng cưỡng ép
mức thấp hoặc can thiệp, như “việc
đưa các nhóm/toán vũ trang, không chính quy, hoặc
lính đánh thuê thay mặt cho hoặc từ một nước”
vào một nước khác cấu thành một
“cuộc tấn công vũ trang”, nhưng quyền
tự vệ chỉ được kích hoạt khi
sự can thiệp như thế đạt tới “quy
mô và hậu quả” hay có “trọng lựợng”
tới mức như một cuộc xâm lược. Không
thể dùng quyền tự vệ chống lại xâm
hại hoặc tấn công vũ trang mức thấp
bằng quân chính quy hay quân nổi dậy khi mức xâm
hại chưa tăng đến mức quan trọng
hoặc ở quy mô và hậu quả nào đó. Trong khi cả Nicaragua lẫn Huê
Kỳ đều đă tài trợ cho quân du kích và tham
gia vào các hành vi làm mất ổn định khu
vực, sự phân biệt của ICJ mở ra khái
niệm “kiểm soát hiệu quả”. Nicaragua
được Toà xác định là chưa có
“kiểm soát hiệu quả” đối với
những người nổi dậy lật đổ chính
phủ ở El Salvador và Honduras, trong khi Huê Kỳ
được coi là thực hiện “kiểm soát
hiệu quả” đối với việc thả ḿn các
cảng Nicaragua và quân Contra. Ṭa án không cho El Salvador cơ
hội can thiệp vào vụ kiện, đảm bảo
chuyện ông Thiện đối đầu với ông
Ác [nguyên văn: David chống Goliath]. ICJ cũng
chấp nhận phiên bản của Sandinista về các
sự kiện và bỏ qua việc Nicaragua xâm lược
vũ trang chống các nước láng giềng.[8]
Thẩm phán Schwebel, một người Mỹ trong Ṭa án,
đưa ra phát biểu bất đồng duy nhứt:
“Nói tóm lại, Ṭa có vẻ cung cấp – gần như
cho không – một đơn thuốc để các chính
phủ hung bạo lật đổ các chính phủ
yếu trong khi từ chối không cho các nạn nhân
một tiềm năng… một hi vọng duy nhứt nào
để tồn tại.” Vụ kiện tiêu
biểu cho một trong những mảng sơ
suất lớn nhứt của luật pháp quốc
tế trong lịch sử và không đáng ngạc
nhiên rằng phán quyết này bây giờ hậu
thuẫn việc xâm lấn trên biển của
Trung Cộng (cũng như các hành vi tai quái
của Nga tại các nước láng giềng từ
Georgia đến Ukraine đến vùng Baltic – nhưng
đó là một câu chuyện khác). Dù vụ kiện của
Nicaragua có là nỗ lực nhằm đánh bại
Mỹ về tố tụng, hoặc một nỗ
lực trí thức cao nhưng định hướng
yếu về mặt công bằng trong cộng đồng
quốc tế (như tôi đă gợi ra ở đây)
hay không, kết quả là một lỗ hổng
mở ra giữa xâm lược vũ trang và quyền
tự vệ. Bằng cách sử dụng sự xâm
phạm ở mức thấp thông qua nhiều hành vi
nhỏ nhưng không có hành vi nào trong đó đủ
để phát xuất quyền tự vệ, những
kẻ xâm lược chơi trên cơ. Nhận định
rơ bài học, rơ về mặt pháp lư và mặt chánh
trị qua vụ Nicaragua, Trung Cộng đang kiếm
được nhiều điều lợi chiến lược
trên biển với cái giá các nước láng giềng
phải trả mà không tạo nguy cơ làm nổ ra
chiến tranh. Hơn nữa, việc Trung
Cộng sử dụng rất đầy tánh chiến
lược đội tàu đánh cá như là
một thành phần của “chiến tranh pháp lư” vượt
khỏi việc khai thác lỗ hổng giữa sử
dụng vũ lực và tự vệ trong luật về
sử dụng vũ lực (jus ad bellum); điều
đó cũng ảnh hưởng đến luật
trong chiến tranh (jus in bello). Tàu cá có khả năng
sẽ được sử dụng làm các tàu chiến
trong bất kỳ cuộc chiến tranh khu vực nào.
Một số người nghi ngờ Trung Quốc đang
trang bị máy ḍ sonar cho hàng ngàn tàu đánh
cá để thích hợp hóa chúng vào hợp tác với
các hoạt động tác chiến chống tàu ngầm
của hải quân vốn có nhiệm vụ t́m và đánh
ch́m tàu ngầm của Mỹ và đồng minh. Kể từ vụ kiện
cột mốc Paquette Habana 1990, phát sinh từ việc Huê
Kỳ bắt giữ tàu đánh cá Cuba trong cuộc
chiến Mỹ-Tây Ban Nha, tàu đánh cá ven biển và ngư
dân được loại ra khỏi mục tiêu tấn
công hoặc miễn bị bắt giữ trong xung đột
vũ trang. Với việc đặt máy ḍ sonar trên
tàu đánh cá như một cách nhân tăng lực cho các
hoạt động chống tàu ngầm, Bắc Kinh ngay
lập tức, có nguy cơ làm các tàu này bị coi là
mục tiêu hợp pháp trong các sự xung đột. Nhưng
cáp quang của Hải quân Mỹ đă làm ch́m tàu
đánh cá Trung Cộng là tuyên truyền thực
hiện theo đơn đặt hàng. Trong mọi
biến cố, Sam Tangredi, một chiến lược gia
có tiếng, tự nhủ rằng Hải quân Mỹ
sẽ dám xài bao nhiêu ngư lôi trong số có hạn,
trong khi mà số lượng tàu đánh cá là hằng hà
sa số. Vậy th́, phản ứng
đối với tất cả điều này có
thể là ǵ? Nhiều quốc gia từ lâu, đă
sử dụng các cuộc tấn công không đối
xứng, bằng cách dùng không quân bay dưới
tầm radar. Cái khác biệt hiện nay là chiến
tranh không chính quy được dùng như một công
cụ của kẻ mạnh chứ không phải kẻ
yếu để thay đổi hệ thống an ninh
khu vực. Hơn nữa, các khía cạnh pháp lư
quốc tế của t́nh thế hiện tại
phải quen với lợi thế của Trung Cộng. Do
đó, rủi ro hệ thống nay đă lớn tới
mức đó rồi và chỉ có thể so sánh với
chiến dịch Liên Sô gây bất ổn định các
nước thời Chiến tranh Lạnh. Ai bảo Luật pháp Quốc
tế chẳng có ǵ quan trọng ? Hồi Nhơn Sơn, Cuối
Năm Con Chó TS.Phan Văn Song Ghi Chú: [1] Huê Kỳ có thoả
thuận quốc pḥng với 5 nước ASEAN: Thailand,
Philippines, Japan, South Korea, và Australia. Một số trong các
thoả thuận này và Đạo luật về quan
hệ với Đài Loan là chủ đề của
một pod cast của FPRI năm ngoái, có thể truy
cập ở đây: http://www.fpri.org/multimedia/2014/06/ [2] Những nước có yêu
sách đánh cá lịch sử thể t́m kiếm
quyền truy cập từ các quốc gia ven biển
quản lí những khu vực đó theo Điều 62
của Công ước Luật Biển. [3] Lyle J. Goldstein, “Chinese
fisheries enforcement: Environmental and strategic implications,” 40
Marine Policy 187 (2013). 4 Wendell Minnick, Fishing Vessels in
China Serve as Proxy Enforcers, Defense News, August 18, 2014, p. 15. [5] Một số “ngư dân”
có vẻ không là ngư dân làm ăn chân chính- trẻ,
ăn mặc đàng hoàng, thể thao, liên tục trên
biển trong khu vực Đông Nam Á mà da không bị rám
nắng, và không thể vận hành thiết bị đánh
cá (!). Quan sát này đă được một cựu
đô đốc 2 sao ở Đông Nam Á và một trưởng
Hải quân đă nghỉ hưu của một trong
những quốc gia xung quanh Biển Đông cho tôi
biết. [6] Điều 1(1), Hiến chương
LHQ. [7] Họp báo của Tổng
thống Duarte, Sam Salvador Radio Cadena YSKL (tiếng Tây Ban
Nha) 1735 GMT 27 July 1984 in San Salvador (July 27, 1984) reprinted in FBIS
Daily Reports Latin America, 1, 4 (July 30, 1984). 8 See, e.g. John Norton
Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World
Order (1987). [8] Xem, chẳng hạn. John
Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on
World Order (1987). John Norton Moore từng là Phó Đại
diện của Huê Kỳ vào giai đoạn pháp lư
của vụ án. Huê Kỳ đă không tham gia trong giai
đoạn đối chứng (Merits phase) của vụ
kiện. Toàn văn tiết lộ: Tôi thực hiện
nghiên cứu tiến sĩ dưới hướng
dẫn của John Norton Moore tại School of Law Đại
học Virginia, ở đó tôi cũng làm việc
với tư cách Nghiên cứu viên cao cấp. Giáo sư
Moore đă viết rất nhiều về những
thiếu sót của pháp luật trong vụ này trong John
Norton Moore, Jus Ad Bellum before the International Court of Justice, 52
Virginia Tạp chí Luật quốc tế 903, 919-935 (Hè
2012). |