Hậu quả chính sách “ba không” của ĐCSVN Nguyễn Vĩnh Long Hồ |
* Việt
Nam “cô độc” trong cuộc đối đầu
với Tàu cộng: BBC
ngày 23/12/2016 đưa tin: Tổ chức nghiên cứu
địa chính trị toàn cầu
Strattor, phân tích t́nh
h́nh Việt Nam trong bối cảnh các thay đổi
lớn trong khu vực Đông Nam Á. Cộng sản
Việt Nam trở nên mềm hơn và t́m cách hàn
gắn quan hệ với Bắc Kinh. Theo Strattor,
CSVN âm thầm t́m cách thúc đẩy quan hệ với
các đối tác bảo vệ chủ quyền, thay v́
đối đầu trục tiếp với TC. Với
vị thế địa chính trị của ḿnh, CSVN không
thể hoàn toàn phủ nhận, cũng như chấp
nhận sức mạnh ngày càng tăng của người
láng giềng ngang ngược và tham lam phương
Bắc và Hà Nội không dám ngả hẳn về
một bên nào giữa Tàu Cộng hay Hoa Kỳ. Chính sách
đi dây của CSVN, Strattor nhận xét, bắt nguồn
từ lịch sử và bối cảnh hiện nay
khiến cho VN ngày càng khó từ bỏ chính sách đu dây
nầy. Nhà
cầm quyền cộng sản Hà Nội vẫn rất
mong muốn hội nhập kinh tế quốc tế thông
qua thỏa thuận TPP để mở rộng hợp tác
với các nước và các khối khác. Từ cách nh́n
của ḿnh, Hà Nội cho rằng các thỏa thuận như
TPP có lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và xuất cảng hàng hóa của VN, giúp cải cách
nền kinh tế trong nước với mong muốn gia
nhập các thỏa thuận thương mại đa phương
khác, như Liên minh Kinh tế Á-Âu và Liên hiệp Châu
Âu. Hà Nội cho rằng, sự hợp tác sẽ mở
rộng ra các lĩnh vực khác nữa như năng lượng
và quân sự. Cho thấy CSVN thực sự muốn t́m
các đối tác mới để vượt ra
khỏi tầm ảnh hưởng toàn diện của
Bắc Kinh. Theo
Strattor, t́nh trạng bảo hộ mậu dịch ở
các nước phát triển, nhất là Hoa Kỳ và châu
Âu, cũng như các điểm yếu của nền
kinh tế & chính trị ở trong nước cản
trở VN trong quá tŕnh hội nhập toàn cầu.
Thời điểm nầy thật bất lợi cho VN
đang phải tái cơ cấu nền kinh tế
của ḿnh và gia tăng áp lực cũng như khó khăn
lên các ngành công nghiệp quan trọng nhất như nông
nghiệp, chế biến và lắp ráp điện
tử. VN đang phải đương đầu
với thu nhập và xuất cảng đều
giảm. Thâm hụt ngân sách hiện đang ở
mức 6,5% GDP, lại thêm chi tiêu và nợ công tăng. Những
vấn đề kinh tế nói trên xuất hiện trong
bối cảnh bất ổn về chính trị ngày càng
gia tăng, từ việc Mỹ do dự can thiệp vào
khu vực châu Á-TBD, cũng như những dấu
hiệu gần đây cho thấy các nước láng
giềng của VN bắt đầu mất đoàn
kết trong việc chống lại chủ nghĩa bành
trướng bá quyền khu vực của Tàu Cộng.
Chính những nguyên nhân nầy đă thúc đẩy
việc thay đổi chiến thuật ngoại giao
của CSVN. Việt
Nam đấu tranh với TC là có lịch sử lâu dài;
tuy nhiên khác với Philippines, VN cô độc không có
chiếc ô an ninh quân sự của Mỹ để
bảo vệ ḿnh khỏi sự gây hấn của
Bắc Kinh. Chính v́ thế, chiến lược
của CSVN là “phản kháng thầm lặng” vẫn
tiếp tục củng cố pḥng thủ và tuyên
bố chủ quyền tại Biển Đông. VN là nước
có sức mạnh quân sự lớn nhất khu vực.
Tuy nhiên, tổ chức đa phương như ASEAN
sẽ không thể giúp đỡ nhiều trong việc
ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng của
TC tại Biển Đông. Trong khi các nước khu
vực ít nhiều thực thi chính sách xoay trục
lại gần TC như Philippines và Malaysia, Việt Nam
sẽ trở nên cô lập trong lập trường
của ḿnh đối với Bắc Kinh. Đây là
hậu quả của chính sách “ba không” ngu
xuẩn của những đỉnh cao trí lợn
của tập đoàn lănh đạo ĐCSVN. Hậu
quả chính sách “ba không” của quốc pḥng VN: Phát
biểu trước báo giới trong chuyến thăm
Bắc Kinh từ 22 - 25/8/2010, Thứ truởng BQP
Nguyễn Chí Vịnh khẳng định chính sách “ba
không” của Việt Nam và nhấn mạnh
rằng, mối quan hệ quốc pḥng giữa hai nước
láng giềng là “tốt đẹp”. Chính sách “ba không”
mà Nguyễn Chí Vịnh cổ súy bao gồm: -
Không tham gia các liên minh quân sự. -
Không là đồng minh quân sự của bất kỳ
nước nào. -
Không cho bất cứ nước nào đặt căn
cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước
này để chống nước kia. Trong
thời gian sang chầu Bắc Kinh, Nguyễn Chí Vịnh
đă có cuộc hội đàm với Phó Tổng tham mưu
QGPTQ Mă Hiểu Thiên, rồi gặp Bộ trưởng
BQP Lương Quang Kiệt. Trong các buổi hội đàm
và tiếp xúc phía VN nhận thấy, những quan điểm
mà TC đưa ra phù hợp với quan điểm và các
vấn đề mà ASEAN đă thống nhất. Bắc
Kinh bày tỏ ủng hộ VN với tư cách là nước
chủ nhà tổ chức thành công hội nghị
lần nầy. Thứ
trưởng bưng bô Nguyễn Chí Vịnh đă thay
mặt triều đ́nh bán nước nói: “Việt
Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có “đại
cục quan hệ tốt đẹp”, VN ủng hộ
trước sự phát triển của TQ, trong đó có
sự phát triển quốc pḥng. Sự ủng hộ
ấy xuất phát từ ḷng mong muốn và niềm tin
TQ không sử dụng sức mạnh của ḿnh để
làm phương hại đến lợi ích của các
nước khác, không làm phương hại đến
ḥa b́nh, ổn định của khu vực và trên
thế giới. TQ có vai tṛ to lớn trong Hội
nghị Bộ trưởng Quốc pḥng ASEAN mở
rộng, nếu như TQ sử dụng sức mạnh
quốc pḥng của ḿnh để tham gia vào cứu
hộ, cứu nạn, cứu trợ thảm họa th́
là điều rất tốt cho cả TQ và khu
vực”. Các hoạt động trên sẽ góp phần
quan trọng trong việc xây dựng niềm tin, tăng
cường quan hệ quốc pḥng nói riêng và quan
hệ hai nước nói chung”. Đă
đến lúc CSVN vứt chính “ba không” vào thùng rác: Tham
vọng của Bắc Kinh là muốn chiếm Biển
Đông thành ao nhà, khống chế hoàn toàn các
tuyến hàng hải quan trọng và eo biển chiến lược
Malacca. Đây là một đ̣n giáng vào tử huyệt
của Nhật - Hàn, đồng thời đẩy
Hải quân Hoa Kỳ ra khỏi khu vực Biển Đông,
làm bàn đạp chia đôi Thái B́nh Dương
với Mỹ. Ngược lại, nếu TC không
khống chế được Biển Đông th́ TC
sẽ bị Mỹ và liên minh quân sự phong tỏa và
bao vây về an ninh năng lượng và về thương
mại. Một tàu tuần duyên USS Freedom của Hải
quân Mỹ triển khai ở căn cứ Changi Singapore
đang canh chừng eo biển Malacca, chứng tỏ
lợi ích quốc gia của Mỹ trên Biển Đông
không chỉ đơn thuần về “tự do hàng
hải” mà c̣n là an ninh quốc gia của Mỹ,
Nhật Bản, Ấn Độ và Australia. V́ vậy,
Mỹ và 3 nước nầy thành lập một liên
minh quân sự trong chiến lược xoay trục sang
châu Á - TBD của Mỹ. Những
hành động hung hăng, ngang ngược của
Bắc Kinh bất chấp Phán quyết của Ṭa
Trọng tài Thường trực La Haye ngày 12/7/2016 trong
thời gian qua trên Biển Đông như chiếm băi
cạn Scarborough của Philippines và đă tiến hành xây
dựng, bồi đấp, cải tạo mở rông
diện tích quy mô lớn các băi đá ngầm như
Chữ Thập, Ga Ven, Châu Viên, Gạc Ma, Tư Nghĩa,
Vành Khăn, Xu Bi là 7 băi đá mà TC đă cưỡng
chiếm vào các năm 1988-1995. Trong đó có những
đảo Bắc Kinh tiến chiếm bằng vũ
lực từ tay Hải quân VN trong trận hải
chiến Trường Sa 1988 (đảo Gạc Ma). Ngày
14/4/2015, công ty DigitalGlobe công bố h́nh ảnh vệ
tinh, cho thấy TC đang mở rộng hai đảo Phú
Lâm và Quang Ḥa thuộc quần đảo Hoàng Sa mà TC
đă chiếm giữ vào năm 1974 từ tay chính
phủ VNCH. Việc
Mỹ công khai xoay trục sang châu Á-TBD, trực tiếp
can dự vào Biển Đông đă tạo ra hai mâu
thuẫn lớn: -
Mâu thuẫn giữa Tàu Cộng với các nước có
tranh chấp về chủ quyền biển đảo,
trong đó có Việt Nam. -
Mâu thuẫn giữa Tàu Cộng với Mỹ - Nhật
Bản - Ấn Độ. Rơ
ràng, Bắc Kinh ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lănh
thổ của Việt Nam, máu của chiến sĩ QĐNDVN
đă đổ trên đảo Hoàng Sa, Trường Sa,
Gạc Ma, trên vùng trời, vùng biển, hải đảo
của Tổ quốc VN. Đây chính là lúc ĐCSVN
phải vứt chính sách “ba không” vào thùng rác, để
chống lại kẻ thù xâm lược Tàu Cộng, VN
cần dựa vào chủ nghĩa bài Tàu Cộng trên
khắp thế giới và các liên minh chống lại
chủ nghĩa bành trướng bá quyền của
Bắc Kinh. Chủ
nghĩa bài Tàu cộng trên khắp thế giới: Là
một xu hướng chống lại Tàu Cộng, người
Tàu Hoa Lục hoặc văn hóa Tàu Cộng. Sự
kỳ thị nầy thường nhắm vào những
người Tàu Hoa Lục chiếm thiểu số đang
sống hoặc du lịch ở nước ngoài và càng
làm phức tạp hóa bởi các tác động của
vấn đề nhập cư, vấn đề phát
triển bản sắc dân tộc ở các nước
láng giềng, sự chênh lệch giàu nghèo, mối quan
hệ giữa các dân tộc thiểu số nhược
tiểu với dân tộc chiếm đa số nước
lớn như Tàu Cộng. Một vài nguyên nhân khác
của xu hướng bài Tàu Cộng là do những chính
sách chống lại nhân quyền của giới cầm
quyền ĐCSTQ như sự kiện Thiên An Môn năm
1989 và cuộc đàn áp khốc liệt Pháp Luân Công. Sau
đây là kết quả điều tra năm 2015
của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Washington, D.C) các quan
điểm về Tàu Cộng. 1. Nga: Liên Xô cũ
và TC bắt đầu chia rẽ vào những năm
1950, phát triển dần thành xung đột biên
giới Trung - Xô ở vùng Siberia năm 1962 và đỉnh
điểm năm 1969 là những cuộc xung đột
đẫm máu. Đến năm 2004, hai nước Nga -
Trung mới chính thức ḥa giải. Mặc dù hai
quốc gia không c̣n mâu thuẫn với nhau nữa, song
chính quyền Nga đôi lúc lo ngại về việc người
Tàu Hoa Lục tràn qua những vùng thưa dân Nga ở vùng
Viễn Đông và Siberia. 2. Australia: Tại
Australia, một lượng lớn người nhập
cư là người Tàu Hoa Lục. Mặc dù những
người nhập cư bản tính ôn ḥa và cần cù,
song những người Úc lại có ác cảm với
người Tàu v́ có sự khác biệt lớn giữa
văn hóa và phong tục tập quán. Những năm
giữa thế kỷ 19, người Australia và New Zealand
khinh bỉ người Tàu như những kẻ dơ
bẩn, bệnh hoạn. 3. Canada: Những năm
thập niên 1850, một lượng lớn nhập cư
TQ đến tỉnh British Columbia của Canada để
t́m vàng. Sau đó, bắt đầu từ năm 1858,
những công nhân người Tàu được
đưa tới Canada để làm việc trong các khu
mỏ và xây dựng tuyến đường sắt
Canada Pacific Railway. Những người thợ Tàu
nầy bị phân biệt đối xử thậm
tệ. Họ không được coi là nhữg công dân
chính thức, không có quyền bầu cử. Măi dến
năm 1947, các công dân Canada gốc Tàu mới có
quyền bầu cử. 4. Ấn Độ:
Mối lo Hán bành trướng bắt đầu ở
Ấn Độ ngay sau chiến tranh biên giới
giữa 2 nước vào năm 1962. Gần đây
sự cạnh tranh giữa Ấn - Trung về mặt
kinh tế và quân sự cũng như tranh chấp lănh
thổ giữa hai nước, thêm vào đó là việc
TC ủng hộ Pakistan tại Kashmir đă làm gia tăng
sự chống lại TC. 5. Malaysia, Indonesia và Philippines:
Tại các quốc gia mà người Tàu chỉ
chiếm một số ít nhưng lại gây nên một
sự chênh lệch về kinh tế rất đáng
kể. Thí dụ, trong năm 1998, người Tàu
chỉ làm tăng thêm 1% dân số của Philippines và 3%
dân số của Indonesia, nhưng lại kiểm soát
đến 40% nền kinh tế tư nhân của
Philppines và 70% của nền kinh tế tư nhân
Indonesia. Tại
Malaysia, tỷ lệ sinh thấp ở người Tàu
đă làm giảm dân số tương đối
của họ từ một nửa xuống c̣n 1/3.
Một nghiên cứu về TC với tên gọi
“thiểu số thống trị thị trường”
nhấn mạnh rằng “sự thống trị
thị trường của người Tàu và sự
phẫn uất mănh liệt của đa số người
dân bản địa là đặc trưng của
hầu hết các quốc gia ở Đông Nam Á”. Nền
kinh tế bất đối xứng đă kích động
cảm tính chống Tàu Cộng của những người
nghèo chiếm đa số. Đôi khi thái độ
chống TC đă chuyển sang h́nh thức bạo động,
chẳng hạn như sự kiện ngày 13/5/1969 tại
Malaysia và cuộc bạo loạn Jakarta vào tháng 5/1998
tại Indonesia làm hơn 2.000 người chết,
chủ yếu là bị những người nổi
loạn đốt cháy đến chết trong một
trung tâm mua sắm. Trong thời kỳ thuộc địa,
một số nạn diệt chủng đă giết
chết hàng chục ngàn người Tàu. Trong
suốt cuộc tàn sát của người Indonesia vào
những năm 1965 - 1966 đă làm hơn 500.000 nguời
thiệt mạng. Những người Tàu bị
giết, c̣n tài sản của họ th́ bị cướp
bóc và đốt cháy, đó là kết quả của tư
tưởng “phân biệt chủng tộc”
chống lại người Tàu. Tại Philippines, hàng
chục người Tàu bị bắt cóc mỗi năm
và có thể bị giết chết mà không cần đ̣i
tiền chuộc mạng. Cảnh sát Philippines thường
thờ ơ đối với các vấn đề
sắc tộc. 6. Phi Châu: -
Madagascar: Đầu tư trực tiếp của TC vào các
quốc gia đang phát triển, hầu như bị
sự chống đối của dân bản địa,
từ những vườn chuối tại Lào, đập
thủy điện ở Miến Điện cho đến
các công tŕnh khai thác mỏ ở các nước Châu
Phi...ác cảm của cư dân địa phương
đối với Tàu Cộng ngày càng lớn. Một
sinh viên ở Soamahamanina tỏ ra gây gắt nói: “Đảo
Madagascar là của dân Madagascar chứ không phải
của TC. Cho họ khai thác 40 năm không khác ǵ bán nước.” -
Các mặt hàng bẩn do TC sản xuất bị tẩy
chay trên khắp thế giới từ châu Mỹ, châu Á,
sang châu Âu và châu Phi, tâm lư tẩy chay các sản
phẩm của TC cũng lan nhanh, hết khô mực
giả, gạo giả, cà phê giả, nội tạng
thối, thịt bẩn, trái cây tẩm hóa chất
cực độc ngay cả trứng gà cũng
giả… -
Hiện tượng kinh doanh bẩn của các doanh
nghiệp TC đang lan rộng ở châu Phi, trong đó
bao gồm việc khai thác mỏ trái phép ở Ghana, săn
trộm động vật quư hiếm ở Nam Phi và
hối lộ các quan chức địa phương
nhằm giành những gói thầu xây dựng mà nhà
thầu TC xây dựng kém chất lượng như
đường xá mới xây xong chưa bao lâu đă lún,
sạt lở. -
Negeria vừa tịch thu hơn 100 bao gạo giả
bằng nhựa tuồn lậu vào nước này. Tang
vật t́nh nghi được đưa lậu vào
Nigeria từ Hoa Lục thông qua cảng Lagos. Mỗi bao
nặng 50 kg được dán nhăn “Best Tomato Rice” không
có ghi xuất xứ. -
Báo chí Malawi nói gạo giả cũng đang ràn lan
tại các nước khác trong khu vực, giữa lúc Châu
Phi đang mở cửa thị trường nội
địa cho các bạn hàng châu Á mà không tiến hành
kiểm tra nghiêm nhặt. Ḿ sợi giả từ các nhà
buôn không rơ nguồn gốc, có xuất xứ từ Hoa
Lục đang xâm nhập thị trường quốc
gia miền Đông Châu Phi. Bài
học liên minh của Ấn Độ: 1. Mỹ - Ấn liên minh quân sự: Cuối tháng 8/2016, Mỹ-Ấn Độ kư
thỏa thuận trao đổi hậu cần (LEMOA) cho
phép hai bên sử dụng các căn cứ lục quân,
không quân và hải quân của nhau, theo hăng tin Reuters.
Thỏa thuận LEMOA cho phép quân đội Mỹ
sử dụng các căn cứ của Ấn Độ
để tiếp liệu trong quá tŕnh tập trận
quân sự và thực hiện các chiến dịch nhân
đạo, cứu trợ thảm họa. Đây
là một thỏa thuận quân sự hết sức quan
trọng, vốn đă được hai bên chuẩn
bị trong cả một thập niên, là một điểm
quan trọng trong chuyến thăm Mỹ 3 ngày của
Bộ trưởng BQP Ấn Độ Manohar Parrikar.
Bộ trưởng BQP Mỹ Ashton Carter cho rằng,
thỏa thuận LEMOA sẽ giúp tăng cường an
ninh hàng hải và đóng góp vào tự do lưu thông hàng
hải khắp thế giới. Thỏa thuận LEMOA cũng
sẽ đặc biệt cho phép Mỹ tăng cường
khả năng hoạt động trên Biển Đông. GS
Joseph Cheng - ĐH Hong Kong City - nhận định,
thỏa thuận LEMOA sẽ giúp Mỹ duy tŕ kiểm soát
tuyến đường biển rất quan trọng
từ Đông Á đến vịnh Persian. Theo ông,
việc kư thỏa thuận LEMOA với Ấn Độ
thể hiện Mỹ muốn thắt chặt quan hệ
với các nước châu Á để mở rộng
ảnh hưởng của ḿnh trong khu vực. 2. Liên Minh Châu Âu - Ấn:
Tối ngày 30/3/2016, Thủ tướng Ấn Độ
Narendra Modi đă tới thủ đô Brussels tham dự
Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh Châu Âu
(EU) - Ấn Độ lần thứ 13 cùng chủ
tịch Hội đồng Châu Âu Donald Tusk và Chủ
tịch Ủy ban Châu Âu (EC) Jean - Claude Juncker và Đại
diện cấp cao EU về chính sách an ninh và đối
ngoại Federica Mogherini. Các
nhà lănh đạo hai bên tái khẳng định cam
kết tạo động lực mới cho quan hệ
song phương EU - Ấn Độ, đề ra chương
tŕnh hành động năm 2020 như một lộ tŕnh
chung để cùng nhau hướng tới tăng cường
quan hệ đối tác chiến lược trong
những năm tiếp theo, bao gồm các lĩnh vực
hợp tác như chính sách đối ngoại và an ninh,
thương mại và đầu tư, kinh tế, các
vấn đề toàn cầu… 3. Liên Minh Ấn - Nhật: Tờ
báo Les Echos phân tích sự kiện: “Dưới bóng
của Tàu Cộng, Ấn - Nhật xích lại gần
nhau”. V́ thế, các nhà đầu tư Nhật
bắt đầu t́m kiếm thị trường
Ấn Độ đầy tiềm năng với hơn
1 tỷ dân số. Mới đây ngày 11/9/2016, Ấn
Độ bắt tay với Nhật Bản tăng cường
năng lực hải quân. Nhật Bản sẽ cung
cấp cho Ấn Dộ 12 máy bay thủy phi cơ Shinmaywa
(US-2) trị giá 1,6 tỷ USD, giúp Ấn Độ tăng
cường năng lực Hải quân Ấn Độ
ở quần đảo Andaman Nicobar. Hiện
nay, Ấn Độ tăng cường quan hệ ba bên
với Mỹ - Nhật - Australia và tích cực thực
thi chiến lược “Đông tiến”.
Nếu một cuộc chiến tranh xảy ra gữa TC
với Ấn - Nhật tại Biển Đông và Hoa
Đông, lực lượng Hải quân Ấn Độ
sẽ phong tỏa eo biển Malacca, c̣n Hải quân
Nhật Bản dễ dàng bóp nghẹt yết hầu
Hải quân TC tại eo biển Soya cửa ngỏ ra TBD.
Eo biển Soya ở phía Bắc và eo biển Tsushima
ở phía Nam là một trong những con đường
thông ra biển TBD. Eo biển Soya là con đường “nút
cổ chai” là một vị trí chiến lược,
có thể dễ dàng phong tỏa, cắt đứt
với một lực lượng Hải quân nhỏ
của Hải quân Nhật. 4. Liên kết với Nga:
Ấn Độ và Nga là đối tác chiến lược
trong nhiều thập niên qua. Thủ tướng Ấn
Narendra Modi trong chuyến thăm Moskva ngày 24 - 25/12/2015,
tờ Kommersant của Nga tiết lộ rằng,
chuyến công du của ông Modi đến Moskva đánh
dấu một bước đột phá mới trong quan
hệ giữa Ấn - Nga bằng cách kư kết các
hợp đồng có giá trị lên tới 7 tỷ USD.
Trong đó, Nga sẽ đặt nhà máy sản xuất
chung trực thăng Ka-226T tại Ấn Độ,
mỗi năm xuất xưởng khoảng 200 chiếc. Ấn
Độ chấp thuận việc mua 5 hệ phóng tên
lửa pḥng không S-400 của Nga, ước tính trị
giá khoảng 6 tỷ USD bao gồm một hệ
thống tên lửa lưu động, một trạm
radar, cùng 6.000 tên lửa. Thủ tướng Modi c̣n cho
là sẽ đề cập đến vấn đề
nhờ Nga hợp tác xây dựng 6 ḷ phản ứng
hạt nhân công xuất 1.200 MW tại khu vực miền
nam Andhra Pradesh. Sputnik
đưa tin ngày 20/12/2016, một thỏa thuận
mới được kư giữa hai nước Nga -
Ấn đă đồng ư cải tiến tên lửa
BrahMos cho phép nó được phóng từ mặt đất,
chiến đấu cơ và chiến hạm với
tầm bắn từ 292 km lên tới 600 km. 5. Liên kết với Pháp:
Ngày 21/09/2016, New Dehli kư hợp đồng mua 36 chiếc
đấu cơ Rafale do Pháp sản xuất. Bộ Trưởng
Quốc pḥng Pháp, Jean-Yves La Drain đến Ấn Độ
để kư kết thỏa thuận vào ngày 23/9/2016, có
tổng trị giá lên đến khoảng 7,8 tỷ
Euro. Những chiếc Rafale đầu tiên sẽ
được giao trong 3 năm tới để tăng
cường cho một hạm đội Ấn Độ
để đối phó với các mối đe dọa
đến từ Tàu Cộng và Pakistan. Liên
minh Mỹ - Nhật - Ấn thiết lập trật
tự mới ở châu Á -TBD: Kể
từ ngày 14/6/2016 kéo dài liên tiếp trong 3 ngày, Hải
quân 3 nước Mỹ - Nhật - Ấn đă tham gia
một cuộc tập trận có quy mô lớn tại vùng
biển Philippines, được xem là bước
khởi đầu của việc h́nh thành một liên
minh chiến lược có khả năng định h́nh
một trật tự mới trên vùng trời, vùng
biển Thái B́nh Dương, nhằm chống lại
chủ nghĩa bành trướng bá quyền khu vực
của Bắc Kinh ngày càng hung hăng, ngang ngược
với sức mạnh quân sự ngày càng tăng. Tờ
Wall Street Journal số ra ngày 15/6/2016 nhận định:
Việc h́nh thành “liên minh mới” này
nằm trong chiến lược lâu dài của Mỹ,
dựa trên quan hệ hợp tác chặt chẽ về
quốc pḥng từ lâu đời giữa Washington và
Tokyo và thuyết phục New Dehli nhập cuộc đóng
vai tṛ “Đông tiến” tích cực hơn. Theo
ông C. Raja Mohan - giám đốc quỹ Ḥa b́nh Quốc
tế Carmegie Endowment - nhận xét: “Mỹ đang t́m
kiếm những nước có thể chia sẻ trách
nhiệm và việc tăng cường quan hệ đối
tác chiến lược ba bên Mỹ - Nhật - Ấn là
“một chuyển đổi quan trọng” của
Washington”. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng
lo ngại Bắc Kinh quân sự hóa vùng Biển Đông,
đe dọa quyền tự do hàng hải có 1/3 lượng
hàng hóa thế giới trung chuyển qua khu vực này và
điều đó dĩ nhiên bất lợi cho Ấn
Độ. Thủ
tướng Narenda Modi đă khẳng định
rằng: “Sự thiếu vắng một cấu trúc
an ninh được các bên đồng ư, đă
tạo ra một t́nh trạng bấp bênh”. Ở châu
Á và quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa
Mỹ - Nhật - Ấn sẽ bảo đảm
quyền tự do hàng hải và an ninh cho các tuyến thông
thương. Tạp chí quốc pḥng Jane’s Defence Weekly
số ra ngày 19/12/2016 dẫn lời tướng Sanil
Lamba nói: “Kế hoạch mở rộng kiến
tạo hải quân Ấn Độ bao gồm việc xây
dựng lực lượng 3 chiều cấu thành
từ các tàu nổi/ dưới mặt nước/trên
không được trang bị vũ khí hiện đại,
có thể mang ưu thế chiến lược cho chúng
ta”. Đô
đốc Lamba trong chuyến thăm Nhật 5 ngày
từ 19 - 24/12/2016 diễn ra trong bối cảnh Ấn -
Nhật và Mỹ đang chuẩn bị cho cuộc
tập trận quy mô lớn thường niên Malabar 2017,
tập trung vào việc “săn tàu ngầm” trong t́nh h́nh
khí tài dưới nước của TC xuất hiện
ngày càng nhiều ở Ấn Độ Dương &
Thái B́nh Dương. Hải quân Ấn Độ đă
triển khai 135 chiến hạm, 1 tàu sân bay và 15 tàu
ngầm tạo thành cánh cung tác chiến từ Đông
Phi kéo sang eo biển Hormuz và nối dài sang eo biển
Malacca “yết hầu” của Biển Đông. Thêm vào
đó là 230 chiến đấu cơ đủ các
loại. Kết
luận: Đối
với Việt Nam có một vị trí chiến lược
nằm bên lề những tuyến đường hàng
hải trên Biển Đông vô cùng trọng yếu,
một vùng biển mà Bắc Kinh muốn biến thành
ao nhà phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng
bá quyền khu vực. Việt
Nam với lănh thổ trải dài dọc ven bờ
biển Thái B́nh Dương với diện tích hơn
3.600.000 km2 và chiều dài bờ biển là 3.444 km.
Lực lượng Không quân & Hải quân VN yếu kém
không đủ khả năng bảo vệ biển
đảo mất dần vào tay Bắc Kinh. Việt Nam
bị cô lập v́ chính sách “ba không”, sản
phẩm của đỉnh cao trí lợn của
những tên lănh đạo ĐCSVN; v́ vậy, Việt
Nam bị cô lập và cô độc không thể đối
đầu với Tàu Cộng th́ phải vứt bỏ
chính sách “ba không” lổi thời này vào thùng rác và
học hỏi kinh nghiệm liên minh, liên kết của
Ấn Độ để tồn tại trước tên
láng giềng côn đồ, hung hăng và ngang ngược. Chỉ
có một giải pháp duy nhất là dựa vào các đồng
minh chiến lược Mỹ - Nhật - Ấn. Chính
phủ Hoa Kỳ do Obama lănh đạo hoặc Donald Trump
kế nhiệm sẽ hỗ trợ các quốc gia nhược
tiểu trong vùng trong việc tranh chấp chủ
quyền biển đảo với Bắc Kinh. Chính
phủ Hoa Kỳ sẽ không bao giờ chấp nhận
để Bắc Kinh độc quyền kiểm soát và
khống chế những tuyến đường hàng
hải huyết mạch trên Biển Đông, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới Nhật - Hàn - Ấn - Australia và các
quốc gia ĐNA. Một
khi vứt bỏ chính sách 3 không, Việt Nam sẽ có cơ
hội tận dụng liên minh Mỹ - Nhật - Ấn và
kể cả Nga để chống lại Tàu Cộng.
Mối liên hệ với Mỹ và nhất là với
Ấn Độ đang phát triển thuận lợi.
Ngoài sự bang giao về chính trị, kinh tế và quân
sự, tiến tới b́nh thường hóa bang giao. Tuy
chưa phải là liên minh, nhưng Việt Nam có thể
liên kết chặt chẽ với những quốc gia
kể trên, v́ nước này cùng chung mối đe
dọa từ Bắc Kinh và bất b́nh trước tham
vọng ngông cuồng của Tập Cận B́nh. Nếu
CSVN vứt bỏ chính sách “ba không”, đó không
phải là một điều bất lợi cho Việt
Nam; ngược lại, Việt Nam sẽ đạt
được sự liên kết chặt chẽ với
các nước trong vùng, đặc biệt là Ấn -
Nhật, cả hai nước nầy đều là láng
giềng của người láng giềng khổng
lồ chân đất sét, v́ hai nước nầy có
những tranh chấp quyết liệt về lănh thổ
và biển đảo với Bắc Kinh. Một sự
liên kết với Ấn - Nhật sẽ tạo áp
lực với Bắc Kinh khiến họ chùn bước
trước tham vọng độc chiếm Biển
Đông và vùng biển nầy thành ao nhà của họ. Tờ
Time of India cho biết, sau khi huấn luyện thủy
thủ đoàn tàu ngầm Kilo cho VN và thỏa thuận
huấn luyện phi công giữa Ấn Độ và
Việt Nam đă đi đến những bước
cuối cùng trước khi được kư kết chính
thức. Theo đó, phía Ấn Độ sẽ huấn
luyện các phi công “tiềm kích đa năng Su-30MK2”
cho phía Việt Nam. Cộng
sản Việt Nam muốn tồn tại phải vứt
bỏ chính sách ba không và triệt để khai thác
lợi thế và cơ hội liên kết chặt
chẽ với Mỹ - Ấn - Nhật - Australia cùng
đứng chung trên một chiến tuyến chống
lại Tàu Cộng! 03.01.2017 Tổng
hợp & nhận định: |