Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Nhật Đầu Hàng
(2/9/1945 — 2/9/2020): Nguyên Nhân và
Ảnh Hưởng (Phần I) TS.Đỗ Kim Thêm |
Tóm lược: Lần
đầu tiên Mỹ thử nghiệm bom nguyên tử thành
công trong khi Đức c̣n tụt hậu về t́nh
trạng nghiên cứu. Nhờ có gián điệp Đức,
Liên Xô biết các đề án của Mỹ và
không phản ứng. Trong bản Tuyên bố Postdam, Đồng Minh
đ̣i hỏi quân đội Nhật đầu hàng vô
điều kiện. V́ Nhật không đáp ứng, nên
Truman quyết định cho ném bom nguyên tử vào ngày
6 tháng 8 năm 1945 tại Hiroshima và ngày 9 tháng 8 tại
Nagasaski. Ngày 15 tháng 8, Nhật Hoàng tuyên bố chấp
nhận điều kiện của Đồng Minh đề
ra, nhưng không nêu đích danh là đầu hàng.
Sáng
ngày 2 tháng 9, Mỹ nhận lời đầu hàng
của quân đội Nhật. Lư do chủ yếu buộc Nhật đầu hàng
không phải là do Mỹ ném bom mà do Liên Xô tuyên
chiến. Khi các giải pháp đàm phán với Liên Xô và
chống Mỹ đổ bộ không c̣n cơ hội thành
công, Nhật thấy không thể luỡng đầu
thọ địch và chịu
cảnh đất nước bị Đồng Minh chia
cắt. Sau khi Nhật đầu hàng, các nước
thuộc địa trong vùng Á Đông lần lượt
thu hồi độc lập bằng giải pháp
ngoại giao, trừ Việt Nam phải vũ trang
chiến đấu chống Pháp. Bối cảnh Từ mờ sáng ngày 16/6/1945, ba ngày trước
khi hội nghị Postdam khai mạc, một nhóm các nhà
vật lư nguyên tử Mỹ và Anh đă thực
hiện một cuộc thử nghiệm bom nguyên tử
lần đầu tiên trong vùng sa mạc Alamogordo
thuộc tiểu bang New Mexico. Nỗ lực này là
kết quả của dự án Mahattan, một công tŕnh
nghiên cứu dài hạn do chính phủ Mỹ tài
trợ, mà năng động chính là Mỹ lo sợ
Đức sẽ chiếm ưu thế trong việc
sản xuất và sử dụng bom nguyên tử, v́
Đức đă nổi danh có sẵn các nhà nghiên
cứu hàng đầu như Otto Hahn, Werner Heisenberg và
Carl Friedrich von Weizsäcker. Thật ra, lo sợ này không có cơ sở. Dù
quan tâm đến tác dụng thần kỳ của
loại bom này trong ngắn hạn, nhưng Adolf Hitler,
thủ lĩnh Đảng Đức Quốc Xă, vẫn
chưa nghĩ tới việc phát triển bom thành
một ngành kỹ thuật mới cho mục tiêu quân
sự, mà lư do là không biết chắc khi nào có thể
mang ra sử dụng. Vào tháng 6 năm 1941, Tổng thống Franklin D.
Roosevelt triệu tập The Atomic Energy Commission, một
Ủy ban Nghiên cứu bom; nh́n chung, Mỹ đạt
được tŕnh độ mà Đức chưa
đạt sau năm 1944. Vào tháng 10 năm 1944 và đầu
tháng 3 năm 1945, Schutzstaffel (SS), Tổ chức Vũ
trang của Đức Quốc xă, đă cho thí
nghiệm bom tại một địa điểm
ngoại vi của trại tập trung Buchewald, Thüringen.
Do đó, t́nh trạng nghiên cứu và sử dụng bom
của Đức vẫn c̣n thua xa Mỹ. Từ lâu, Mỹ quyết định vụ
thử nghiệm tuyệt mật này. Tại một
địa điểm cách xa Alamogordo 30 cây số, William
L. Laurence, kư giả chuyên mục thời sự khoa
học cho New
York Times, đă theo dơi và mô tả: “Trong khoảng im lặng vô
biên, một ngọn lửa bùng lên quả đất mà
chưa ai thấy bao giờ. Một thời gian ngắn
sau, ánh sáng lan toả tràn ngập khắp đất
trời và một tiếng sấm long trời nổ ra.
Ngay sau khi ánh sáng này lặp lại, một loạt các
âm thanh giống như của hàng ngàn quả bom nổ
cùng một lúc và mặt đất lung lay như trong
một cơn động đất“. Quả bom mang tên Trinity có sức công phá vượt
qua sự mong đợi của J. Robert Oppenheimer, nhà lănh
đạo nhóm chuyên trách. Tuy thành công trong âm thầm,
nhưng ảnh hưởng của bom làm thay đổi
triệt để cho cục diện thế giới
về sau. Sau khi đến Postdam, Tổng thống Harry
Truman nhận tin thử nghiệm thành công và nghĩ ngay
rằng bom sẽ kết thúc nhanh chóng chiến tranh
tại Viễn Đông mà không ai lường được
trước. Ngày 18 tháng 6, Đô Đốc Willian D. Leahy,
Tổng Tham mưu trưởng, báo tin cho Tổng
thống Truman biết, diễn biến về các
trận giao tranh tại Okinawa từ tháng 4 cho đến
tháng 6, Nhật làm cho khoảng 268.000 binh sĩ Mỹ
thiệt mạng, số thương vong cao nhất cho
đến thời điểm đó tại các mặt
trận của Đệ nhị Thế chiến. Ngay trong mùa hè năm 1945, Tổng thống
Truman,
Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Henry L. Stimson và
Ngoại trưởng James F. Byrnes cho rằng, khi cuộc
chiến tiếp tục với các loại vũ khí quy
ước trong nhiều tháng tới, th́ Nhật sẽ
đầu hàng vào mùa thu năm 1946. Là thượng nghị sĩ và quan tâm đến
thánh phần cử tri địa phương và các chuyên
đề an ninh, cả hai Truman và Byrnes luôn nghĩ là chính
giới Mỹ đang tiếp tục đeo đuổi
một cuộc chiến đẫm máu. Dù Mỹ có
đủ phương tiện để chiến
thắng, khi chịu nhiều tổn thất như
vậy, th́ sẽ không được công luận tha
thứ. V́ thế, Truman và các cố vấn thân cận
đều đồng thuận cho việc sử
dụng bom mới. Thoạt đầu, ngày 17 tháng 7, Truman tiết
lộ cho Thủ tướng Anh Winston Churchill về
cuộc thử nghiệm và cả hai quyết định
là không báo tin cho Tổng Bí thư Đảng Cộng
Sản Liên Xô Josef Stalin biết. Lư do cho sự im
lặng này là cả hai muốn cho Stalin tham gia chống
Nhật ở mặt trận Thái B́nh Dương.
Harry
Truman và Josef Stalin. Trong
một cách t́nh cờ bên lề cuộc họp Postdam ngày
24 tháng 6, Truman báo cho Stalin biết là Mỹ vừa
sản xụất một loại bom mới với
sức công phá khác thường. Stalin tỏ ra phản
ứng b́nh tĩnh và hy vọng rằng Mỹ sẽ
sử dụng bom cho mục tiêu chống Nhật. Thực
ra, Stalin đă biết được đề án
Mahattan từ lâu nhờ Klaus Fuchs, một nhà vật lư
nguyên tử Đức đào thoát sang Anh làm gián điệp
cho Nga. Fuchs cũng là người trực tiếp tham gia
tại Alamogordo và báo tin cho Stalin. Đến
ngày 25 tháng 7, Stalin cam kết tham chiến chống
Nhật trong khi Truman hy vọng là Stalin chấp nhận các
yêu sách của Đồng Minh trong việc phân chia lănh
thổ châu Âu sau chiến tranh. Ngay
trong nhật kư ngày 25 tháng 7, Truman tỏ lộ là khi
Tokyo không kết thúc chiến tranh, Mỹ sẽ ném bom
trước ngày 10 tháng 8, v́ là một điều
tốt cho thế giới, nhất là tận dụng cơ
hội kịp thời để cứu nguy sinh mệnh
cho hàng trăm ngàn lính Mỹ trong khi Hitler hoặc Stalin
chưa có bom tương tự. Mỹ t́m cách tránh gây
tổn thương cho phụ nữ và trẻ em. Vào
thời điểm này, Mỹ chưa đưa ra
quyết định chính thức và Nhật c̣n có cơ
hội đầu hàng. Cụ
thể là trong một tối hậu thư ngày 26 tháng
6, Truman, Churchill và Tưởng Giới Thạch (không
tham gia hội nghị Postdam) yêu cầu Nhật Hoàng
Hirohito, chậm nhất là đến ngày 2 tháng 8, buông
vũ khí để tránh cho việc Nhật bị san
bằng thành b́nh địa và quân đội Nhật
bị đại bại. Đồng Minh nhấn
mạnh trong thư là chủ nghĩa quân phiệt vô trách
nhiệm và giới hữu trách về chính sách xâm lăng
phải bị loại trừ và những tội
phạm chiến tranh phải bị đem ra xét xử.
Nhật không thể bác bỏ các điều kiện tiên
quyết này do Đồng Minh đề ra. Như
trong Bảng Tuyên bố tại Cairo vào tháng 11 năm
1943 đề cập, quyền toàn vẹn lănh thổ và
dân tộc tự quyết của Nhật phải bị
giới hạn cho đến khi Nhật tái lập
được hoà b́nh và dân chủ. Khác
với trường hợp của Đức, điểm
chính yếu của Bảng Tuyên bố Postdam là đ̣i
hỏi quân đội Nhật đầu hàng, trong khi nước
Nhật và người Nhật có quyền tự
quyết về chính trị, khai thác tài nguyên và tham
dự vào nền thuơng mại thế giới, đó
là triển vọng cho tương lai của Nhật.
Trong chiều hướng này, Đồng Minh không đ̣i
hỏi Nhật Hoàng Hirohito phải thoái vị hay
chấp nhận cho tiếp tục trị v́; việc
chuyển sang chế độ cộng hoà và đe
doạ ném bom cũng không được đặt ra. Từ
ngày 7 tháng 4 năm 1945, được Nhật Hoàng tin
cẩn và do áp lực của các phe chủ hoà, Đô
đốc Kantaro Suzuki được giao cho chức
vụ thủ tướng chính phủ. Vào tháng 6
tại Moskow, theo sự điều động của
Ngoại trưởng Togo Shigenori, cựu Thủ tướng
Konoe Fumimaro có thảo luận với Liên Xô để
cố làm thay đổi quan điểm trung lập
của Liên Xô trong vai tṛ trung gian. Phía Liên Xô phản
ứng dè dặt và muốn chận đứng các
động thái mới của Nhật. Tại Postdam,
Kanoe cũng có bày tỏ lập trường này, nhưng
không kết quả. Lúc
bây giờ, giới lănh đạo Nhật bị phân hoá
trầm trọng. Phe hiếu hoà do Ngoại trưởng
Togo lănh đạo thấy Bảng Tuyên bố Postdam có
những điểm tích cực, nhưng vấn đề
chính cần phải làm sáng tỏ là vị thế
của Nhật Hoàng Hirorito. Nhóm quân phiệt cực
đoan xoay chung quanh Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng
Anami và Tướng Tư lệnh Quân đội Umezu cho
rằng chấp nhận tối hậu thư là không phù
hợp với danh dự của Nhật. Vào
ngày 28 tháng 7, sau khi thảo luận chi tiết, Hội
đồng Tối cao Chiến tranh của Nhật
khuyến cáo là phải chờ đợi trả
lời của phía Liên Xô sau chuyến đi của phái
bộ Konoe. Trong một cuộc họp báo tiếp theo,
Thủ tướng Suzuki tuyên bố là Nhật phải
tự quyết định theo cách “mokusatzu”, có
thể hiểu là không cần lưu ư tới vấn
đề. Theo
đó, Bộ trưởng Quốc pḥng Anami đưa
ra một khẩu hiệu, mà ngày hôm sau trên báo chí xác
định là “không quan tâm”. Theo quan điểm
của Mỹ, đó là sự cự tuyệt và có lư
do chuẩn bị cho việc ném bom lần thứ
nhất.
Cảnh
bom nổ tại Hiroshima. Theo
lời một giới chức chuyên trách hoạch định,
địa điểm không kích là Hiroshima, một thành
phố cảng cũng là một căn cứ quân
sự và trung tâm công nghiệp. Theo lệnh của
Tổng thống Truman, từ trên cao độ 680 mét, vào
ngày 6 tháng 8 năm 1945 lúc 8 giờ 15, phi hành đoàn
“Enola Gay” đă cho nổ bom nguyên tử đầu tiên
mang tên “Little Boy”. Trong số 355.000 cư dân, có
80.000
chết ngay, đến cuối năm 1945 chết thêm
60.000, 4/5 các nhà cửa bị huỷ diệt hay hư
hại nặng. Về sau, bụi phóng xạ nguyên
tử làm cho hơn 60.000 người bị nhiễm. Ngày
8 tháng 8, hai ngày sau khi ném bom Little Boy, Liên Xô tuyên
chiến với Nhật và phía Mỹ chưa có thư
đầu hàng của Tokyo. Truman doạ sẽ tiếp
tục không kích mạnh hơn trong trường hợp
Nhật không đầu hàng. Lư
do cho việc đầu hàng không thành là Hội đồng
Tối cao Chiến tranh chỉ biểu quyết với
tinh thần nhất trí, nhưng hai phe cực đoan và
hiếu hoà đối nghịch gay gắt, Hội đồng
bế tắc trong quyết định tối hậu. Sau
đó, Truman ra lệnh ném quả bom thứ hai mang tên
“Fatman“. Bom được sản xuất trong loạt
ba quả bom theo dự án Mahattan và ném vào ngày 9 tháng 8 lúc
11 giờ tại thành phố cảng Nagasaski. Bom rơi
đúng vào phân xuởng quốc pḥng của công xưởng
Mitsubishi làm cho 39.000 trong số 270.000 cư dân chết
ngay, đến cuối năm 31.000 người khác
chết. Mức độ thiệt hại nhà cửa lên
đến 40%.
Cảnh
bom nổ tại Nagasaski. Sau
hai lần ném bom, chính giới Tokyo cũng chưa
chấp nhận đầu hàng. Trước lúc nửa
đêm ngày 9 tháng 8, Nhật Hoàng can thiệp vào
cuộc họp của Hội đồng Tối cao
Chiến tranh. Khi Thủ tướng Suzuki yêu cầu
Nhật Hoàng quyết định trước hai
đường lối hoà hay chiến, Nhật Hoàng
đứng về phía Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Togo, người chủ trương
chấp nhận tối hậu thư. Ngay sau đó,
Bộ Ngoại giao Nhật, thông qua Toà Đại
sứ Nhật tại Bern (Thụy Sĩ), cho biết là
Nhật sẳn sàng đầu hàng, nhưng trong điều
kiện là phe thắng trận không được xâm
phạm đến quyền tối thượng của
Nhật Hoàng. Sau
đ̣i hỏi này, Mỹ có tham khảo ư kiến
với Anh, Nga và Liên Xô, tất cả hứa hẹn
một h́nh thức cho nhà nước Nhật là sẽ
do dân Nhật tự do quyết định và Đồng
Minh chỉ chiếm Nhật cho đến khi mục
đích của Bảng Tuyên bố Postdam đạt
được. Vào
sáng sớm ngày 12 tháng 8, Ngoại trưởng Byrnes kư
một văn thư tŕnh bày quan điểm cho Tokyo xem.
Vào ngày 14 tháng 8, trước áp lực của Nhật
Hoàng, Hội đồng Tối cao Chiến tranh chấp
thuận văn kiện của Mỹ. Buổi
tối cùng ngày, một âm mưu khuynh đảo
của nhóm phản loạn thất bại. Đây là
một đêm kinh hoàng cho thủ đô Tokyo, mọi người
sống trong hoảng loạn khi giới quân phiệt lùng
bắt và tàn sát phe hiếu hoà. Nhờ may mắn,
Thủ tướng Suzuki cũng thoát chết trong
đường tơ kẻ tóc khi tháo chạy. Cuối
cùng, v́ không cam chịu thất bại và mất danh
dự, nhiều phần tử quân phiệt cực đoan
mổ bụng tự tử (Harakiri). Ngày
15 tháng 8, trong một bài diễn văn truyền thanh dài
bốn phút rưởi, Nhật Hoàng thông báo chấp
nhận điều kiện của Đồng Minh đề
ra mà không nêu đích danh là đầu hàng, nhưng
kết án việc ném bom Hiroshima và Nagasaki và cho là
tiếp tục cuộc chiến có nghĩa là làm cho
Nhật sụp đổ toàn diện. Ngày hôm sau,
Nhật Hoàng ra lệnh đ́nh chiến trong tất
cả các mặt trận.
Nhật
Hoàng Hirohito và văn bản đầu hàng. Trước
9 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên chiến
hạm Missouri đang đậu trong vịnh Tokyo, trước
sự hiện diện của các đại diện các
nước Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Canada
và Pháp, Tướng Douglas Mac Arthur, Tư lệnh Lực
lượng Mỹ, nhận lời tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện của quân đội
Nhật. Về phía Nhật, Tân Ngoại trưởng
Shigemitsu và Tướng Umezu Yoshijiro, Tổng Tham mưu trưởng
Quân đội, kư kết văn kiện này. Thế là
Đệ nhị Thế chiến tại mặt trận
Thái B́nh Dương kết thúc. Truman
hay tin ném bom khi đang ở giữa biển khơi trên
đường từ Postdam về Mỹ và phản
ứng nhẹ nhơm. Khi quyết định ném bom, Truman
không mang suy nghĩ đạo đức nào, cho bom là
một vũ khí hợp pháp và cần thiết để
ngăn chận chiến cuộc trong một thời
hạn sớm nhất khi so với số binh sĩ
Mỹ thương vong.
Lễ
kư kết đầu hàng. Theo
quan điểm chiến lược, giới chức
Mỹ chấp nhận việc tử thương cho
Nhật là b́nh thường. Họ có thói quen hạ
thấp mức độ đạo đức trong các
vụ ném bom và không quan tâm đến các hậu
quả, cho dù trong đó có vô số nạn nhân dân
sự, kể cả phụ nử và trẻ em, nhiễm
bụi phóng xạ trong lâu dài không là vấn đề
trọng đại. Số thương vong cho Nhật lên
tới hàng trăm ngàn, riêng tại Tokyo là bi thảm
nhất, ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1945, số thiệt
mạng là hơn 85.000. Nguyên
nhân Tại
sao Truman quyết định ném bom? Không có cơ sở
nào để giải thích việc kỳ thị
chủng tộc Nhật là lư do. Cũng có suy đoán
cho là bom có thể ném sớm hơn cho Đức, nhưng
không thể suy đoán là Mỹ sử dụng bom
một lần để cho thế giới thấy
chiến tranh sẽ không c̣n là một phương
tiện tiếp nối cho chính trị. Karl
T. Compton và James Conant Karl
T. Compton, Viện trưởng Học viện MIT và James
Conant, Viện trưởng Đại học Harvard, hai
cố vấn khoa học cấp cao của Truman, cho là vũ
khí này không được sử dụng trong cuộc
chiến. Trong thư ngày 11 tháng 6 năm 1945 gởi cho
Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Stimson, Crompton cho
biết là thế giới không có một lời
cảnh báo phù hợp trong khi đang chờ đợi
một cuộc chiến mới có thể bộc phát.
Đây là một cân nhắc cho tương lai xa, chính v́
thế mà có thể xác định thời điểm
quyết định cho việc sử dụng bom là trong
khoảng thời gian mùa hè năm 1945. Gar
Alperovitz Sau
năm 1965, Gar Alperovitz, Giáo sư Chính trị học
tại Đại học Maryland, đă phê b́nh nghiêm
khắc về việc ném bom. Trong hai tác phẩm Atomic
Diplomacy: Hiroshima and Potsdam và The
Decision to Use the Atomic Bomb, Alperovitz chủ trương
xét lại lịch sử với luận điểm là
tại sao sử dụng bom ngay trước khi Nhật
sụp đổ quân sự, đó là quyết định
không cần thiết. Thực
ra, sau khi được tin về cuộc thử
nghiệm tại Alamogordo, Byrnes cũng kết luận là
Mỹ chống Nhật là không c̣n cần thiết khi Liên
Xô tham chiến. Byrnes hy vọng là với sức
mạnh quân sự mới tạo được, Mỹ
sẽ gây ảnh hưởng tích cực đến chính
sách của Liên Xô tại châu Âu, nhưng vấn đề
chỉ có thể đặt ra trong phái đoàn Mỹ
tại Postdam. Ngược
lại, Truman có một mục tiêu khác là muốn gây
cho Liên Xô kinh sợ. Khi phô trương sức mạnh
bom nguyên tử tại Viễn Đông, Mỹ sẽ
tạo ra các ảnh hưởng tích cực đối
với chính sách của Liên Xô tại châu Âu. Khi đối
mặt với Stalin trong hội nghị Postdam, Truman
tỏ ra nghiêm khắc hơn. Nếu
cho rằng việc Nhật đầu hàng là không
thể tránh, quan điểm này không thuyết phục.
Tài liệu về sau có kiểm chứng và hậu
thuẫn cho lập luận là nếu Mỹ không ném bom
nguyên tử, chiến tranh sẽ c̣n kéo dài. Theo nhận
định này, quyết định của Truman là có lư. Vào
tháng 7 năm 1945, Mỹ ước tính sẽ chiếm các
đảo của Nhật vào ngày 1 tháng 11 năm 1945.
Với khoảng 766.000 lính Đồng Minh, nghĩa là có
mức độ quy mô hơn cuộc đỗ bộ
tại Normandie, Pháp, trong năm 1944, Mỹ sẽ gây cho
Nhật từ 5 triệu đến 10 triệu người
chết. Qua
tài liệu của Nhật thu thập được,
Mỹ phát hiện việc Nhật chuẩn bị
tấn công chống Mỹ là c̣n quy mô hơn. Để
bảo vệ, Nhật có 350.000 quân chính quy và sau đó
tăng cường khoảng 575.000 Lực lượng Dân
sự Pḥng vệ. Ngoài ra, Nhật với hơn 10.000 máy
bay cũng sẳn sàng thực hiện các phi vụ
thần phong (kamikaze), tấn công và tự sát vào các tàu
chiến của Mỹ khi cập đảo và đổ
bộ. Sau khi Nhật đầu hàng, quân đội Hoa
Kỳ đă giải ngũ khoảng 784.000 lính ở
Kyushu. Nh́n chung, lực lượng pḥng thủ Nhật
đông hơn quân Đồng minh. Theo
một lập luận khác, trong giai đoạn này,
Truman không coi trọng việc Liên Xô tuyên chiến
chống Nhật và không có hoạt động nào để
ngăn chận bước tiến này. Đối
với châu Âu, trong mùa hè năm 1945, Mỹ không có
biện pháp triệt để nào để chống Liên
Xô, không phải là v́ Mỹ quan tâm đến việc
hợp tác giữa Mỹ và Liên Xô trong việc kiểm
soát vũ khí cho trang bị quốc pḥng, một kế
hoạch mà Bộ trưởng Bộ Chiến tranh
Stimson, đồng thuận. Một
giải đoán khác là ném bom cho phép Truman gây thêm chú ư
cho Liên Xô. Liên Xô sẽ không chiếm đóng Nhật và
hậu qủa là Mỹ không có khó khăn ở
Nhật như tại Đức. Kể từ 21 tháng 7,
tại Hội nghị Postdam, Mỹ không tỏ ra có thái
độ cứng rắn đối với Liên Xô. Đúng
ra, Mỹ muốn hợp tác với Liên Xô khi
đương nhiên chấp nhận là Liên Xô có
ảnh hưởng mạnh hơn tại Trung Âu và
Đông Âu. Tại Tây Âu là khác hẳn, t́nh h́nh
chuyển biến thuận lợi cho Mỹ, đẩy
cho thanh thế của Mỹ ngày càng lên cao, đặc
biệt là trong mối quan hệ với Liên Xô và toàn
cầu. Nh́n
chung trong bối cảnh này, theo Alperowitz, cho dù bom nguyên
tử là một cuộc cách mạng về kỹ
thuật quân sự, nhưng từ sau năm 1945, Mỹ
không theo đuổi một chính sách ngoại giao
bằng bom nguyên tử. Một cuộc đối đầu
trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh bắt đầu
là chậm hơn sau đó. Tham chiến của Liên Xô
chống Nhật vào ngày 8 tháng 8 năm 1945 là quá
muộn, đúng hơn phải nói là có tính biểu tượng
vào giây phút chót. Ward
Wilson Gần
đây, Ward Wilson, Sử gia làm việc tại British
American Security Information Council (BASIC) có đề ra các lư
giải khác trong tiểu luận The
Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin Did và tác phẩm Five
Myths About Nuclear Weapons. Tương
phản với quan điểm của Gar Alperovitz và công
luận, theo Wilson, hai quả bom ném xuống Hiroshima và
Nagasaki không phải là lư do chính dẫn tới việc
Nhật đầu hàng mà là việc Liên Xô tuyên
chiến. Wilson dẫn chứng nhiều khía cạnh
thuyết phục mà ư nghĩa tiềm ẩn sâu xa hơn. Vấn
đề là thời điểm làm đối sách. Chính
giới Nhật phải phản ứng cấp thời
cho vận mệnh của nước Nhật. Có
thực quyền quyết định trong giai đoạn
sinh tử này là Hội đồng Tối cao Chiến
tranh, một siêu nội các gồm 6 thành viên. Đối
với Hội đồng, ngày quan trọng nhất không
phải là hai ngày ném bom tại Hiroshima và Nagasaki, mà là
ngày đầu tiên họp bàn về việc đầu
hàng sau 14 năm tham chiến. Trước
đó, trong mùa hè năm 1945, t́nh h́nh chung diễn
biến rất tồi tệ. Việc Đồng Minh
tổ chức phiên ṭa xét xử tội phạm
chiến tranh ở Nürnberg, Đức tác động
mạnh. Đồng Minh đang nghĩ ǵ về nước
Nhật và sẽ làm ǵ đối với Nhật Hoàng?
Đưa Nhật Hoàng ra trước ṭa hay truất
phế? Quan tâm chính của Hội đồng là dân
Nhật không thể từ bỏ truyền thống suy tôn
Nhật Hoàng trong quyết định táo bạo của
Đồng Minh. Vụ
ném bom Hiroshima diễn ra trước đó ba ngày. Chuyên
gia cho rằng trong số tất cả 68 thành phố
bị không kích, Hiroshima được xếp thứ
hai về số thường dân thiệt mạng, nhưng
tính theo số diện tích bị phá hủy là
được xếp vào hảng thứ tư và tính
theo tỷ lệ bị phá hủy đứng vào
hạng xếp thứ 17. Do đó, Hội đồng không
cho mức độ hủy diệt Hiroshima là trầm
trọng. Nếu là lư do buộc Nhật đầu hàng
th́ tại sao phải mất đến ba ngày sau
Hội đồng mới họp bàn. Lư
do cho vụ ném bom Nagasaki khác hơn. Thảm hoạ
diễn ra vào buổi sáng ngày 9 tháng 8 và tin này đến
cho Hội đồng vào buổi chiều, đó là lúc
họp bàn đă kết thúc trong bế tắc và toàn
bộ nội các được yêu cầu triệu
tập để tiếp tục giải quyết. Cũng
như Hiroshima, tác hại tại Nagasaki không là động
cơ cho việc đầu hàng. Có
lập luận khác cho rằng tŕ hoăn quyết định
là hợp lư v́ Hội đồng cần có thời
gian để kiểm chứng các tác động
của hai vụ ném bom. Cách lư giải này không phù
hợp với các bằng chứng t́m thấy về
sau. Trước
hết, Thị trưởng thành phố Hiroshima đă báo
cáo về hiện trạng cho Tokyo trong cùng ngày. Theo tin
nhận được, khoảng một phần ba dân
chúng bị tử vong và khoảng hai phần ba thành
phố bị phá hủy, đó là thiệt hại sơ
khởi. Uớc lượng này không cách biệt
nhiều so với kiểm chứng sau cùng. Do đó,
Hội đồng đă biết hậu quả và không
phản ứng. Sau
đó, Uỷ ban Điều tra Lục quân Nhật có báo
cáo chi tiết, nhưng không ai biết là tại sao mà
cho đến ngày 10 tháng 8 bản văn đă không tŕnh
nộp cho Hội đồng, mà nhận đuợc sau
khi đă có quyết định đầu hàng, mặc
dù trước đó Hội đồng đă
được báo cáo bằng miệng. Do đó,
Nhật đưa ra quyết định đầu hàng
là không bắt nguồn do thẩm định các tác
hại của hai vụ ném bom. Ngày
8 tháng 8, Ngoại trưởng Togo Shigenori yêu cầu
Thủ tướng Kantaro Suzuki triệu tập Hội
đồng để họp bàn về vụ Hiroshima, nhưng
các thành viên đă từ chối. Lư do từ chối
không được tiết lộ, ngạc nhiên
nhất là Hội đồng lại họp cho việc
đầu hàng ngay ngày hôm sau. Một
lập luận khác cho là chính giới Nhật không phân
biệt tác hại của hai cuộc ném bom. Tài liệu
về sau cho thấy là trong 68 thành phố bị không kích,
có 66 cuộc là bằng bom thông thường và hai
bằng bom nguyên tử, tất cả làm cho toàn bộ
hay một phần các thành phố Nhật bị hủy
hoại, khoảng 1,7 triệu người mất nhà,
300.000 người chết và 750.000 bị thương. Khi
tính mức công phá, các chuyên gia cho là trong một
cuộc không kích sẽ có khoảng 4 đến 5 kiloton
bom được thả xuống mỗi thành phố.
Một kiloton tương đương với một
ngàn tấn và là đơn vị tiêu chuẩn để
đo cho sức công phá của bom nguyên tử. Theo ước
tính chung, sức công phá tại Hiroshima là 16,5 kiloton và
Nagassaki là 20 kiloton trong khi mức độ hủy
diệt trong một số vụ không kích bằng bom thông
thường đă đạt gần bằng vụ ném
bom nguyên tử. Một bằng chứng khác là vào ngày
13 tháng 8, Tướng Anami xác nhận hai vụ ném bom
nguyên tử không tác hại nhiều hơn những
vụ ném bom thông thường khác. Về
phương diện tâm lư dân Nhật, có một lư
giải khác. Cựu Ngoại trưởng Shidehara Kijuro
cho rằng: “Người dân sẽ quen dần với
việc ngày nào cũng phải hứng chịu bom,
dần dần tinh thần đoàn kết và quyết tâm
của họ sẽ mạnh mẽ hơn“. Ư kiến này
cũng được nhiều người trong chính
phủ đồng thuận. Kiến thức về bom
nguyên tử của dân chúng rất hạn chế,
trừ các chuyên gia. Theo
Wilson, chính giới Nhật xem Liên Xô tuyên chiến là lư
do đầu hàng. Dù lực lượng vẫn c̣n
mạnh và quân nhu c̣n đầy đủ, gần 4
triệu binh sĩ được vũ trang hùng hậu
và 1,2 triệu binh sĩ đang ra sức bảo vệ lănh
thổ, Nhật đang bi quan khi không biết là sẽ
thua hay thắng, diễn biến t́nh thế tuỳ
thuộc vào hai chiến lược ngoại giao và quân
sự. Về
giải pháp ngoại giao, Ngoại trưởng Togo
Shigenori sẽ thuyết phục Stalin làm trung gian thu
xếp giữa Đồng Minh và Nhật. Cơ
sở pháp lư là Thỏa thuận Trung lập giữa
Nhật và Liên Xô sẽ hết hạn trong năm 1946,
nếu Stalin đảm bảo được không làm
cho Hoa Kỳ tăng cường ảnh hưởng
ở châu Á, có nghĩa là, Liên Xô sẽ có lợi
thế chiến lược trong tương lai. Đây là
một cơ sở thuận lợi cho Nhật nhưng
đầy rủi ro v́ không lường đoán đuợc
phản ứng của Liên Xô. Giới
quân phiệt chủ trương dùng Lục quân
Nhật đối đầu khi lực lượng
Mỹ đổ bộ. Bộ trưởng Bộ
Chiến tranh Anami Korechika cổ súy cho giải pháp quân
sự và cho là số thương vong rất lớn
của binh sĩ Mỹ là thực tế chứng minh cho
tinh thần chiến đấu oai hùng của Nhật, nên
Nhật tỏ ra lạc quan; nếu thắng, Nhật
sẽ có ưu thế tạo ra những điều
kiện thuận lợi. Mặt khác, chiến lược
này cũng khó lường đoán khi Mỹ cương
quyết đ̣i Nhật đầu hàng vô điều
kiện. Cả
hai lựa chọn đều vẫn c̣n trong giai đoạn
khả thi, nên hai vụ ném bom Hiroshima và Nagasaki không là
yếu tố chính để Nhật phải đầu
hàng. Ngay
sau khi Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đưa quân
xâm nhập vào Măn Châu và quần đảo Sakhalin làm
cho t́nh thế khác hẳn, có nghĩa là, Stalin không c̣n
muốn làm trung gian mà trở thành địch thủ.
Khi không thể thực hiện phương sách
ngoại giao, th́ giải pháp quân sự cũng không mang
nhiều hứa hẹn. Những tác động mới
làm cho t́nh h́nh diễn biến bất lợi. Cụ
thể là khi Nhật quyết định điều
binh xuống phía nam, nơi được suy đoán là
lính Mỹ sẽ đổ bộ đầu tiên và rút
binh ở Măn Châu về để lo bảo vệ chính
quốc. Khi tin Nga chuẩn bị đổ bộ lên
đảo Hokkaido gây cho Nhật hoang mang hơn. Do
đó, Liên Xô đă vô hiệu hóa hai chiến lược
quân sự và ngoại giao của Nhật. Trong chiều
hướng suy luận này, hai vụ ném bom Hiroshima và
Nagasaki không có ư nghĩa quan trọng như công luận
nhận định. Trước
đó, vào tháng 6 năm 1945, trong một cuộc họp
của Hội đồng, Phó Tổng Tham mưu Lục
quân Kawabe nói rằng: “Duy tŕ tuyệt đối ḥa b́nh
trong quan hệ của chúng ta với Liên Xô là hết
sức quan trọng nếu muốn tiếp tục
cuộc chiến, sự tham chiến của Liên Xô
sẽ quyết định số phận của
Nhật. Chính giới Nhật đă không mấy lo
sợ trước đe dọa tiếp tục đánh
bom của Mỹ, mà chính là vai tṛ chiến lược
của Liên Xô. Tài
liệu về cuộc họp Hội đồng sau này
có xác nhận các lư giải theo Wilson. Ngày 9 tháng 8, lúc
10 giờ 30, Thủ tướng Suzuki có đệ tŕnh
cho Nhật Hoàng về t́nh h́nh t khẩn trương:
“Việc
Liên Xô tham chiến sáng hôm nay đă đưa chúng ta vào
một t́nh thế hoàn toàn không có lối thoát, không
thể tiếp tục chiến tranh được
nữa” xin Thiên Hoàng đưa ra “thiên đoán”,
một quyết định thiêng liêng”. Ngày
10 tháng 8, Nhật Hoàng phán rẳng: “Trẫm
đă suy nghĩ kĩ, khi Nga tham chiến, Nhật lâm vào
t́nh thế lưỡng đầu thọ địch,
cả hai mặt đều bị tiến công. Chỉ c̣n
một giải pháp mà Thủ tướng Suzuki đề
xuất (đầu hàng) là mới có thể t́m
được lối thoát” Nếu
t́nh h́nh diễn biến như trong trường hợp
này, một bi kịch hậu chiến cho Nhật sẽ
là bị chia cắt thành hai lănh thổ, một miền
Nam tự do do Đồng Minh và một miền Bắc
cộng sản do Liên xô chiếm đóng. Bức tường
Berlin có thể xây cho Tokyo. Người dân Bắc
Nhật sẽ phải chịu đựng như dân
Đông Đức. Xung đột Nam-Bắc Triều Tiên
như sau này cũng là khó tránh. Cuối
cùng, dù giải thích khác nhau, nhưng hai lập luận
của Gar Alperovitz và Ward Wilson có giá trị bổ sung. Khi
thừa nhận bom nguyên là cái cớ cho việc bại
trận, việc giải thích này đă xoá tan tất
cả những nhận định sai lầm trước
đó trong chính sách xâm lăng của Nhật. Quan
trọng nhất là Nhật Hoàng bảo vệ được
chính danh và không chịu trách nhiệm trước Toà
án Quân pháp Quốc tế Tokyo. V́ sự lu mờ các
tội ác trước lịch sử mà Nhật thu hút
sự cảm thông của cộng đồng quốc
tế trong nỗ lực tái thiết hậu chiến. Ngược
lại, thanh thế của Mỹ vả Liên Xô
được đề cao. Hai cuộc ném bom nguyên
tử gây ra những tổn thất bi thảm cho
Nhật. Nhưng việc sử dụng bom giúp cho
Nhật ngăn chặn sự chết chóc lớn hơn
nhiều so với những ǵ xảy ra. Hoa Kỳ đă
chọn giải pháp ít tồi tệ hơn và gây
ảnh hưởng ngoại giao ở châu Á, nhất là
an ninh thế giới sẽ được củng
cố. Khi
Liên Xô làm cho Nhật đầu hàng trong bốn ngày, thành
tích kỳ diệu này là điều mà Hoa Kỳ không
thể làm được trong bốn năm. Do đó,
ảnh hưởng ngoại giao của Liên Xô được
lan rộng. Ảnh
hưởng tại châu Á Nhật Khi
chiếm đóng Nhật trên danh nghĩa là Đồng
Minh qua danh hiệu Supreme Commander for the Allie Powers (SCAP),
nhiệm vụ chính của Mỹ là giải giới, tái
thiết hậu chiến và xây dựng dân chủ. Để
thực hiện, Nhật phải cam kết là chịu
mất các thuộc địa, không c̣n quân đội
và quyền đối ngoại. Tuân
theo Bảng Tuyên bố Potsdam và mô h́nh Toà Quân pháp
Chiến tranh tại Nürnberg Đức, ngày 19 tháng 1 năm
1946, Tướng Douglas MacArthur, Tổng tư lệnh, thành
lập “Toà án Quân sự Quốc tế cho vùng
Viễn Đông” đề xét xử 28 nhà lănh đạo
quân sự và chính trị Nhật. Sau
khi nghe tin, Cựu Thủ tướng Konoe và Cựu
Bộ trưởng Quốc pḥng Sugiyama Gen tự sát
để tránh cảnh bị tống giam. Tướng
Tojo Hidekie, một trong bảy nhân vật chính của phiên
toà, cũng tự sát, nhưng bị thương
nặng. Sau hơn hai năm luận tội, bảy
bị cáo bị kết án tử h́nh vào ngày 23 tháng 12
năm 1948 và hầu hết những người khác
bị án chung thân. Từ sau năm 1956, tất cả các
bị cáo c̣n sống đều được tha
bổng.
Toà
án Quân sự Quốc tế tại Tokyo. Do
sự thu xếp của Tướng Douglas MacArthur,
Mỹ chủ động ngụy tạo các lời khai
của nhiều bị cáo nhằm mục đích
miễn tố cho Nhật Hoàng Hirohito và các thành viên
trong Hoàng gia. Bằng h́nh thức khoan hồng này,
Mỹ không gặp sự kháng cự của dân chúng
Nhật, v́ không làm tổn thương đến thanh
danh của Nhật Hoàng, một biểu tượng
để đảm bảo thực hiện tái
thiết hậu chiến và cải cách dân chủ.
Tướng
Douglas MacArthur và Nhật Hoàng Hirohito. Hiến Pháp mới năm 1946 thành h́nh và quy
định cấu trúc mới cho Nhật. Nhật Hoàng
không c̣n lănh đạo mà là biểu tượng cho
truyền thống dân tộc. Quan trọng nhất là quy
định của Điều 9 Hiến Pháp, Nhật không
có quân đội mà chỉ có Lực lượng Dân
sự Pḥng vệ. Thời kỳ SCAP chiếm kết thúc
vào tháng Tư năm 1952 với Hoà Ước San
Francisco do Nhật và 48 nước cùng kư kết. Liên Xô Ngay sau khi tuyên chiến, Hồng Quân tấn công
Măn Châu và đưa quân tới Bắc Hàn cũng như
Đảo Kurilen và Sachalin, cả hai đă bị sát
nhập vào lănh thổ của Liên Xô, trong khi bốn
đảo cực nam của Kurilen không thuộc quần
đảo được Sa Hoàng nhượng lại
cho Nhật vào năm 1875. Việc này có nghĩa là Liên
Xô sát nhập lănh thổ do Nhật chiếm đóng,
sau khi trục xuất các cư dân. Gần đây, tranh
chấp lănh thổ gây cho bang giao của Nhật và Nga
thêm phức tạp, và triển vọng cho một
giải pháp theo luật quốc tế là khó khả thi. Hàn Quốc Sau khi Nhật bại trận, Hoa Kỳ và Liên Xô
quyết định chia Hàn Quốc thành hai khu hành chính
dọc theo vĩ tuyến 38. Liên Xô chiếm Bắc Hàn
và thành lập Ủy ban Nhân dân Lâm thời do Kim Il Sung
lănh đạo vào tháng 2 năm 1946. Quân đội Hoa
Kỳ chiếm Nam Hàn và xây dựng một chính phủ
quân sự và tự quản. Mối quan hệ ngày càng căng thẳng
giữa Liên Xô và Hoa Kỳ làm cho các cuộc đàm phán
về một chính phủ lâm thời cho Hàn Quốc
thất bại. Cơ quan Liên Hiệp Quốc do Mỹ
khống chế đă tổ chức cuộc bầu
cử tự do vào năm 1948; tuy nhiên, chỉ diễn ra
ở miền Nam. Kết quả là Cộng ḥa Nam Hàn
được thành lập và Syngman Rhee chấp chính là
tổng thống. Sau đó, miền Bắc thành lập
Cộng ḥa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên do Kim Il Sung lănh
đạo và các lực lượng ngoại nhập
chiếm đóng lần lượt rút quân. Quân đội Mỹ vắng mặt, tạo cơ
hội cho quân đội Bắc Hàn vượt biên
giới mà Moscow và Bắc Kinh đă chấp thuận. Ngày
25 tháng 6 năm 1950, Tướng Bành Đức Hoài
chỉ huy 270.000 quân Trung Quốc giúp Bắc Hàn tiến
chiếm miền Nam. Ba ngày sau, Bắc Hàn và Trung
Quốc chiếm đóng Seoul. Tháng 9 năm 1950, Quân
đội Liên Hiệp Quốc bắt đầu
phản công dưới sự lănh đạo của
Mỹ; Tướng Douglas MacArthur được Tổng
thống Truman chỉ định đem quân đánh
Bắc Hàn. Trong vài tuần sau, Mỹ đẩy quân
Bắc Hàn đến biên giới của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Trung Quốc hỗ trợ cho Bắc Hàn
chống lại đối thủ; cả hai bên chịu
tổn thất nặng nề và diễn biến
chiến trường dừng lại ở vĩ
tuyến 38. Kết qủa sau hai năm đàm phán là hai phe
đă thoả thuận ngừng bắn vào ngày 27 tháng 7
năm 1953 và vĩ tuyến 38 là lằn ranh quân sư
tạm thời cho Bắc và Nam Hàn đ́nh chiến.
Việc ngừng bắn đă duy tŕ nguyên trạng chia
cắt cho đến ngày nay. Dù chiến tranh chấm
dứt, nhưng hai phe chưa bao giờ đạt
được một chung quyết cho một ḥa ước
vĩnh cửu. Gần đây, do sự chủ động
của Tổng Thống Donald Trump, các cuộc họp bàn
về giải giới vũ khí nguyên tử cho Bắc Hàn
tại Singapore và Hà Nội không mang lại kết
quả. Do đó, an ninh chung cho khu vực vẫn c̣n là
đề tài gây tranh cải cho Mỹ, Trung Quốc,
Đài Loan Nhật và Bắc và Nam Hàn. Trung Hoa Tại Trung Hoa, ngày 9 tháng 9 quân Nhật đầu
hàng với Tướng Tưởng Giới Thạch. Trước
đó, ngày 14 tháng 8, Liên Xô đă kư với Tưởng
Giới Thạch một Thoả ước Liên minh và
Hữu nghị, nội dung là công nhận các quyền
do Đồng Minh đề ra trong hội nghị Yalta có
liên hệ đến Măn Châu, một căn cứ
Hải quan tại Cảng Arthur (Vũ Hán) bên cạnh các
đặc quyền trên bản đảo Liêu Đông,
quyền độc lập của Ngoại Mông qua chính
phủ Trung Hoa Quốc Gia. Về mặt nội chính,
thoả ước này tăng cường vị thế
cho Quốc Dân Đảng trong việc đấu tranh
quyền lực với Đảng Cộng Sản mà Mao
Trạch Đông cảm thấy như một sự
đối đầu. Trong những năm trước đó, Mao đă
khởi động một cuộc chiến tranh du kích
gian nan để chống Nhật. Tháng 8 năm 1945, quân
đội của Mao tham gia các cuộc tấn công
của Liên Xô tại Hoa Bắc. Với sức ép
của Liên Xô và trung gian của Mỹ, cuối tháng 8,
Mao đến Trùng Khánh, thủ đô tạm thời
của phe Quốc Dân Đảng, để thương
thuyết với Tưởng Giới Thạch. Ngày 10 tháng 10, cả hai đă kư một
Bảng Tuyên bố chung sẳn sàng hợp tác cho hoà b́nh.
Cuối cùng, Bảng Tuyên bố chỉ c̣n là một
mảnh giấy lộn khi không có cảm thông giữa
hai phe đối nghịch. Do phía Mỹ bắt buộc,
ngày 25 tháng 6 năm 1946, một thoả ước khác
tiếp theo được kư kết, nhưng mục tiêu
là cho việc tăng cường và điều động
quân đội. Tháng 4, cuộc chiến ác liệt
giữa hai phe Quốc-Cộng bộc phát. Tháng 2 năm
1947, cuộc nội chiến khởi đầu công khai
và kết thúc hai năm sau với chiến thắng
của phe Cộng Sản. Cuối cùng, Mao Trạch Đông tuyên bố thành
lập nhà nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa ngày 1
tháng 10 năm 1949 và phe Quốc Dân Đảng của Tưởng
Giới Thạch từ Hoa Lục tháo chạy sang Đài
Loan. Indonesia Sau khi Nhật đầu hàng, hầu hết người
dân châu Á muốn ngăn chận việc tái lập t́nh
trạng thống trị thuộc địa của các
cường quốc châu Âu. Tại Java, một phần
do Ấn và Hà Lan cai trị, dưới áp lực
của phong trào thanh niên quốc gia Permuda, Achmed Sukarno và
Mohamed Hatta, hai nhà lănh đạo phong trào giành độc
lập thành lập nước Cộng hoà Indonesia vào ngày
17 tháng 8 năm 1945. Ngoài đảo Java, các lực lượng
của Sukarno và Hatta c̣n kiểm soát Sumatra và Madura.
Họ vui mừng trước tin chiến thắng, nhưng
thực ra là không trọn vẹn, v́ bị một
phần trong quân đội Anh-Ấn phản đối,
trong khi những người lính Nhật thả cho tù nhân
ra theo mục đích này. Tháng 10 năm 1946, lực lượng Hà Lan thay
cho quân Anh. Các nỗ lực của cường quốc
thuộc địa tạo niềm cảm thông chỉ
trong ngắn hạn. Sau nhiều cuộc hành quân đẩm
máu của cảnh sát từ năm 1947 đến năm
1949, dưới áp lực của công luận quốc
tế và nhất là của Mỹ, chính phủ Den Haag
phải khuất phục và đến tháng 12 năm 1949
Indonesie được trao trả độc lập. Miến Điện Cũng như Hà Lan và Pháp, Anh cũng phải
đương đầu với các lực lượng
đấu tranh giành độc lập tại Miến
Điện. Cho dù cương quyết từ bỏ
mọi h́nh thức thống trị thời thuộc
địa, nhưng chính sách đế quốc Nhật
tạo ra nhiều các ảnh hưởng của vấn
đề. Nhật chiếm đóng Miến Điện vào
tháng 5 năm 1942 và thành lập một chính phủ
của Myanmar do Bamo đứng đầu. Với sự
hỗ trợ của Nhật, Tướng Aung San, người
chống lại chính quyền thực dân Anh, tuyên
bố Myanmar độc lập khỏi Anh. Năm 1944,
Aung San trở thành người ủng hộ Hoa Kỳ và
Anh. Sau khi Nhật đầu hàng, Đồng Minh tuyên
bố độc lập của Myanmar có hiệu
lực. Sau chiến tranh, Myanmar vẫn nằm dưới
sự kiểm soát của Anh. Vào ngày 4 tháng 1 năm
1948, Quốc hội Anh chính thức công nhận nền
độc lập của Myanmar và Myanmar thành lập Liên
bang Miến Điện. Malaysia Khi người Nhật chiếm Malaysia, dân chúng
phản ứng dữ dội. Sau chiến tranh, Anh
thiết lập Liên bang Malaysia vào năm 1946. Kế
hoạch này cũng bị phản đối v́ biểu
tượng Quốc Vương bị lu mờ và
số lượng lớn người Trung Quốc và
Ấn Độ mới nhập cư được hưởng
quyền công dân. Trước những xung đột
sắc tộc, người Malaysia lo lắng cho bất
ổn xă hội trong tương lai. Có hai yếu tố quan trọng tác động
cho Malaysia là cuộc nội chiến giữa Trung
Quốc Cộng sản và Quốc Dân đảng càng
lan rộng và mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Anh và Malaysia xấu đi. Vào thời điểm này, chính quyền
thực dân Anh tuyên bố, Đảng Cộng sản
Malaysia là một tổ chức bất hợp pháp. Do dó,
cuộc chiến tranh du kích của Đảng Cộng
sản bộc phát. Trong khi dân chúng hy vọng người Anh sẽ
rời khỏi Mă Lai; ngược lại, chính quyền
Anh tuyên bố t́nh trạng khẩn cấp, trong khi Quân
đội Liên bang chống du kích Cộng sản
cực kỳ mănh liệt kéo dài từ năm 1948 đến
1960. Điểm đặc biệt nhất là Hoa Kỳ,
thực dân Anh đă chuyển người Trung Quốc
cũ nằm rải rác ở vùng ngoại ô đến
những nơi được chỉ định
với các biện pháp kiểm soát an ninh nghiêm ngặt,
tạo thành một ngôi làng mới. Những mô h́nh khu
tập trung dân chúng trong ấp chiến lược và
truy lùng diệt cộng h́nh thành và thành công. Khác
với Việt Nam, Đảng Cộng sản bị tiêu
diệt và không c̣n hoạt động. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1957, Malaysia chính thức
tách khỏi nền độc lập của Anh. Malaysia
là một quốc gia đa sắc tộc, ban đầu
dự kiến được thành lập vào ngày 31 tháng
8 năm 1963. Tuy nhiên, sau phản đối của
Tổng thống Indonesia Sukarno và Đảng Thống
nhất Nhân dân Sarawak làm tŕ hoăn việc thành lập.
Cuối cùng, Malaysia được chính thức thành
lập vào ngày 16 tháng 9 năm 1963. Philippines Hoa Kỳ thấy dễ dàng hơn trong việc
đối phó với các hoàn cảnh thay đổi, cho
dù cũng có một t́nh trạng bán thuộc địa
như Commenwealth. Năm 1902, Quốc hội Hoa Kỳ thông
qua Đạo Luật Tổ chức Philippines để
thành lập Nghị viện Philippines mà các thành viên
sẽ được dân chúng bầu ra. Đạo
luật Tự trị Philippines năm 1916 thay thế và
quy định là chính phủ Hoa Kỳ cam kết trao
trả độc lập cho Philippines. Đạo luật Độc lập Philippines năm
1934 thiết lập Commenwealth (Khối Thịnh vượng
chung), một h́nh thức độc lập hạn
chế và thiết lập một tiến tŕnh trao
trả độc lập cho Philippines. Vào năm 1935,
Mỹ hứa cho Philippines được độc
lập vào năm 1945. Tháng 6 năm 1946, Mỹ bảo
đảm hằng loạt các đặc quyền
về chính sách thương mại và quân sự. Đệ
nhị Thế chiến Thế làm tŕ hoăn kế
hoạch. Khác hẳn với Việt Nam, cuối cùng,
Philippines cũng giành được độc lập mà
không tốn một viên đạn hay một giọt máu. Việt Nam Đệ nhị Thế chiến kết thúc làm
cho Pháp không c̣n cơ sở để tiếp tục
cai trị Việt Nam. nhưng không khôn ngoan để
nhận thức kịp thời và quyết định
ra đi đúng lúc. Khi Pháp nhận ra trong muộn màng,
th́ việc từ bỏ phải chịu đẩm máu
và cực kỳ tốn kém. Đó là trường
hợp bi thương cho lịch sử đấu tranh
của Việt Nam.
^ Ngày 19/8/1945, các lực lượng Việt MInh đánh chiếm Bắc Bộ Phủ. Nhật chiếm đóng Việt Nam và lập ra
chế độ Hoàng đế Bảo Đại
từ tháng 3 năm 1945. Bảo Đại tuyên bố là
chính phủ Việt Nam có chủ quyền ở ba
kỳ, độc lập theo tuyên ngôn Đại đông
Á của Nhật Bản, băi bỏ các hiệp ước
bảo hộ với Pháp và cùng hợp tác quốc
tế. Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại
chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim.
Ngày 17 tháng 4 năm 1945 Thủ tướng Trần
Trọng Kim nhậm chức và ngày 12 tháng 5, Bảo
Đại tuyên bố giải thể Viện Dân
biểu Trung Kỳ. Về mặt pháp lư, đây là một sự
kiện quan trọng để công nhận Việt Nam là
một quốc gia độc lập có chủ quyền
ra đời mà Hoàng Đế Bảo Đại và
Thủ tướng Trần Trọng Kim lănh đạo
đầu tiên. Sau ngày Mỹ ném bom tại Nhật, t́nh h́nh
cực kỳ xáo trộn cho Việt Nam, chính quyền
trung ương không c̣n hoạt động và các cơ
quan hành chính và an ninh địa phương đă tan ră,
phần lớn các viên chức đă bỏ trốn
trong khi một số bị ám sát. Khi Nhật tuyên
bố đầu hàng và quân Nhật án binh bất động
gây cho Việt Nam không chính quyền và lực lượng
chiếm đóng. Nhằm phát huy tinh thần đoàn kết
của giới công chức trong trào lưu đấu
tranh mới, ngày 17 tháng 8 Tổng bộ Công chức
Bắc Hà có tổ chức cuộc mít tinh trước
Nhà Hát Lớn để ủng hộ chính phủ trong
việc thu hồi chủ quyền. Cuộc biểu t́nh
đă chuẩn bị từ lâu, nhưng khi Việt Minh
đột nhiên phá hoại chương tŕnh của
buổi lễ, ảnh hưởng tác hại vô cùng
nghiêm trọng. Ngay lúc bắt đầu buổi lễ, một
toán Việt Minh đă xông lên cướp khán đài.
Không gặp một chống cự nào, họ treo cờ
Việt Minh tại Nhà Hát Lớn và các trụ sở chính
quyền. Sau hai ngày náo loạn, lực lượng
Việt Minh với khoảng 800 người và 90
khẩu súng chiếm dần các cơ quan chính quyền
trước sự thụ động của 1.500 vệ
binh Nam Triều có vũ khí đầy đủ. Ngày 19
tháng 8 Việt Minh làm chủ t́nh h́nh sau khi đă cướp
được chính quyền và chiếm các cơ quan. Đảng Cộng sản nhận ra thời cơ
nên triệu tập Hội nghị Tân trào ở Tuyên
Quang từ ngày 13 tháng 8 để chuẩn bị cướp
chính quyền. Sau khi được tin Nhật đầu
hàng, họ họp tiếp trong hai ngày 16 và 17 tháng 8
để lập một chính phủ lâm thời. T́nh h́nh
biến đổi dồn dập gây nhiều bất
ngờ làm cho Bảo Đại thoái vị và triều
Nguyễn chấm dứt trị v́ vào ngày 23 tháng 8. Ngày
2 tháng 9 Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Diễn biến của lịch sử cho
thấy sự thật là Việt Minh cướp chính
quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim,
đó là một xáo trộn thuộc nội chính, v́ không
có một trận chiến nào của Việt MInh
với Pháp và Nhật trong giai đoạn này. Khi
Việt Nam đă thành h́nh, th́ Hồ Chí Minh không có căn
bản pháp lư để một lần nửa khai sinh
cho đất nước và tuyên bố giành độc
lập. Tại miền Bắc, lực lượng Trung
Hoa Quốc Dân Dảng chiếm thay cho Nhật, miền
Nam do lực lượng Anh và Ấn chiếm đóng.
Tháng 9 có xảy ra trận đụng độ đầu
tiên giữa lực lượng Việt Minh với quân
Pháp, họ đă giải phóng người Anh khỏi
sự giam cầm của Nhật. Tháng 10, Tướng
Leclerc, người giải phóng cho Paris, mang 35000 quân Pháp
vào miền Nam. Nhiều nỗ lực hoà giải
của Hồ Chí Minh với Pháp thất bại. Một
năm sau, cuộc chiến Đông Dương lần
thứ nhất bắt đầu. TS.Đỗ Kim Thêm |