Why a U.S. - Chinese War Could Spiral Out of Control?

Tại sao chiến tranh Mỹ-TC có thể leo thang ngoài tầm kiểm soát?

By Caitlin Talmadge

Foreign Affairs

November, December 2018 Isssue

 

 

http://www.nuiansongtra.com/photos/photos/3/12893.jpg

 

Điểm chớp cháy: một mũi khoan quân sự ở Hoa Liên, tháng 1-2018.

(Flash point: a military drill in Hualien, Jan. 2018).

Ảnh: Tyrone Siu/ Reuters

 

Một cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn ít có khả năng xảy ra, nhưng triển vọng đối đầu quân sự - ví dụ như xuất phát từ một chiến dịch quân sự của Trung Quốc nhằm vào Đài Loan – không c̣n là không thể như trước kia. Và xác suất một cuộc đối đầu như vậy leo thang thành hạt nhân đă cao hơn những ǵ mà hầu hết các nhà phân tích và hoạch định chính sách vẫn h́nh dung.

 

Những năm gần đây, sức mạnh của Trung Quốc tăng lên bao nhiêu th́ nguy cơ chiến tranh với Mỹ cũng tăng lên bấy nhiêu. Dưới thời Chủ tịch Tập Cận B́nh, Trung Quốc đă tăng cường áp lực chính trị và kinh tế đối với Đài Loan và xây dựng cơ sở quân sự trên các rạn san hô ở Biển Đông, làm gia tăng lo sợ của Washington về việc chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc sẽ đe dọa các đồng minh của Mỹ và ảnh hưởng đến khu vực. Các tàu khu trục của Mỹ đă đi qua Eo biển Đài Loan, trước sự phản đối lớn tiếng từ phía Bắc Kinh. Các nhà lập pháp Mỹ đă lên tiếng đặt câu hỏi về việc liệu họ có nên cử thêm một chiếc tàu sân bay đi qua eo biển này nữa hay không. Các máy bay tiêm kích phản lực của Trung Quốc đă chặn máy bay Mỹ trên không phận phía trên Biển Đông. Trong khi đó Tổng thống Mỹ Donald Trump đă đẩy các tranh chấp kinh tế âm ỉ lâu nay lên mức sôi sục.

 

Một cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn ít có khả năng xảy ra, nhưng triển vọng đối đầu quân sự - ví dụ như xuất phát từ một chiến dịch quân sự của Trung Quốc nhằm vào Đài Loan – không c̣n là không thể như trước kia. Và xác suất một cuộc đối đầu như vậy leo thang thành hạt nhân đă cao hơn những ǵ mà hầu hết các nhà phân tích và hoạch định chính sách vẫn h́nh dung.

 

Các thành viên cộng đồng nghiên cứu chiến lược của Trung Quốc có xu hướng phủ nhận những quan ngại như trên. Tương tự, những nghiên cứu của Mỹ về một cuộc chiến tiềm tàng với Trung Quốc thường loại bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân khỏi kết quả phân tích, coi vấn đề này là không liên quan đến chiều hướng của một cuộc xung đột. Khi được hỏi về vấn đề này vào năm 2015, Dennis Blair, cựu tư lệnh lực lượng Mỹ tại Ấn Độ Dương-Thái B́nh Dương, phán đoán khả năng xảy ra khủng hoảng hạt nhân Mỹ-Trung là “zero”.

 

Sự bảo đảm này thật sai lầm. Nếu được triển khai chống lại Trung Quốc, phong cách chiến tranh thông thường được ưa thích của Lầu Năm Góc sẽ là một công thức tiềm năng cho leo thang hạt nhân. Từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cách tiếp cận đặc trưng của Mỹ về chiến tranh vẫn luôn đơn giản: thọc sâu vào lănh thổ của đối phương để nhanh chóng đập tan các cơ sở quân sự then chốt của kẻ thù bằng tổn thất tối thiểu. Nhưng Lầu Năm Góc phát triển công thức này trong những cuộc chiến nhằm vào Afghanistan, Iraq, Libya, và Serbia, không nước nào trong số này có vũ khí hạt nhân.

 

Trung Quốc, ngược lại, không chỉ có vũ khí hạt nhân, nước này c̣n đưa những vũ khí này vào các lực lượng quân sự thông thường của ḿnh, khiến rất khó có thể tấn công cái này mà tránh được cái kia. Điều đó có nghĩa là một chiến dịch quân sự lớn của Mỹ nhằm vào các lực lượng truyền thống của Trung Quốc nhiều khả năng cũng sẽ đe dọa kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Khi đối mặt với một mối đe dọa như vậy, các nhà lănh đạo Trung Quốc có thể quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân khi c̣n có thể.

 

Khi các nhà lănh đạo Mỹ và Trung Quốc t́m cách xoay xở với một mối quan hệ chồng chất sự ngờ vực lẫn nhau, họ phải nh́n thẳng vào thực tế rằng một cuộc chiến tranh thông thường có thể trượt sâu thành một cuộc đối đầu hạt nhân. Mặc dù nguy cơ này không phải là cao xét ở góc độ tuyệt đối, nhưng hậu quả của nó đối với khu vực và thế giới sẽ là khủng khiếp. Chừng nào Mỹ và Trung Quốc c̣n tiếp tục theo đuổi những chiến lược lớn như hiện nay của ḿnh, th́ nguy cơ này vẫn tiếp tục hiện hữu. Điều đó có nghĩa là lănh đạo của cả hai bên cần phải từ bỏ ảo tưởng rằng họ có thể dễ dàng phát động một cuộc chiến tranh hạn chế. Thay vào đó, họ nên tập trung vào việc kiểm soát hoặc giải quyết những căng thẳng chính trị, kinh tế và quân sự có thể dẫn đến xung đột ngay từ đầu.

 

Một loại đe dọa kiểu mới

 

Có một số lư do để lạc quan. Thứ nhất, lâu nay Trung Quốc vẫn kiên định với học thuyết hạt nhân không tấn công. Sau vụ thử hạt nhân đầu tiên của ḿnh vào năm 1962, Trung Quốc cơ bản tránh chạy đua vũ trang, chỉ phát triển một kho vũ khí hạt nhân nhỏ và đơn giản hơn rất nhiều so với tiềm lực của nước này cho phép. Các nhà lănh đạo Trung Quốc luôn kiên định cho rằng vũ khí hạt nhân chỉ có ích trong việc ngăn ngừa đe dọa và tấn công hạt nhân. Ở góc độ lịch sử, mục đích hạn hẹp như vậy chỉ cần một vài vũ khí hạt nhân là đủ bảo đảm khả năng đáp trả của Trung Quốc trong trường hợp bị tấn công. Đến tận ngày nay, Trung Quốc vẫn duy tŕ cam kết “không sử dụng trước”, hứa hẹn rằng nước này sẽ không bao giờ sử dụng vũ khí hạt nhân trước.

 

Triển vọng một cuộc xung đột hạt nhân cũng có thể tưởng chừng như chỉ là tàn tích của Chiến tranh Lạnh. Hồi đó, Mỹ và các đồng minh sống trong nỗi lo sợ rằng một cuộc tấn công của khối Hiệp ước Vacsava sẽ nhanh chóng ngập tràn châu Âu. NATO luôn sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân trước để ngăn chặn một cuộc tấn công như vậy. Cả Washington lẫn Moskva đều thường trực lo lắng rằng lực lượng hạt nhân của ḿnh sẽ bị quét sạch trong một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ từ phía đối phương. Mối lo sợ chung này làm gia tăng nguy cơ một siêu cường có thể vội vàng phóng vũ khí v́ niềm tin sai lầm rằng ḿnh đang bị tấn công. Ban đầu, mối nguy hiểm của những cuộc tấn công không được phê chuẩn cũng luôn hiện hữu. Trong những năm 1950, các quy tŕnh an toàn lỏng lẻo đối với vũ khí hạt nhân của Mỹ trên lănh thổ NATO, cũng như mức độ giám sát ở mức tối thiểu của dân sự đối với các tư lệnh quân sự Mỹ, đă đặt ra những nguy cơ nghiêm trọng về việc leo thang hạt nhân có thể xảy ra mà không có mệnh lệnh rơ ràng từ Tổng thống Mỹ.

 

Tin tốt là những lo lắng thời Chiến tranh Lạnh không liên quan nhiều đến mối quan hệ hiện tại giữa Mỹ và Trung Quốc. Không nước nào có thể nhanh chóng tràn vào lănh thổ của nhau trong một cuộc chiến tranh thông thường. Cả hai đều không có vẻ ǵ lo ngại về một cú sét hạt nhân từ trên trời rơi xuống. Và sự kiểm soát chính trị dân sự đối với vũ khí hạt nhân ở cả hai nước đều tương đối mạnh. Điều c̣n lại, về lư thuyết, là lôgích dễ chịu về sự ngăn ngừa lẫn nhau: trong một cuộc chiến giữa hai cường quốc hạt nhân, cả hai bên đều sẽ không phát động đ̣n tấn công hạt nhân v́ sợ đối phương sẽ đáp trả tương xứng.

 

Tin xấu là vẫn c̣n một yếu tố nữa tồn tại: Một cuộc chiến thông thường đe dọa kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Các lực lượng thông thường có thể đe dọa lực lượng hạt nhân theo những cách tạo ra áp lực khiến xung đột leo thang – nhất là khi các lực lượng thông thường tinh nhuệ hơn của Mỹ đối mặt với những kho vũ khí hạt nhân mong manh và tương đối nhỏ, như của Trung Quốc. Nếu các chiến dịch của Mỹ đe dọa hoặc gây tổn hại đến lực lượng hạt nhân của Trung Quốc, các nhà lănh đạo Trung Quốc có thể sẽ nghĩ rằng Washington c̣n có những ư đồ khác ngoài mục tiêu giành thắng lợi trong cuộc chiến thông thường – rằng nước này có khi đang t́m cách vô hiệu hóa hoặc phá hủy thẳng thừng kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, có lẽ để mở đầu cho việc thay đổi chế độ. Giữa màn sương chiến tranh, Bắc Kinh có thể miễn cưỡng kết luận rằng một sự leo thang hạt nhân hạn chế - một đ̣n tấn công phủ đầu đủ nhỏ để tránh sự đáp trả tổng lực từ phía Mỹ - là lựa chọn khả thi để tự vệ.

 

Điểm nóng đáng lo ngại nhất cho một cuộc chiến Mỹ-Trung là Đài Loan. Mục tiêu lâu dài của Bắc Kinh về việc thống nhất ḥn đảo này với Trung Hoa Đại lục rơ ràng là mâu thuẫn với tham vọng lâu nay của Washington về việc duy tŕ nguyên trạng ở eo biển. Không khó h́nh dung việc mâu thuẫn này có thể dẫn tới chiến tranh. Ví dụ, Trung Quốc có thể quyết định rằng cánh cửa mở ra cơ hội về quân sự hoặc chính trị để giành lại quyền kiểm soát ḥn đảo này đang đóng lại và phát động một cuộc tấn công, sử dụng lực lượng không quân và hải quân để phong tỏa các cảng của Đài Loan hoặc ném bom ḥn đảo này. Mặc dù luật của Mỹ không đ̣i hỏi Washington phải can thiệp trong một kịch bản như vậy, nhưng Đạo luật Quan hệ với Đài Loan quy định rằng Mỹ sẽ “xem bất kỳ nỗ lực nào nhằm quyết định tương lai của Đài Loan mà không phải bằng những biện pháp ḥa b́nh, bao gồm việc tẩy chay hoặc cấm vận, là một sự đe dọa tới ḥa b́nh và an ninh của khu vực Tây Thái B́nh Dương và là mối quan ngại nghiêm trọng đối với Mỹ.” Trong trường hợp Mỹ can thiệp nhân danh Đài Loan, siêu cường duy nhất của thế giới và đối thủ cạnh tranh đang lên sẽ bị cuốn vào cuộc chiến nước lớn đầu tiên của thế kỷ 21.

 

Trong quá tŕnh diễn ra một cuộc chiến như vậy, các hoạt động quân sự thông thường của Mỹ nhiều khả năng sẽ đe dọa, vô hiệu hóa, hoặc phá hủy hoàn toàn một số năng lực hạt nhân của Trung Quốc – bất kể làm như vậy có phải là mục tiêu công khai của Mỹ hay không. Trong thực tế, nếu Mỹ tiến hành cách thức chiến tranh mà nước này đă thực hiện hơn 30 năm qua th́ kết cục nêu trên là gần như chắc chắn.

 

Hăy xem xét trường hợp tác chiến tàu ngầm. Trung Quốc có thể sử dụng các tàu ngầm tấn công trang bị vũ khí thông thường của ḿnh để phong tỏa cảng Đài Loan hoặc ném bom ḥn đảo, hoặc để tấn công các lực lượng của Mỹ và đồng minh trong khu vực. Nếu điều đó xảy ra, hải quân Mỹ sẽ gần như chắc chắn tiến hành một chiến dịch chống tàu ngầm, qua đó nhiều khả năng sẽ đe dọa đến 4 tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo của hải quân Trung Quốc. Các tàu ngầm vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân của Trung Quốc cùng chia sẻ một hệ thống liên lạc trên bờ; một cuộc tấn công của Mỹ vào các cơ sở truyền dẫn này do vậy sẽ không chỉ làm gián đoạn hoạt động của lực lượng tàu ngầm tấn công Trung Quốc mà c̣n chia cắt các tàu ngầm hạt nhân này khỏi sự liên lạc với Bắc Kinh, khiến cho các nhà lănh đạo Trung Quốc không chắc chắn về số phận lực lượng hạt nhân hải quân của ḿnh. Bên cạnh đó, các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân lệ thuộc vào sự bảo vệ của các tàu ngầm tấn công, cũng giống như chiếc máy bay ném bom cồng kềnh phụ thuộc vào những chiếc máy bay tiêm kích. Nếu Mỹ đánh ch́m những tàu ngầm tấn công của Trung Quốc, th́ cũng đồng nghĩa với việc đánh ch́m chính lực lượng bảo vệ các tàu ngầm tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, khiến cho lực lượng này trở nên dễ bị tổn thương.

 

Thậm chí nguy hiểm hơn thế, các lực lượng Mỹ săn lùng các tàu ngầm tấn công của Trung Quốc cũng có thể vô t́nh đánh ch́m một tàu ngầm vũ khí hạt nhân do nhầm lẫn. Xét cho cùng, ít nhất th́ cũng có một vài tàu ngầm tấn công của Trung Quốc có thể đang hộ tống tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân, đặc biệt là trong thời chiến, khi Trung Quốc có thể tung hết các tàu ngầm hạt nhân này ra khỏi cảng và cố đưa chúng đến sát tầm vươn tới lục địa Mỹ. V́ từ trước đến nay việc xác định chính xác mục tiêu vẫn luôn là một trong những thách thức khó khăn nhất của tác chiến tàu ngầm, một tàu ngầm Mỹ có thể rơi đúng vào tầm bắn của một chiếc tàu ngầm Trung Quốc mà không chắc nó là loại nào, nhất là trong một môi trường đông đúc, ồn ào như Eo biển Đài Loan. Những lời nói sáo rỗng về việc phải thận trọng lúc b́nh thường th́ rất dễ. Trong thời chiến, khi các tàu ngầm tấn công Trung Quốc có thể đă tung ra đ̣n tấn công chết người, thủy thủ đoàn phía Mỹ có thể sẽ quyết định bắn trước và hỏi sau.

 

Ngoài yếu tố về cảm giác dễ bị tổn thương từ phía Trung Quốc, quy mô nhỏ của lực lượng tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân của nước này cũng đồng nghĩa rằng chỉ cần hai vụ việc như trên cũng đủ hủy diệt một nửa năng lực răn đe từ biển của nước này. Trong khi đó, bất kỳ chiếc tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân nào của Trung Quốc thoát khỏi số phận trên th́ nhiều khả năng cũng bị cô lập khỏi đường dây liên lạc với các chỉ huy trên bờ, trong t́nh trạng không có lực lượng hộ tống, và không thể quay trở về các căn cứ đă bị phá hủy. Nếu điều đó xảy ra, Trung Quốc về cơ bản là không c̣n năng lực răn đe hạt nhân hải quân.

 

T́nh trạng trên bờ cũng tương tự, nơi mà bất kỳ chiến dịch quân sự nào của Mỹ cũng sẽ đụng tới vào lực lượng tên lửa đạn đạo thông thường trên bộ ngày càng lớn của Trung Quốc. Phần lớn lực lượng này đặt trong tầm bắn đến Đài Loan, sẵn sàng phóng tên lửa đạn đạo vào ḥn đảo hoặc bất kỳ đồng minh nào đến ứng cứu. Một lần nữa, thắng lợi của quân Mỹ lại phụ thuộc vào việc khuất phục được lực lượng tên lửa đạn đạo thông thường này. Và một lần nữa, sẽ gần như là không thể nào làm như vậy mà không động chạm ǵ đến lực lượng tên lửa đạn đạo hạt nhân của Trung Quốc. Các tên lửa đạn đạo hạt nhân và thông thường của Trung Quốc cũng thường gắn chung căn cứ chỉ huy, nghĩa là nhiều khả năng chúng sẽ chia sẻ các hệ thống cung cấp và vận chuyển, tuyến tuần tra, và cơ sở hạ tầng hỗ trợ khác. Cũng có khả năng là chúng chia sẻ một số mạng lưới chỉ huy và kiểm soát, hoặc là Mỹ sẽ không thể phân biệt được giữa các mạng lưới hạt nhân và thông thường ngay cả khi chúng tách biệt nhau về mặt thực thể.

 

Đă thế một số tên lửa đạn đạo của Trung Quốc c̣n có thể mang cả đầu đạn thông thường hoặc hạt nhân, và cả hai phiên bản này đều hầu như không thể phân biệt nổi đối với hệ thống do thám trên không của Mỹ. Trong một cuộc chiến, việc nhắm mục tiêu vào các phiên bản thông thường cũng có khả năng đồng nghĩa với việc phá hủy một số loại hạt nhân trong quá tŕnh đó. Ngoài ra, đưa máy bay có người lái vào tấn công các băi phóng tên lửa và căn cứ của Trung Quốc sẽ đ̣i hỏi ít nhất là sự kiểm soát một phần không phận của Trung Quốc, điều đó cũng sẽ lại đ̣i hỏi phải làm suy yếu hệ thống pḥng không của nước này. Nhưng làm suy yếu mạng lưới pḥng không bờ biển của Trung Quốc nhằm phát động một cuộc chiến tranh thông thường cũng sẽ lại khiến cho phần lớn lực lượng hạt nhân của Trung Quốc không c̣n được bảo vệ.

 

Một khi Trung Quốc bị tấn công, các nhà lănh đạo nước này có thể sẽ lo sợ rằng ngay cả những tên lửa đạn đạo liên lục địa được triển khai ở sâu trong lục địa cũng dễ bị tổn thương. Trong nhiều năm, giới quan sát đă coi các nỗ lực quân sự thất bại của Mỹ nhằm xác định và phá hủy những tên lửa Scud của Iraq trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1990-1991 như bằng chứng cho thấy các tên lửa di động là hầu như miễn nhiễm trước nguy cơ bị tấn công. Do đó, theo lối tư duy này, Trung Quốc vẫn có thể duy tŕ một năng lực răn đe hạt nhân bất kể thiệt hại do Mỹ gây ra đối với các khu vực bờ biển của Trung Quốc. Nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải như vậy. Các tên lửa đạn đạo liên lục địa của Trung Quốc lớn và kém cơ động hơn tên lửa Scud của Iraq trước đây, và chúng rất khó để di chuyển mà không bị phát hiện. Nhiều khả năng Mỹ cũng đă theo dơi chúng sát sao hơn rất nhiều trong thời b́nh. Và hệ quả là Trung Quốc ít có khả năng sẽ xem việc săn lùng thất bại đối với tên lửa Scud ở Iraq gần 30 năm trước như sự bảo đảm rằng kho vũ khí hạt nhân c̣n lại của nước này bây giờ cũng sẽ an toàn, đặc biệt là trong một cuộc chiến tranh thông thường cường độ cao đang diễn ra.

 

Sự chỉ trích gay gắt của Trung Quốc đối với các hệ thống pḥng thủ tên lửa khu vực của Mỹ được thiết kế để ngăn chặn một cuộc tấn công tiềm tàng của Triều Tiên cũng đă phản ánh những lo sợ thâm căn cố đế này. Lo lắng của Bắc Kinh nằm ở chỗ hệ thống này có thể giúp Washington chặn được khá nhiều tên lửa Trung Quốc có thể phóng nếu Mỹ tấn công kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Loại chiến dịch quân sự như vậy có vẻ như khả thi hơn rất nhiều trong mắt Bắc Kinh nếu một cuộc chiến thông thường đă bắt đầu phá hủy nghiêm trọng những bộ phận khác trong lực lượng răn đe hạt nhân của Trung Quốc. Khó khăn thêm nữa là nhận thức theo thời gian thực của Trung Quốc về t́nh trạng các lực lượng của ḿnh có thể sẽ bị hạn chế, v́ làm “mù mắt” đối phương là một phần tiêu chuẩn trong điều lệnh tác chiến của quân đội Mỹ.

 

Nói một cách đơn giản, chiến lược ưa thích của Mỹ nhằm bảo đảm một chiến thắng thông thường trong quá tŕnh thực hiện nhiều khả năng sẽ gây đe dọa đến phần lớn kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, cả trên bộ và trên biển. Việc liệu Mỹ có thực sự có ư đồ nhắm vào tất cả vũ khí hạt nhân của Trung Quốc hay không sẽ chỉ là thứ yếu. Điều quan trọng là ở chỗ các nhà lănh đạo Trung Quốc sẽ cho rằng họ đang bị đe dọa.

 

Những bài học từ quá khứ

 

Đến lúc này, câu hỏi sẽ là Trung Quốc sẽ phản ứng như thế nào? Liệu nước này sẽ kiềm chế và kiên định cam kết “không sử dụng trước” ngay cả khi các lực lượng hạt nhân của họ có vẻ như đang bị tấn công hay không? Hoặc liệu nước này có dùng đến các vũ khí hạt nhân trên khi c̣n có thể, đánh cược rằng một sự leo thang hạn chế sẽ chặn đứng chiến dịch của Mỹ, nếu không th́ cũng đe dọa để Washington phải xuống thang?

 

Các văn bản và tuyên bố của Trung Quốc vẫn mập mờ một cách có chủ ư ở điểm này. Vẫn không rơ chính xác là những năng lực nào được Trung Quốc coi là một phần trong lực lượng răn đe hạt nhân cốt lơi của ḿnh và cái nào được xem là ít quan trọng hơn. Ví dụ, nếu Trung Quốc vốn đă công nhận rằng lực lượng răn đe hạt nhân đặt trên biển của nước này là tương đối nhỏ và yếu, th́ việc mất một vài tàu ngầm tên lửa đạn đạo trong một cuộc chiến có thể sẽ không dẫn đến sự thay đổi bất thường cực đoan nào trong tính toán của Trung Quốc.

 

Điều nguy hiểm nằm ở chỗ những động thái thời chiến có thể làm thay đổi quan điểm của Trung Quốc về ư đồ của Mỹ. Nếu Bắc Kinh xem việc các lực lượng hạt nhân trên biển và trên bộ của ḿnh dần bị xóa sổ là một ư đồ có tính toán nhằm phá hủy năng lực răn đe hạt nhân của Trung Quốc, hoặc thậm chí như khúc mở đầu cho một đ̣n tấn công hạt nhân, th́ Trung Quốc có thể sẽ xem việc leo thang hạt nhân có giới hạn như một cách để buộc xung đột phải chấm dứt. Ví dụ, Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí hạt nhân để nhất thời phá hủy những căn cứ không quân Mỹ đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Trung Quốc cũng có thể sẽ tung ra đ̣n tấn công hạt nhân mà không cần mục đích quân sự trực tiếp – vào một khu vực không có người ở hoặc trên biển – như một cách phát đi tín hiệu rằng Mỹ đă vượt quá lằn ranh đỏ.

 

Mặc dù kịch bản leo thang như vậy nh́n th́ có vẻ xa vời, nhưng lịch sử của Trung Quốc th́ lại cho điều khác. Năm 1969, t́nh thế tương tự đă đưa Trung Quốc đến bờ vực chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Đầu tháng 3 năm đó, binh lính Trung Quốc phục kích lính biên pḥng Liên Xô giữa lúc căng thẳng gia tăng xung quanh một khu vực biên giới tranh chấp. Chưa đầy 2 tuần sau, hai nước đă ở trong một cuộc chiến tranh biên giới không tuyên bố với pháo hạng nặng và máy bay. Cuộc xung đột nhanh chóng leo thang vượt ra khỏi những ǵ lănh đạo Trung Quốc đă tưởng tượng và Moskva đă đưa ra những đe dọa hạt nhân để gây áp lực buộc Trung Quốc phải xuống thang.

 

Ban đầu các nhà lănh đạo Trung Quốc bỏ qua những lời cảnh báo này, để rồi lại đẩy mức đánh giá đe dọa của ḿnh lên một cách cực đoan sau khi họ biết được rằng Liên Xô đă bàn bạc riêng về các kế hoạch tấn công hạt nhân với các nước khác. Moskva không bao giờ có ư định theo đuổi đến cùng trong các đe dọa hạt nhân của ḿnh, những tài liệu lưu trữ sau này đều cho thấy như vậy, nhưng các nhà lănh đạo Trung Quốc lại cho là khác. Trong ba trường hợp riêng biệt, họ bị thuyết phục rằng một cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô đang sắp xảy ra. Một lần, khi Moskva cử đại diện đến đàm phán tại Bắc Kinh, Trung Quốc nghi ngờ rằng chiếc máy bay đang chở phái đoàn thực ra lại đang mang vũ khí hạt nhân. Ngày càng lo lắng, Trung Quốc cho bắn thử một vũ khí nhiệt hạch ở sa mạc Lop Nur và đưa lực lượng hạt nhân sơ khai của ḿnh vào t́nh trạng báo động – bản thân đó cũng đă là một bước đi nguy hiểm, v́ làm gia tăng nguy cơ phóng nhầm hoặc không được phê chuẩn. Chỉ sau rất nhiều lần chuẩn bị cho những cuộc tấn công hạt nhân vốn không bao giờ xảy ra của Liên Xô, cuối cùng Bắc Kinh mới chịu đàm phán.

 

Ngày nay Trung Quốc là một quốc gia đă khác với thời Mao Trạch Đông, nhưng cuộc xung đột năm 1969 vẫn để lại những bài học quan trọng. Trung Quốc đă bắt đầu một cuộc chiến mà trong đó nước này cho rằng vũ khí hạt nhân không có liên quan ǵ, mặc dù kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô khi đó có quy mô lớn gấp nhiều lần của Trung Quốc, cũng giống như kho vũ khí hạt nhân của Mỹ vượt trội so với Trung Quốc bây giờ. Ngay khi cuộc chiến tranh thông thường không diễn ra như dự kiến, Trung Quốc đă đảo ngược đánh giá của ḿnh về khả năng xảy ra tấn công hạt nhân lên mức độ gần như hoang tưởng. Đáng lo ngại nhất, Trung Quốc phát đi tín hiệu rằng nước này đang thực sự cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân, mặc dù nước này dự kiến được những đ̣n đáp trả khủng khiếp. Các thông tin mơ hồ thời chiến và lối tư duy theo kiểu t́nh huống xấu nhất dẫn đến những nguy cơ hạt nhân mà mới chỉ vài tháng trước đó c̣n tưởng chừng như không thể nào h́nh dung nổi. Khuôn mẫu đó hoàn toàn có thể lặp lại ngày nay.

 

Cứ để họ mặc sức đoán

 

Cả Mỹ và Trung Quốc đều có thể tiến hành một số biện pháp cơ bản nhằm giảm bớt những mối nguy hiểm này. Đối thoại và trao đổi cởi mở hơn – chính thức và không chính thức, cấp cao và cấp sự vụ, quân sự và chính trị - có thể giúp xây dựng các mối quan hệ cho phép giảm căng thẳng bằng các kênh sau trong một cuộc xung đột. Hai nước đă có một đường dây nóng quân sự chính thức được triển khai, mặc dù nó không kết nối các nhà lănh đạo chính trị. Một cơ sở hạ tầng chuyên biệt và đă được thử nghiệm dành cho các nhà lănh đạo quân sự và chính trị cấp cao có thể tin tưởng và dễ dàng giao tiếp trong thời chiến ít nhất cũng sẽ mang lại một yếu tố ḱm hăm leo thang khi xảy ra khủng hoảng.

 

Nhưng liên lạc tốt hơn th́ cũng chỉ giải quyết được đến vậy đối với một vấn đề có căn nguyên từ học thuyết quân sự và chiến lược lớn. Trong bối cảnh điều lệnh tác chiến tiêu chuẩn của Mỹ nhiều khả năng sẽ dồn Trung Quốc vào chân tường về khía cạnh hạt nhân, điều lôgích là Washington cân nhắc các chiến lược thay thế để làm sao không động chạm đến các năng lực hạt nhân của Trung Quốc. Ví dụ, một số nhà phân tích đă đề xuất gây sức ép với Trung Quốc thông qua phong tỏa hải quân từ xa, và những người khác lại gợi ư giới hạn bất kỳ chiến dịch hải quân và không quân nào của Mỹ nằm ngoài phạm vi bờ biển của Trung Quốc. Mục tiêu trong cả hai trường hợp đều nhằm tránh các cuộc tấn công vào lục địa, nơi tập trung phần lớn lực lượng hạt nhân của Trung Quốc.

 

Vấn đề đối với các chiến lược thay thế này là lục địa cũng là nơi tập trung phần lớn các năng lực chiến tranh thông thường của Trung Quốc. Khó có chuyện Mỹ sẽ tự nguyện để yên cho các năng lực này, xuất phát từ ưu tiên của Mỹ là giảm tổn thất của bản thân và tiêu diệt lực lượng đối phương một cách nhanh chóng. Nếu Trung Quốc sử dụng các căn cứ ở lục địa của ḿnh để phóng tên lửa đạn đạo vào binh sĩ Mỹ và đồng minh, thật khó có thể h́nh dung một tổng thống Mỹ lại đi ra lệnh cho quân đội kiềm chế nhằm tránh leo thang. Các đồng minh của Mỹ càng đặc biệt không bao giờ chấp nhận một cách tiếp cận thận trọng như vậy, v́ họ sẽ c̣n hứng chịu sức mạnh quân sự của Trung Quốc chừng nào sức mạnh này c̣n chưa bị động đến. Không ai muốn một cuộc chiến tranh Mỹ-Trung đi đến mức hạt nhân, nhưng một chiến dịch quân sự của Mỹ để cho lực lượng thông thường của Trung Quốc biến Đài Loan – chứ chưa nói đến Nhật Bản hoặc Hàn Quốc – thành một đống đổ nát khói lửa chỉ để tránh leo thang th́ khó có thể xem là một chiến thắng.

 

Tất nhiên, Bắc Kinh cũng có thể có những bước đi nhằm giảm bớt căng thẳng của vấn đề, nhưng điều này rất khó xảy ra. Trung Quốc đă lựa chọn lắp cả đầu đạn hạt nhân và thông thường lên cùng một loại tên lửa và đưa cả các lữ đoàn vũ khí thông thường và hạt nhân vào cùng một căn cứ. Nhiều khả năng Trung Quốc nh́n thấy lợi ích chiến lược nhất định trong sự gắn bó mật thiết này. Chính là v́ những sự đan cài rắc rối này làm gia tăng khả năng leo thang hạt nhân, Trung Quốc có thể sẽ tin rằng chúng sẽ góp phần củng cố khả năng răn đe – và sẽ khiến cho Mỹ ngần ngại phát động chiến tranh ngay từ đầu.

 

Nhưng cũng như Trung Quốc hưởng lợi nếu Mỹ tin rằng sẽ không có cách an toàn nào để phát động chiến tranh, th́ Mỹ cũng hưởng lợi nếu Trung Quốc tin rằng chiến tranh sẽ mang lại kết cục Trung Quốc không chỉ thất bại trong chiến tranh thông thường mà c̣n trong chiến tranh hạt nhân. Trên thực tế, Mỹ có thể tin rằng nỗi lo sợ này sẽ cho Mỹ lợi thế lớn hơn trong một cuộc xung đột và có lẽ sẽ ngăn chặn được Trung Quốc khởi đầu trước.

 

Nói ngắn gọn, có thể là không bên nào thấy có nhiều giá trị trong những bảo đảm ḥa b́nh. Thậm chí là ngược lại: có khi cả hai c̣n đang ngấm ngầm cổ vũ bất ổn. Tuy nhiên nếu quả thật là như vậy th́ các nhà lănh đạo Mỹ và Trung Quốc cần nhận thấy những mặt được và mất ẩn chứa trong các chính sách mà họ lựa chọn. Nguy cơ leo thang (hạt nhân) có thể làm chiến tranh khó xảy ra hơn, nhưng đồng thời nó cũng lại khiến chiến tranh thực sự nguy hiểm hơn rất nhiều nếu thực sự xảy ra. Thực tế này khiến cho lănh đạo cả hai bên thấy cần phải t́m kiếm những phương cách nhằm giải quyết các tranh chấp chính trị, quân sự và kinh tế mà không cần đến một cuộc chiến tranh có thể nhanh chóng leo thang thành thảm họa hủy diệt cả khu vực và thế giới.

 

Caitlin Talmadge

Trần Quang dịch.

 

Caitlin Talmadge là Phó giáo sư Nghiên cứu An ninh trường Edmund A. Walsh, Đại học Georgetown. (Theo Foreign Affairs).

 

Why a U.S.-Chinese War Could Spiral Out of Control?

By Caitlin Talmadge

Foreign Affairs

November, December 2018 Isssue

 

http://www.nuiansongtra.com/photos/photos/3/12893.jpg

 

Flash point: a military drill in Hualien, Jan. 2018.

Photo: Tyrone Siu/ Reuters

 

As China’s power has grown in recent years, so, too, has the risk of war with the United States. Under President Xi Jinping, China has increased its political and economic pressure on Taiwan and built military installations on coral reefs in the South China Sea, fueling Washington’s fears that Chinese expansionism will threaten U.S. allies and influence in the region. U.S. destroyers have transited the Taiwan Strait, to loud protests from Beijing. American policymakers have wondered aloud whether they should send an aircraft carrier through the strait as well. Chinese fighter jets have intercepted U.S. aircraft in the skies above the South China Sea. Meanwhile, U.S. President Donald Trump has brought long-simmering economic disputes to a rolling boil.

 

A war between the two countries remains unlikely, but the prospect of a military confrontation—resulting, for example, from a Chinese campaign against Taiwan—no longer seems as implausible as it once did. And the odds of such a confrontation going nuclear are higher than most policymakers and analysts think.

 

Members of China’s strategic com­munity tend to dismiss such concerns. Likewise, U.S. studies of a potential war with China often exclude nuclear weapons from the analysis entirely, treating them as basically irrelevant to the course of a conflict. Asked about the issue in 2015, Dennis Blair, the former commander of U.S. forces in the Indo-Pacific, estimated the likelihood of a U.S.-Chinese nuclear crisis as “somewhere between nil and zero.”  

Xem thêm phần Anh ngữ, click vào đây: 

http://www.nuiansongtra.com/index.php?c=article&p=9365  

 

Trở lại