Cộng ḥa Liên bang Đức: Cơ chế chính trị-kinh tế và cách vận hành xă hội của một nước Dân chủ Đa nguyên |
Con
đường nào, thể chế chính trị và kinh
tế nào biến trần thế thành thiên đàng hay
biến thế gian thành địa ngục?
Câu trả lời đă
rất rơ khi nghiêm túc đối chiếu và so sánh trong
mọi lănh vực giữa Đức và VN trong 70 năm
qua. Một bên là chế độ Dân chủ Đa nguyên
và Kinh tế Thị trường, c̣n bên kia là chế
độ độc đảng
toàn trị và Kinh tế Thị trường Định
hướng XHCN! TS.Âu Dương
Thệ Đức và VN có một số điểm tương
đồng. Về mặt dân số và diện tích tương
đối ngang ngửa với nhau, VN 331.114km² và gần
92 triệu dân, Đức 357.376km² và trên 81 triệu dân.
Cả hai nước đều là sản phẩm
của Thế chiến thứ 2 và Chiến tranh lạnh
giữa Đông và Tây, hay c̣n gọi là giữa Cộng
sản và Tự do. Cả VN và Đức đều
bị chia đôi. Nhưng hai nước lại có những khác
biệt rất căn bản về nhiều mặt.
Chế độ độc đảng toàn trị theo
chủ nghĩa Cộng sản (CS) đă dẫn VN lao vào
các cuộc chiến tranh suốt 30 năm tàn khốc và
hận thù. Nhiều triệu người Việt ở
cả hai miền đă bị hi sinh. Đất nước
tuy thống nhất trên 42 năm nhưng vẫn là
một trong những nước rất nghèo, lợi
tức đầu người năm 2016 là 1980 USD và người
dân vẫn bị tước các quyền tự do dân
chủ căn bản. Chế độ toàn trị
với Kinh tế thị trường (KTTT) Định hướng
XHCN đă tạo ra nạn tham nhũng đang trở nên
bất trị. Nhân quyền và tự do báo chí ở
mức rất tồi tệ đội sổ trên
thế giới. Mới vài ngày trước Quốc
hội (QH) sửa đổi bộ Luật h́nh sự,
bắt các luật sư phải tố cáo thân chủ
trong các tội giải thích rất cao su gọi là „tội
xâm phạm an ninh quốc gia“. Ngay trước đó
Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đ̣i hỏi
phải đưa việc này vào luật. Trong khi đó chế độ Dân chủ Đa
nguyên (DCĐN) và KTTT đă làm Tây Đức hồi
phục kinh tế-xă hội rất nhanh. Tuy bị chia
cắt suốt 45 năm nhưng không có chiến tranh
giữa Đông- và Tây Đức. Từ 1990 nước
Đức đă thống nhất không tốn một viên
đạn. Không có cảnh hàng trăm ngàn người
phải bị giam cầm trong các trại cải tạo
hết năm này tới năm khác. Từ sau khi hai
miền thống nhất, chủ trương đoàn
kết và tương trợ thay cho bạo lực và
trả thù. Suốt trên ¼ thế kỉ người dân
Tây Đức đă đóng góp hàng ngàn tỉ Euro
để tái thiết lại phía Đông. Đức
đang là quốc gia có nền kinh tế mạnh đứng
thứ ba, thứ tư trên thế giới, là đầu
tầu kinh tế của Liên minh Âu châu (EU). Lợi
tức đầu người ở Đức năm
2016 là 45.790 USD. Người đi làm đều có các
bảo hiểm y tế, lao động, hưu trí…,
nếu không th́ có thể xin trợ cấp xă hội.
Đức c̣n là nước có nền dân chủ pháp
trị và tự do báo chí rất cao. Tuy chống đảng
cực hữu mị dân mới ra đời vài năm
AfD (Alternative für Deutschland: Chọn lựa cho Đức),
nhưng khi nhà cầm quyền ở một thành phố
t́m cách cản trở cuộc biểu t́nh của đảng
này, chính bà Thủ tướng (TT) Đức TS
Merkel đă công khai chống lại và yêu cầu các cơ
quan chính quyền địa phương phải tôn
trọng quyền này. V́
quyền biểu t́nh đă được Hiến pháp
Đức công nhận là một trong những quyền
tự do căn bản của nhân dân. *** V́ chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và
mị dân nên Hitler đă biến Đức thành
một chế độ độc tài tàn bạo
nhất trong lịch sử Đức, thực hiện
tham vọng điên cuồng chinh phục Âu châu bằng
vũ lực. Từ đó gây ra Thế chiến thứ
hai. Nhưng Hitler đă thảm bại và tự vẫn,
Đức và Âu châu trở thành đống tro. Là nước chiến bại nên Đức
bị chia 4, phía Đông bị Hồng quân Liên xô
chiếm, phía Tây dưới quyền kiểm soát
của Mỹ, Pháp và Anh. Từ đồng minh chống
Hitler, Liên xô CS dưới quyền cai trị của
bạo chúa Stalin đă trở thành đối đầu
với Hoa ḱ, Anh, Pháp là các nước theo DCĐN.
Chiến tranh lạnh khởi sự và cực ḱ căng
thẳng ở Âu châu ngay sau khi Thế chiến thứ
hai chấm dứt. Khi ấy dân tộc Đức ở phía Tây
phải chọn lựa một thế chế chính
trị tương lai cho ḿnh và cả Tây Âu cũng
phải chọn lựa thái độ với nước
Đức bại trận. Tái lập chính sách của
phe thắng trận như trong Thế chiến thứ
nhất (1914-18), chiếm đóng Đức và bắt
phải bồi thường chiến tranh. Nếu
chọn giải pháp này là tiếp tục nuôi thù
hận, xô đẩy các nước Tây Âu ḱnh
chống lẫn nhau, như thế sẽ là cái mồi
để Hồng quân Liên xô xâm chiếm và nhuộm
đỏ cả châu Âu! Đứng trước kẻ thù cực ḱ nguy
hiểm, lại được Hoa ḱ hỗ trợ
-một siêu cường nguyên tử đầu tiên khi
đó, nên khi ấy các chính khách lớn và các giới
trí thức ở Pháp, Anh và Đức đă ư
thức, đây chính là thời cơ phải dựa vào
nhau để ngăn chặn hiểm họa Cộng
sản. Anh, Pháp, Đức và nhiều nước Tây
Âu đă dứt khoát tiếp tục hoặc triển
khai thiết lập thể chế DCĐN, KTTT, pháp
trị và tự do báo chí. Hoa ḱ và các nước dân
chủ Tây Âu đă cùng theo đuổi các giá trị xă
hội chung trên đây, nên kế hoạch Marshall về
kinh tế đă ra đời để tái thiết Tây
Âu và Liên minh quân sự Bắc đại Tây dương
(NATO) được thành lập để cùng nhau ngăn
chặn hiểm họa đỏ. *** Hệ thống chính trị và kinh tế của
Đức được qui định trong Hiến pháp
công bố ngày 23.5.1949 rút kinh nghiệm từ các giai
đoạn bất ổn và độc tài trước
đó. Cộng ḥa Đức ra đời là một liên
bang với nhiều tiểu bang (hiện nay là 16 TB), theo
chính thể đại nghị và DCĐN. Các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập và
b́nh đẳng với nhau. QH liên bang (Bundestag) là cơ
quan có thẩm quyền cao nhất, cứ bốn năm
bầu một lần. Thủ tướng do Quốc
hội liên bang (QHLB) bầu theo tỉ lệ quá bán trong
QH. TT chỉ định các bộ trưởng,
quyết định đường lối và hoạt
động của chính phủ. Các bộ trưởng
có quyền tự chủ trong các hoạt động
của bộ và chịu trách nhiệm trong lănh vực
của ḿnh. Chính phủ liên bang có thẩm quyền chuyên
độc trong quốc pḥng và ngoại giao. Các lănh
vực giáo dục, thuế vụ, giao thông, xă hội
… chia thẩm quyền giữa chính quyền Liên bang
(LB) và các Tiểu bang (TB). Rút kinh nghiệm đau thương
trong quá khứ nên quân đội Cộng ḥa liên bang
Đức đặt dưới quyền trực
tiếp của QHLB. Việc gởi quân đội Đức
ra tham chiến ở nước ngoài đều phải
do QHLB quyết định. Để tránh t́nh trạng
quân đội bị lợi dụng, QHLB cử ra
một đại biểu theo dơi các hoạt động
của quân đội và hàng năm tường tŕnh t́nh
h́nh quân đội trước QHLB. Tổng thống
Đức không do dân trực tiếp bầu lên, nhưng
do Thượng viện (Bundesrat) bầu 5
năm một lần, chỉ giữ vai tṛ nghi lễ
ngoại giao. Chế độ KTTT công nhận và tôn
trọng quyền tư hữu, kinh tế tư nhân là
nền tảng và tự do cạnh tranh lành mạnh theo
luật pháp được coi là động lực phát
triển của toàn xă hội. Để tránh t́nh trạng QH bị xé lẻ,
phân tán quá nhiều các chính đảng dẫn tới
t́nh trạng các chính phủ LB và TB không được
ổn định, nên trong luật bầu cử ở
Đức có điều khoản 5%, nghĩa là muốn
có đại diện vào QHLB hay Quốc hội tiểu
bang (QHTB) mỗi chính đảng phải được
ít nhất 5% tổng số phiếu trong các cuôc bầu
cử liên hệ. V́ thế các nhóm cực hữu hay
cực tả (CS) thường không có đại
diện trong các QHLB, nay chỉ vài tiểu bang nhóm
cực hữu có đại diện, nhưng hầu như
không có ảnh hưởng. Điểm đặc
biệt nữa là, trong các cuộc bầu cử QHLB và
TB mỗi cử tri có quyền sử dụng hai lá
phiếu, một phiếu bỏ cho ứng cử viên ḿnh
ủng hộ và phiếu thứ hai bỏ cho chính đảng
ḿnh tín nhiệm. Tùy theo tỉ số phiếu bầu
cho đảng, các chính đảng có thể cử thêm
đại diện vào QH, ngoài các ứng cử viên
thắng cử trực tiếp. Đây là giải pháp
dung ḥa để một cử tri có thể thích
ứng cử viên A, nhưng lại không ưa chính
đảng của ông A… Sau Thế chiến 2 trong các
QHLB và TB ở Đức chỉ có ba chính đảng
chính là Liên minh Thiên chúa giáo (CDU/CSU), đảng Dân
chủ Xă hội (SPD) và đảng Tự do (FDP).
Từ thập niên 80 đảng Xanh (die Grünen) ra đời,
nay có đại diện trong QHLB và nhiều tiểu
bang. Từ khi Đức thống nhất có thêm đảng
Tả (die Linke), đảng viên phần chính từ
cựu Đông Đức CS, có đại diện trong
QHLB và một số QHTB. Đảng SPD là chính đảng lâu đời
nhất, xuất thân từ các phong trào lao động
hai thế kỉ trước, nhưng các nhà lănh đạo
sau này đă dứt khoát từ bỏ đường
lối bạo lực và chủ trương giành chính
quyền bằng phương pháp đấu tranh dân
chủ. Khẩu hiệu nổi tiếng của SPD là không
thể dùng bạo lực để tiêu giệt giai
cấp này và h́nh thành giai cấp mới. Các TT nổi
tiếng của SPD là W. Brandt, H.Schmidt và H. Schröder. "
Từ sau Thế chiến 2 Liên minh CDU/CSU cầm
quyền lâu đời nhất ở Đức. Các
thủ tướng lâu đời là K. Adenauer, H. Kohl
và hiện nay là A. Merkel (từ 2005). Cựu đảng
trưởng và đương kim ngoại trưởng
S. Gabriel đă từng nói, đảng SPD không coi các chính
đảng khác ở Đức là kẻ thù mà chỉ
là đối thủ chính trị, nghĩa là cùng
tồn tại nhưng cạnh tranh trong chính trị. Điều đáng chú ư là, hai chính đảng
lớn nhất đối lập nhau SPD và CDU/CSU không
muốn thành lập chính quyền liên hiệp của
hai đảng lớn nhất. V́ họ ư thức
rằng, một xă hội thiếu đối lập,
nhất là đối lập có trọng lượng, không
có lợi chung cho quyền lợi đất nước.
Cho nên trong gần 70 năm chỉ có ba lần có chính
phủ liên hiệp lớn được miễn cưỡng
thành lập (1966-69), (2005-09) và hiện nay từ 2013. Trong QHLB hiện nay có 631 dân biểu, bao gồm
các chính đảng CDU/CSU (311), SPD (193), đảng
Tả (64) và đảng Xanh (63). Hiện nay các chính
đảng đang chạy đua tranh cử vào giai
đoạn cuối trước cuộc bầu cử
QHLB mới (24.9.17). Các cuộc thăm ḍ gần đây
cho thấy ngoài 4 chính đảng trên, có thể đảng
Tự do sẽ trở lại QHLB và đảng AfD cũng
có thể nhẩy vào QHLB lần đầu. Đây là
một đảng cực hữu, có khuynh hướng
chống EU và người nhập cư, mới ra đời
từ vài năm, đặc biệt từ khi bà Merkel
ban hành chính sách tiếp nhận ồ ạt người
tị nạn từ Hè 2015. Về mặt nội trị, sự hoạt
động song hành của chính phủ liên bang và các chính
phủ tiểu bang cho thấy sự tản quyền
đă được đặt ưu tiên. Ngoài ra
Hiến pháp 1949 thiết lập chế độ đại
nghị với QHLB là cơ quan có quyền lực cao
nhất, Thủ tướng lănh đạo chính phủ
do QHLB bầu ra và qui định các chính đảng
phải hội đủ 5% tống số phiểu
cử tri mới được cử đại
diện vào QH. Cách tổ chức hệ thống công
quyền như thế ở Đức cho thấy
vừa phân quyền, tản quyền và đề cao
hiệu năng. Việc này chứng tỏ các giới
chính trị, chuyên viên, trí thức và đa số nhân
dân Đức không muốn tái diễn nguy cơ chế
độ độc tài cá nhân và đảng trị
cực ḱ nguy hiểm thời Quốc xă của Hitler. Nhưng
đồng thời cũng muốn tránh t́nh trạng
đất nước chia năm xẻ bẩy thời
Cộng ḥa Weimar (1918-33). Điểm nổi bật nhất phải nói
tới là sự trưởng thành của các chính đảng
dân chủ ở Đức và các quyền công dân căn
bản không những chỉ được thừa
nhận trong Hiến pháp mà c̣n được thực
thi nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày. Trong đó
phải nói tới các quyền tự do dân chủ căn
bản của các công dân, quyền tự do thành
lập các tổ chức dân sự, các tổ chức
nghề nghiệp và tự do báo chí. Ngay trong Điều
1 Hiến pháp 23.5.1949 đă qui định „Phẩm
giá của con người không được xâm
phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là trách
nhiệm của tất cả các cơ quan công
quyền“. Mọi công dân và đoàn thể
đều có quyền viết thư yêu cầu Ṭa án
Hiến pháp tối cao liên bang (Bundesverfassungsgericht)
phản đối và kiện các quyết định
của chính phủ và QHLB, nếu họ cảm thấy
nó vi phạm tới các quyền căn bản ghi trong
Hiến pháp. Ngay cả nhóm cực hữu hậu thân
của Quốc xă (NPD) cũng đă hành xử quyền
này. Cho tới nay Ṭa án Hiến pháp tối cao liên bang
đă ra nhiều bản án nổi tiếng, chứng
tỏ sự công minh và độc lập trong vai tṛ
bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công
dân ngăn cản các quyết định sai lầm
hoặc bất công của các cơ quan công quyền. Quyền tự do báo chí của Cộng ḥa liên
bang Đức cũng trở thành biểu tượng
tốt và đă được chứng minh nhiều
lần không chỉ đối với các nhân vật
quan trọng trong chính quyền, các cơ quan công
quyền mà cả với chính một số nhà báo.
Nổi tiếng nhất là vụ „Die Spiegel-Affäre“ vào
cuối 1962. Der Spiegel là tuần báo rất có uy tín và có
số độc giả đông. V́ một bài tường
thuật về chính sách quân sự của NATO khi ấy
đă bị bộ trưởng Quốc pḥng và đảng
trưởng CSU F.J. Strauß buộc tội là
„phản quốc“. Một số kí giả và cả
Tổng biên tập Rudolf Augstein đă bị bắt giam.
Quyết định của Strauß đă tạo ra
nhiều phản ứng cực mạnh trong nhân dân
lẫn chính giới. Báo chí cấp tiến, nhiều chính
đảng trong QH và nhiều nhân vật có uy tín đă
yêu cầu phải trả tự do cho các nhà báo bị
bắt và đ̣i truy tố Strauß. Áp lực của dư
luận đă dẫn tới khủng hoảng chính
phủ. Cuối cùng TT Adenauer đă cách chức Strauß
khỏi bộ trưởng Quốc pḥng và sau đó ṭa
án đă trả tự do cho các nhà báo và Tổng biên
tập der Spiegel. Chuyện thứ hai liên quan tới báo
chí bị lợi dụng. Đầu 1983 tuần báo
Stern đă cho phổ biến loạt bài gọi là
„Hitler-Tagebücher“ (Nhật kí Hilter) , nhờ đó
số phát hành đă gia tăng vọt, từ 400.000 lên
2,2 triệu và giá bán mỗi tập Stern từ 0,50 DM
vọt lên 3,5 DM. Nhưng ngay sau đó các cơ quan điều
tra đă chứng minh đây là tài liệu giả
mạo. Họa sĩ K. Kujau, người giả mạo
chữ viết của Hitler, và nhà báo Heidemann của
Stern đă bị xử nhiều năm tù. Ban biên
tập tuần báo Stern đă phải từ
chức và tờ báo bị mất uy tín. Một thí dụ khác về quyền lực không
minh bạch sẽ bị dư luận kết án nghiêm
khắc trong xă hội DCĐN ở Đức bất
kể nhân vật nào: TT Kohl vừa từ trần và
sẽ được EU tổ chức tang lễ chung vào
1.7. Ông đă đóng góp nhiều cho sự lớn
mạnh của EU và được coi là người
cha tạo dựng nước Đức thống
nhất. Nhưng chính vào những năm cuối của
thập niên 90 TT Kohl đă bị dư luận Đức
kết án và ngay đảng CDU của ông cũng phê b́nh,
v́ những liên hệ của ông trong vụ nhận
khoản tài chánh lớn (khoảng trên 2 triệu Đức
mă) giúp CDU nhưng không công khai minh bạch.
Nói tới sự thống nhất Đức ḱ
diệu trong ḥa b́nh những năm 1989-90 không thể không
nói tới chính sách „Ostpolitik“ (Hướng Đông)
của cố TT W. Brandt từ đầu thập niên 70.
Khi ấy Tây Đức là một cường quốc
kinh tế trong EU và đồng minh quan trọng của
Hoa ḱ trong việc ngăn chặn sự xâm lược
của Liên xô. Nhưng Brandt đă nhận ra, nếu
tiếp tục chủ trương thù địch
với Mạc tư khoa th́ t́nh h́nh an ninh của Tây
Đức và Âu châu tiếp tục căng thẳng và
ḥa b́nh bị đe dọa. V́ thế chính phủ
của ông đă chủ trương dựa vào Mĩ
để điều đ́nh và mở cửa với Liên
xô về các mặt ngoại giao, kinh tế và an ninh.
Nhiều hiệp ước quan trọng đă được
Tây Đức kí kết với Mạc tư khoa, Đông
Đức và Ba lan, công nhận biên giới của Âu
châu sau Thế chiến 2. Hiệp ước An ninh và
Hợp tác Âu châu được 35 nước Âu
châu cùng với Mĩ và Gia nă đại kí 1975 tại
Helsinki (Thủ đô Phần lan) là kết quả
đưa tới ḥa h́nh và hợp tác kinh tế
giữa hai bên Đông Tây. Nó mở cửa để chính
phủ Đức của TT H.Kohl thương lượng
với Chủ tịch nước và Tổng bí thư
Gorbatschow của Liên xô trong các năm cuối thập niên
80. Kết quả là Đức thống nhất trong
tự do, các nước Đông Âu chuyển sang DCĐN
và chế độ toàn trị Liên xô chấm dứt.
Lúc đầu Liên minh CDU/CSU đă kịch liệt
chống lại chủ trương Ostpolitik của
Brandt, nhưng sau này chính cố TT Kohl cũng đă nh́n
nhận sự đóng góp của SPD đứng đầu
là Brandt khi đó, đă giữ phần quan trong cho
tiến tŕnh thống nhất Đức và ḥa b́nh
giữa Đông và Tây Âu. Điều này cho thấy,
chế độ DCĐN đă giúp Đức thay đổi
chính quyền trong trật tự và từ đó dẫn
tới những thay đổi trong chính sách đối
nội và đối ngoại hợp lí hơn. Trái
với lập luận rất sai lầm của những
người cầm đầu chế độ toàn
trị CSVN cho rằng, đa đảng chỉ dẫn
tới rối loạn! Nói tới sự thành công của Đức xuyên
qua chế độ DCĐN và KTTT không thể không nói
tới sự tiến lên của EU trên 60 năm vừa
qua. Như phần mở đầu đă khái lược,
nhờ sự thông minh và tầm nh́n xa nên nhiều nhà
lănh đạo Tây Âu, đặc biệt là giữa Pháp
và Đức, đă cùng với Hoa ḱ biết chuyển
thù thành bạn. Các nước DCĐN chính ở Âu châu
đă từng bước thấp đến cao, nhỏ
đến lớn khởi đầu từ 6 nước
nay lên tới 27 nước với nửa tỉ người;
từ liên kết chỉ trong vài lănh vực thương
mại, rồi từng bước mở rộng
hợp tác trong kinh tế, tài chính, tiền tệ,
ngoại giao và quốc pḥng. Sau các cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chánh, Brexit và bất đồng
về chính sách tiếp nhận người tị
nạn Phi châu, trong Hội nghị Thượng đỉnh
mới nhất của EU vào giữa tháng 6 vừa qua cho
thấy đă có những chuyển biến tích cực
sau những thất bại của các đảng
cực hữu trong các cuộc bầu cử ở Pháp và
Ḥa lan. Tổng thống mới của Pháp E. Macron và
Thủ tướng Đức Merkel, hai đầu
tầu của EU, đă đưa ra những đề
nghị cải tổ quan trọng về kinh tế, tài
chánh và quốc pḥng để đối phó với căng
thẳng ở Âu châu và thế giới do một số
những chính quyền độc tài cực hữu gây
ra như Putin (Nga), Erdogan (Thổ nhĩ ḱ) và chủ trương
rất cực đoan và thiển cận của tân
Tổng thống Trump. *** Khi so sánh cuộc sống của nhân dân ở
Đức và VN về mức sống vật chất, an
sinh xă hội và các quyền tự do căn bản
của con người th́ ai cũng thấy sự khác
biệt như ngày với đêm, trắng với đen.
Sau 70 năm xây dựng xă hội DCĐN và KTTT, tuy chưa
phải là tuyệt hảo, nhưng đại đa
số nhân dân Đức có đời sống vật
chất và phúc lợi rất cao, nhân phẩm và các
quyền tự do dân chủ được tôn trọng
và bảo vệ. Các cuộc thay đổi chính
quyền từ chính đảng này sang chính đảng
khác diễn ra rất trật tự và ổn định
qua các cuộc bầu cử dân chủ và tự do cho
mọi thành phần trong xă hội Đức. Những
thay đổi chính sách về kinh tế, xă hội,
ngoại giao và quốc pḥng cũng diễn ra ở
những mức độ và giai đoạn khác nhau, nhưng
đều có tác dụng đưa nhân dân Đức
hạnh phúc hơn, các quyền tự do căn bản
được tôn trọng hơn, ư thức trách
nhiệm cao trong khu vực và quốc tế. Nhờ
vậy từ một đống tro tàn, hận thù và
chia cắt sau Thế chiến 2, nay Cộng ḥa liên bang
Đức đă thống nhất đất nước
trong ḥa b́nh, trở thành một cường quốc
kinh tế, khoa học tiến bộ và là một
cột trụ trong EU, được cộng đồng
quốc tế nể trọng. Trong khi đó tại VN cũng trong khoảng
thời gian này, nhưng dưới chế độ
độc đảng toàn trị đă tôn thờ
bạo lực và gây hận thù giữa các thành
phần dân tộc, xô đẩy đất nước
hết cuộc chiến tranh tàn bạo này sang cuộc
chiến tranh tàn khốc khác. Tuy đất nước
đă thống nhất trên 42 năm, nhưng các người
khác chính kiến vẫn bị đàn áp tàn bạo,
khinh thường nhân dân; thực hành các chính sách kinh
tế cực ḱ sai lầm với cái đuôi XHCN. Chính
chế độ độc đảng toàn trị
đang đẩy VN rơi vào kinh tế tụt
hậu, khoa học lạc hậu, bọn quan đỏ
tham nhũng tiền bạc và quyền lực đang
trở thành các trọc phú. Trong khi ấy đa số
nhân dân vẫn phải sống trong nghèo nàn, nhân
phẩm bị vùi dập và bị tước đoạt
các quyền tự do dân chủ căn bản! Con đường nào, thể chế chính
trị và kinh tế nào biến trần thế thành thiên
đàng hay biến thế gian thành địa ngục?
Câu trả lời
đă rất rơ khi nghiêm túc đối chiếu và so sánh
trong mọi lănh vực giữa Đức và VN trong 70 năm
qua. Một bên là chế độ Dân chủ Đa nguyên
và Kinh tế Thị trường, c̣n bên kia là chế
độ độc đảng toàn trị và Kinh
tế Thị trường Định hướng XHCN! |