Gió
Đă Xoay Chiều: Chính Sách Ngoại Giao Mới
Của Đức TS. Đỗ Kim Thêm |
Bối
cảnh Kết
qủa của cuộc bầu cử vào ngày 26/9/2011 là
ba đảng Dân chủ Xă hội (SPD), Xanh (Grüne) và Dân
chủ Tự do (FDP) chiếm được đa
số tại Quốc hội. Nói
chung, đảng Xanh quan tâm đến việc bảo
vệ môi trường, đảng FDP phát huy tự do
cho nền kinh tế thị trường trong khi đảng
SPD ưu tiên bảo vệ công b́nh xă hội,
quyền lợi công nhân và tôn trọng nhân quyền. Ngày
21/10, 22 nhóm chuyên gia của ba đảng bắt đầu
các cuộc họp chuyên đề và đúc kết các
dị biệt trong một văn bản chung quyết để
thỏa thuận việc cầm quyền được
gọi là Koalitionsvertrag (Hợp đồng Liên Minh),
được mệnh danh là "Mehr Fortschritt wagen“ (Dám
tạo ra nhiều tiến bộ). Kết quả này
được tŕnh bày trước công luận và báo
chí vào ngày 26/11. Nội
dung của Hợp đồng Liên Minh là đem
lại "một sự đổi mới toàn diện
cho đất nước" trong "một sự
khởi hành mới". Văn bản đưa ra
một số "xác định sơ bộ" để
giải quyết các vấn đề như biến
đổi khí hậu, số hóa, đảm bảo
thịnh vượng và gắn kết xă hội. Với
177 trang, ba đảng đề cập đến 9 chuyên
đề. Các vấn đề “Đối ngoại,
An ninh, Quốc pḥng, Phát triển, Nhân quyền“
chỉ là một phần trong chuyên đề VII: “Trách
nhiệm của Đức đối với châu Âu và
thế giới.“ Tóm
lược Nh́n
chung, chính sách ngoại giao của Đức dựa trên
sự liên tục và nằm trong khuôn khổ
của cơ quan Liên Âu. Với tư cách là thành viên
quan trọng nhất, Đức có khả năng hành
động với nhiều chủ quyền hơn. Sự
cạnh tranh hệ thống với các nước
độc tài và đoàn kết chiến lược
với các đối tác dân chủ cũng được
đề cập. Trong
bối cảnh này, chính sách đối ngoại của
Đức "hành động từ một
nguồn duy nhất", bao gồm cả việc đệ
tŕnh một chiến lược an ninh quốc gia liên ngành,
đó là một mô h́nh chiến lược mới. Tuy
nhiên, việc thành lập một Hội đồng An
ninh Quốc gia như đảng FDP đă dự
kiến trong chương tŕnh vận động
tranh cử, không được đề ra trong kế
hoạch. Trong
các vấn đề liên minh xuyên Đại Tây Dương,
Hoa Kỳ sẽ là "trụ cột trung tâm" và
"NATO cũng là một phần không thể thiếu
của nền an ninh Đức." Vấn
đề có thể tiên đoán là việc can thiệp
tại Afghanistan sẽ được giải quyết
tại Quốc hội. Việc mua các máy bay không người
lái có vũ trang để bảo vệ quân đội
mà SPD luôn chống lại trong chính phủ liên minh
CDU-SPD, nay cũng đă được quyết định.
Đảng FDP đă có ư đồng thuận và đảng
Xanh không loại trừ việc trang bị vũ khí. Việc
đóng góp tài chánh quốc pḥng trong khối NATO như
thỏa thuận, theo định mức hai phần trăm
trong tổng sản phẩm quốc nội, không
được Đức đề cập trực
tiếp, nhưng dự kiến đóng ba phần trăm
cho "đầu tư trong hành động quốc
tế" và do đó cũng được hiểu là
hoàn thành "nghĩa vụ tham gia NATO". Đó là
một phạm vi chắc chắn sẽ c̣n gây tranh
cải khi thảo luận cho việc chuẩn chi kinh phí trong
tương lai. Vấn
đề mà đảng SPD có những phản ứng
mạnh mẽ trước đây là có nên tham gia
về vũ khí hạt nhân không, đă được
giải quyết: Đức sẽ mua sắm một
loại máy bay chiến đấu sau đời Tornado, và
Đức sẽ tiếp tục tham gia "khi nào mà
loại vũ khí hạt nhân c̣n đóng một vai tṛ
trong khái niệm chiến lược của NATO”. Trong
văn bản không đề cập đến
việc Nga cung cấp năng lượng cho Đức
qua ống dẫn dầu trên biển Đông, Baltic Nord
Stream 2, một chuyên đề bị đảng Xanh bác
bỏ triệt để và đảng FDP c̣n hoài nghi,
trong khi được đảng SPD ủng hộ hơn. Đối
với Nga. Đức có nhiều chỉ trích và mong
muốn hợp tác qua một cuộc đối
thoại mang tính xây dựng "về các vấn đề
của tương lai" và "trong việc vượt
qua các thách thức toàn cầu". Vấn
đề kêu gọi Nga cần phải "chấm
dứt ngay lập tức các nỗ lực gây mất
ổn định chống lại Ukraine, bạo lực
ở miền đông Ukraine và sáp nhập Crimea bất
hợp pháp" không được văn bản đề
cập. Việc tŕ hoăn này có nghĩa là để dành
cho công việc cụ thể của chính phủ, mà nó
có thể sẽ gây ra các cuộc xung đột. Bang
giao Đức- Trung Quốc (trích
dịch từ nguyên tác Đức ngữ trong
Koalitionsvertrag trang 157-158) Đức
muốn và phải định h́nh mối quan hệ
với Trung Quốc trong những tầm vóc đối tác,
cạnh tranh và mang tính đối thủ qua hệ
thống. Trên
cơ sở Luật Nhân quyền và Luật pháp
Quốc tế hiện hành, Đức t́m kiếm
sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào
có thể. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng tăng
với Trung Quốc, Đức muốn có các quy tắc
công bằng. Để
có thể thực hiện các giá trị và lợi ích
của ḿnh trong cuộc cạnh tranh mang tính hệ
thống với Trung Quốc, Đức cần có
một chiến lược toàn diện về Trung
Quốc trong khuôn khổ chính sách chung Liên Âu-Trung
Quốc. Đức muốn tiếp tục các cuộc
tham vấn liên chính phủ và làm cho châu Âu mạnh hơn. Đức
cố gắng phối hợp chặt chẽ trong khuôn
khổ Xuyên Đại Tây Dương về một chính
sách đốî với Trung Quốc và t́m kiếm
sự hợp tác với các nước cùng quan điểm
để giảm bớt sự phụ thuộc
chiến lược. Kỳ
vọng của Đức về chính sách đối
ngoại của Trung Quốc là Trung Quốc sẽ đóng
một vai tṛ có trách nhiệm đối với ḥa b́nh
và ổn định với các lân bang. Đức
cam kết rằng các tranh chấp lănh thổ ở
Biển Đông và Hoa Đông nên được
giải quyết trên cơ sở Luật Biển
quốc tế. Sự thay đổi hiện trạng
ở eo biển Đài Loan chỉ có thể diễn ra
theo một cách ḥa b́nh và tương thuận. Trong
khuôn khổ chính sách một Trung Quốc của Liên Âu,
Đức ủng hộ sự tham gia trong các chuyên
đề có liên quan Đài Loan dân chủ trong các
tổ chức quốc tế. Đức
đặt vấn đề rơ ràng về các vi phạm
nhân quyền của Trung Quốc, đặc biệt là
ở Tân Cương. Giá trị của nguyên tắc
“một quốc gia - hai hệ thống” ở Hồng
Kông phải được tái khẳng định. Bang
giao Đức-Ấn Độ-Thái B́nh Dương Dựa
trên các chiến lược Ấn Độ-Thái B́nh Dương
của Đức và Liên Âu, Đức ủng hộ
một khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương
tự do và cởi mở dựa trên các chuẩn
mực toàn cầu và Luật Quốc tế. Đức
muốn đạt được tiến bộ trong
sự hợp tác, đặc biệt trong các lĩnh
vực tăng cường chủ thuyết đa phương,
tinh thần trọng pháp và dân chủ, bảo vệ khí
hậu, thương mại và số hóa. Đức
muốn cùng thúc đẩy đối thoại sâu
rộng về ḥa b́nh và an ninh ở khu vực Ấn
Độ-Thái B́nh Dương. Đức muốn thúc
đẩy quan hệ đối tác EU-ASEAN. Đức
muốn nâng cấp cho Hội nghị Doanh nghiệp
Đức-Châu Á-Thái B́nh Dương về mặt chính
trị. Đức
muốn mở rộng các mối quan hệ, bao gồm
cả ở cấp quốc hội, với các đối
tác có giá trị quan trọng như Úc, Nhật Bản,
New Zealand và Hàn Quốc. Đức
muốn bắt đầu có các cuộc tham vấn thường
xuyên cấp chính phủ với Nhật Bản. Đức
đặc biệt quan tâm đến việc làm sâu
sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược
với Ấn Độ bằng cách thực hiện chương
tŕnh nghị sự cho quan hệ đối tác Ấn-Đức
và quan hệ đối tác kết nối Liên Âu-Ấn
Độ. Đức
hỗ trợ cho những người đang và sẽ
bị ảnh hưởng bởi mực nước
biển dâng cao. Đức
muốn tích cực thúc đẩy phát triển cơ
sở hạ tầng theo tiêu chuẩn quốc tế có
chất lượng cao. Sáng kiến Cổng toàn cầu
của Liên Âu là một công cụ quan trọng trong
vấn đề này,(hết trích dịch). Bang
giao Đức-Việt Bang
giao Đức-Việt không được đề
cập trong lập trường của chính phủ
mới, điều đó không có nghĩa là không quan
trọng. Thực tế ngược lại, có nhiều
chủ đề liên quan gián tiếp đến
Việt Nam. Theo
các tài liệu mới, Việt Nam đă trở thành
đối tác thương mại lớn nhất
của Đức tại Đông Nam Á, kim ngạch thương
mại hai nước đă tăng gấp đôi lên
mức trên 10 tỷ USD, thương mại song phương
tính đến tháng 8/2021 đạt hơn 7,2 tỷ USD,
tăng 11,3 % so với cùng kỳ năm 2020. Có
hơn 350 doanh nghiệp Đức đang đầu tư
tại Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam cũng
đă đầu tư tại Đức 30 dự án
với tổng số vốn 120 triệu USD. Trong
30 năm qua, Đức đă cung cấp trên 2 tỷ USD
cho Việt Nam trong các chương tŕnh viện trợ
phát triển kinh tế. Hiện
nay, Đức xác định Việt Nam là Đối tác
trong Chiến lược hợp tác phát triển
2030 để Việt Nam phát triển bền vững, trước
mắt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trí
tuệ nhân tạo, công nghiệp 4.0. Thành
quả này là c̣n trong thời của bà Merkel. Chính
phủ tương lai của Đức cũng sẽ
tiếp tục khai thác và sẽ tạo ra một xung
lực mới cho việc mở rộng hợp tác trong
nhiều mặt giữa hai nước. Việt
Nam có tận dụng ưu thế này không, c̣n
phải cần thời gian theo dơi. Nhu cầu trước
mắt là sau vụ Trịnh Xuân Thanh, Việt Nam nên
thể hiện tinh thần trọng pháp và lễ độ
ngoại giao trong thời đại văn minh. Đức
phê phán công khai và cứng rắn đường
lối bành trướng của Bắc Kinh, đặc
biệt là tranh chấp tại biển Đông và
biển Hoa Đông. Đức
báo động là bắt đầu quan tâm chặt
chẻ hơn đến các vấn đề vi phạm
nhân quyền tại Tân Cương, tương lai dân
chủ cho Hồng Kông và bảo vệ cho lănh
thổ của Đài Loan. Chủ trương này
được hiểu là giờ đây gió đă xoay
chiều và thời kỳ trọng thương trong
kỷ nguyên Merkel đă kết thúc. Giải
thích sự thay đổi đường lối này
một cách gián tiếp cũng có nghĩa là Đức
sẽ ủng hộ cho Việt Nam theo đuổi
một giải pháp hiếu hoà. Việt Nam có đủ
can đảm để tận dụng các ưu thế
này hay tiếp tục kiên tŕ trong im lặng với Trung
Quốc, đó là vấn đề ư thức phản
tỉnh về nội lực của Việt Nam. Trong
chiều hướng mới này, Đức cũng
sẽ quan tâm đến các vấn đề tôn
trọng nhân quyền, phát huy dân chủ và vẹn toàn
lănh thổ cho Việt Nam, có nghĩa là, các
phong trào xă hội dân sự trong và ngoài nước có
một cơ hội mới để hợp tác với
Đức. Các phương tiện truyền thông Đức
sẽ bắt đầu mở rộng hơn so với
thời của bà Merkel. Gần đây, bà Merkel đă thú
nhận là ngây thơ và dè dặt với Trung Quốc,
nhưng không nói rơ lư do tại sao bà lại nhẹ tay
cho Việt Nam trong vụ Trịnh Xuân Thanh. Vấn
đề c̣n lại cho người Việt c̣n quan tâm
đến công cuộc đấu tranh cho tương lai
của Việt Nam là có tận dụng được
lợi thế mới này tại Đức để
mở rộng ngoại vận hay không, triển vọng
này c̣n tùy vào việc phát huy năng lực nội
tại và sự hồi phục của t́nh h́nh chung sau
thảm hoạ COVID-19. Triển
vọng Chính
phủ Đức mới lên ư thức rơ là phải
cải cách toàn diện, nhưng không nên hy vọng có
thể thực hiện được như trong chương
tŕnh đề ra. Có quá nhiều lư do để
phải dè dặt cho tương lai. COVID-19
đang làm chết hơn 100.000 người và dịch
bịnh c̣n lan rộng không biết đến chừng
nào. Kinh tế không thể hồi phục nhanh v́ kỷ
thuật số của Đức tụt hậu so
với tŕnh độ phát triển chung của các nước
công nghiệp khác. Thiên tai, bảo lụt và dịch
bịnh làm cho chính quyền chỉ lo tung tiền
cứu trợ khắp nơi, nợ công càng chồng
chất cao hơn. Hậu qủa trực tiếp của
khiếm hụt ngân sách làm cho lạm phát tăng và
đời sống khó khăn. Làn sóng di dân ồ
ạt là lư do chính cho phong trào bài ngoại gia tăng. Tất
cả các yếu tố này làm cho t́nh h́nh chung trong xă
hội Đức không có ǵ là lạc quan. |