Trong
cuộc Chiến Tranh Thế Giới lần Thứ
Nhất 1914-18, các xứ thuộc địa đã
ủng hộ các trung tâm đế quốc trong khi các nước
có liên hệ mậu dịch bị bắt buộc
về phe Đồng Minh (the Allies = the Triple Entente)
hoặc theo phe Quyền Lực Trung Âu (the Central Powers =
the Triple Alliance). Cuộc chiến tranh này đã mang tính
toàn diện trong đó binh lính cũng như thủy
thủ và dân thường đều trực tiếp
tham gia. Cuộc chiến tranh này đã gây nên các
cuộc cách mạng và các xung đột tàn sát trong tương
lai, đã tạo ra các thời kỳ bạo lực kéo
dài trong suốt thế kỷ 20.
1/ Tình hình xung đột trước Thế Chiến.
Vụ ám
sát Hầu Tước người Áo là nguyên nhân
trực tiếp gây nên Thế Chiến Thứ Nhất.
Hầu Tước Francis
Ferdinand (1863-1914) sắp trở nên Hoàng Đế
của đế quốc Áo-Hung. Vị quân vương
đang trị vì là Francis
Joseph (1830-1916, trị vì 1848-1916) đã ngồi trên
ngai vàng trong 84 năm và không rõ còn sống được
bao lâu. Vụ ám sát người kế nghiệp nhà vua
này vì thế được coi là cuộc tấn công vào
đế quốc Áo-Hung. Kẻ sát nhân là một sinh viên
người Bosnia tên là Gravilo Princip, thuộc nhóm
quốc gia Serbian.
|
Ám sát vợ chồng Hầu Tước Ferdinand -
Assassination of Archduke Franz Ferdinand
|
Mặc dù
vụ ám sát xẩy ra vào ngày 28/6/1914
tại Sarajevo, thủ đô của xứ Bosnia, nhưng
đây là một âm mưu từ Belgrade, thủ đô
của xứ Serbia, tổ chức do Dragutin Dimitrijevic, trưởng
ban tình báo của nước Serbia. Các kẻ âm mưu
thuộc một hội kín có tên là “Đoàn Kết
hay là Chết” (Union or Death), thường được
gọi là “Nhóm Bàn Tay Đen” (the Black Hand). Việc
chống đối hầu tước Francis Ferdinad là do
vị này ủng hộ một chương trình tổ
chức lại đế
quốc Habsburg thành một vương quốc ba thành
phần (a triple monarchy).
Ngoài xứ Áo với dân Đức (German Austria) và
xứ Magyar Hungary đã tự trị, còn có một
miền đất bán độc lập dành cho sắc
dân Slavs. Các người quốc gia cực đoan Serbian
đã chống lại chương trình kể trên
bởi vì họ sợ rằng các sắc dân bà con
với họ là Slovene và Croatian sẽ ở dưới
quyền cai trị của triều đình Habsburg, như
vậy sau này sẽ cản trở việc thành lập
một xứ sở Serbia lớn hơn. Vì vậy
họ đã ám sát hầu tước Francis
Ferdinand trước khi vị này trở nên Hoàng
Đế và thực hiện chương trình cải
tổ.
Trong nhiều năm, các nhà lãnh đạo Áo vẫn
muốn chấm dứt các xáo trộn vì ý định
thành lập một liên hiệp các người Slavs
tại miền nam châu Âu. Bá tước người Áo
Leopold von Berchtold lý luận rằng nay là cơ hội
để đè bẹp xứ Serbia. Vào
thời gian này, nước Áo chỉ có một đồng
minh là nước Đức và nếu quyền lực và uy tín
của nước Áo giảm đi thì nền an ninh
của nước Đức cũng bị đe
dọa, vì vậy người Đức quyết định
yểm trợ người Áo trong việc dùng võ
lực và cả hai nước Áo và Đức đều
muốn thanh toán ngay xứ Serbia trước khi các
quốc gia khác bị lôi cuốn vào cuộc xung đột.
Trước vụ ám sát, các người Áo tin rằng
chính quyền Serbia đứng đằng sau vụ này
nhưng họ đã chờ đợi hơn 3 tuần
lễ trước khi hành động. Sở dĩ có
việc trì hoãn bởi vì nước Áo không biết
phải giải quyết vụ này ra sao, một phần
khác cũng vì họ chỉ muốn động viên quân
lực sau vụ thu hoạch mùa màng. Vào
ngày 23/7/1914, chính
quyền Áo gửi một tối hậu thư cho
xứ Serbia, bắt buộc phải trả lời
trong 48 giờ. Trong 11 điều đòi hỏi có các
khoản sau: xứ Serbia phải đóng cửa các
tờ báo chống lại nước Áo, dẹp bỏ
các hội kín ái quốc, loại khỏi chính quyền
và quân đội mọi nhân viên tham gia phong trào
chống nước Áo và chấp nhận việc
cộng tác với các viên chức Áo trong việc
loại trừ phong trào chống lại đế
quốc Habsburg.
Hai ngày hôm sau, chính quyền Serbia trả lời. Trong
tổng số 11 đòi hỏi, một điều
kiện bị từ chối, 5 điều kiện
được chấp nhận hoàn toàn. Nhưng chính
quyền Áo công bố rằng việc trả lời
của xứ Serbia không thỏa mãn, nên họ đã
động viên một phần binh lực và gây khó khăn
cho các quan hệ ngoại giao. Về phía người
Serbian, họ đã ra lệnh động viên trước
khi gửi đi bản trả lời.
Sự khó khăn của nước Áo trước
việc trả lời của xứ Serbia là do tình hình
gay gắt của các nước thuộc châu Âu trước
khi có vụ ám sát xẩy ra. Vào lúc này, nước
Nga e sợ rằng việc quân Áo đánh chiếm
xứ Serbia sẽ là bước đầu của
một chương trình chinh phục vùng Balkans của
hai nước Áo và Đức. Việc bành trướng
thế lực như vậy tại một miền đất
gần nước Nga là một điều không thể
chấp nhận đối với chính quyền của Sa
hoàng. Hơn nữa, nước Nga đã thất
bại nhiều lần, chẳng hạn cuộc bại trận vào năm 1905 trước Hải Quân Nhật Bản, cho nên không thể mềm
yếu hơn nữa. Nếu nước Đức giúp
cho nước Áo thì nước Nga không thể bỏ rơi
xứ Serbia.
Vào ngày 18/7/1914,
bộ trưởng Ngoại Giao Nga là Sergei Sazonov
(1861-1927) đã cảnh cáo nước Áo là nước
Nga không để cho xứ Serbia bị làm nhục. Qua
ngày 24/7, ông Sazonov báo cho
viên Đại Sứ Đức: “Tôi không ghét nước Áo,
tôi khinh bỉ nước đó. Nước Áo đang
tìm cớ để nuốt xứ Serbia nhưng trong trường
hợp này, nước Nga sẽ đánh nước Áo”. Nước Nga đã được nước Pháp
yểm trợ. Vào ngày 20/7, Tổng Thống
của nước Pháp là Raymond
Poincaré (1860-1934) đã thăm viếng St. Petersburg
để giúp cho nước Nga “cứng rắn” trong
việc giải quyết rắc rối, để tránh
sự hòa giải nào mang lại sự mất uy tín cho
khối Đồng Minh và đã cảnh cáo viên Đại
Sứ Áo rằng “Xứ Serbia là bạn
rất thân của nước Nga và nước Nga là
một đồng minh của nước Pháp”.
Trong các ngày quan trọng này, thái độ của nước
Đức rất mơ hồ. Mặc dù Hoàng Đế
Đức bị xúc động và giận dữ vì
vụ ám sát, chính quyền Đức đã không
hề đe dọa cho tới khi có các hành động
của nước Nga. Cả hai Hoàng Đế Đức William II và Thủ
Tướng Theobald von Bethmann-Hollweg (1856-1921) đều
chấp nhận phải trừng phạt nặng nề
xứ Serbia sớm và Hoàng Đế Đức công
bố vào ngày 30/6 rằng “Ngay bây
giờ phải sớm làm sáng tỏ với người
Serbian”. Vào ngày 6/7, Thủ Tướng
Bethmann-Hollweg đã cam kết với Bộ Trưởng
Ngoại Giao Áo, sự cam kết này bị coi như hoàn
toàn. Chính quyền Áo được thông báo rằng Hoàng
Đế Đức sẽ “đứng bên cạnh nước
Áo chiếu theo sự bắt buộc vì thỏa ước
và vì tình bạn cũ”. Người Đức rõ ràng
hy vọng rằng do hành động trừng phạt
sớm chống lại xứ Serbia, nước Áo có
thể đối phó với xứ Serbia trước khi
nước Nga và đồng minh có thể động
viên theo ngoại giao hay quân sự.
Ngày 28/7/1914, nước
Áo tuyên chiến với xứ Serbia. Sự xung đột này có thể bị hạn
chế nhưng đã sớm biến thành một
cuộc chiến tranh rộng lớn do hành động
của nước Nga. Trước đó 4 ngày, ngày
24/7, chính quyền Nga đã quyết định phản
ứng lại bất cứ hành động quân sự
nào của nước Áo đối với xứ Serbia
bằng một cuộc động viên từng phần.
Qua ngày 30/7, ông Sazonov và
nhóm quân sự chủ chiến đã thuyết phục được Sa
Hoàng Nicholas II ra lệnh tổng động viên mọi quân đội, không chỉ
để chống lại nước Áo mà chống
cả nước Đức, bởi vì một đất
nước rộng lớn như nước Nga đòi
hỏi rất nhiều thời gian để làm
chạy guồng máy quân sự.
|
Nicholas II, Sa Hoàng cuối cùng của Nga, bị thoái
vị vào ngày 2/3/1917
|
Trước
tình thế nghiêm trọng này, không còn cách nào lùi
trở lại. Người Đức đã được
báo động rằng người Nga đang chuẩn
bị chiến tranh bởi vì công cuộc tổng động
viên có nghĩa là chiến tranh. Chính quyền Đức
bèn gửi tới St. Petersburg của nước Nga
một tối hậu thư đòi hỏi phải ngưng
ngay lệnh động viên trong 24 giờ. Vào buổi
chiều ngày 01 tháng 8, Đại Sứ Đức xin
gặp mặt Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga, yêu
cầu ông Sazonov trả lời một cách thuận
lợi đối với tối hậu thư của
Đức. Ông Sazonov đã cho biết rằng không
thể ngừng lại lệnh động viên
được nhưng nước Nga sẵn lòng
tiếp tục thương thuyết. Vị Đại Sứ Đức đã nhắc
lại ba lần hậu quả khủng khiếp của
lời bác bỏ nhưng ông Sazonov đã cuối cùng
trả lời rằng: “Tôi không có câu trả lời
nào khác dành cho ông”. Sau đó vị Đại Sứ Đức giao cho
Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga bản tuyên chiến
rồi bật khóc và rời phòng họp. Cùng thời
gian đó, Bộ Trưởng của Hoàng Đế
Đức cũng giao cho nước Pháp bản tối
hậu thư, đòi nước Pháp cho biết rõ ý
định. Thủ Tướng
Pháp René Viviani (1863-1925) trả lời vào ngày 01/8
rằng nước Pháp sẽ “hành động theo quyền
lợi của mình” và ngay
lập tức, ra lệnh tổng động viên quân
lực. Ngày 03/8, nước
Đức tuyên chiến với nước Pháp.
Tất cả các diễn tiến kể trên đã làm
lu mờ các cố gắng của ông Bộ
Trưởng Ngoại Giao Anh, Sir Edward Grey (1862-1933),
trong công cuộc triệu tập một hội nghị
để dàn xếp vụ Áo-Serbia. Có lẽ nếu nước
Anh tuyên bố sẵn sàng về phe với nước
Pháp và nước Nga sớm hơn, thì sự việc này
đã khiến cho nước Đức và nước
Áo phải chùn bước. Nhưng Thủ Tướng
Grey không biết chắc rằng nước Anh có
sẵn sàng chiến đấu không, nên đã không cam
đoan gì cả. Nước Anh đã hứa sẽ
gửi một lực lượng viễn chinh qua đất
Pháp trong trường hợp chiến tranh nhưng dân chúng
Anh không biết rõ điểm này. Dư luận tại
nước Anh vì thế
chia hai: khối Bảo Thủ thiên về chiến tranh, khối
Cấp Tiến đang cầm quyền bị chia rẽ
nội bộ còn khối Lao Động phản
chiến. Nhưng cả hai Bộ Trưởng
Ngoại Giao Grey và Thủ Tướng Herbert Asquith
(1852-1928) đều muốn nước Anh tuyên
chiến, rồi vụ nước Đức xâm lăng
nước Bỉ trung lập, đã được
Quốc Hội Anh và dân chúng ủng hộ việc
phải can thiệp.
Trước kia vào năm
1839, nước Anh cùng với các cường
quốc khác đã ký một hiệp ước bảo
đảm sự
trung lập của nước Bỉ, ngoài ra chính sách trong hơn một thế kỷ
của nước Anh là chống đối việc
thống trị miền tây của châu Âu. Nước
Anh trước kia đã đánh nhau với Hoàng Đế
Napoléon để cản trở nước Pháp làm
chủ châu Âu, ngày nay họ e sợ nước Đức
vì cùng một lý do. Bất cứ một cường quốc nào thống
trị miền đất Bỉ-Hòa Lan nằm ngang qua eo
biển Channel đều là mối đe dọa đối
với nước Anh và hơn nữa, các nhà quân
sự Anh và Pháp đã có các kế hoạch chung
khiến cho nếu nước Pháp bị tấn công thì
nước Anh không thể đứng trung lập bên
ngoài.
|
Quân đội Đức thời Thế Chiến I
|
Vào
thời gian này, người Đức muốn tấn công
nước Pháp qua nước Bỉ, họ đã xin phép
chính quyền Bỉ cho binh lính đi qua lãnh thổ,
hứa sẽ tôn trọng sự độc lập và hoàn
trả bồi thường các thiệt hại sẽ gây
ra. Khi nước Bỉ từ chối, các đạo quân
Đức đã tràn qua biên giới. Ngay lập tức
Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh ra trước
Quốc Hội, kêu gọi nước Anh phải
bảo vệ luật lệ quốc tế và che chở
các nước nhỏ. Ngày hôm sau, 4/8/1914,
Quốc Hội Anh gửi một tối hậu thư
tới Berlin, đòi hỏi nước Đức
phải tôn trọng tính trung lập của nước
Bỉ và phải trả lời thỏa đáng trước
nửa đêm. Các Bộ Trưởng Đức đã
không trả lời, viện cớ rằng binh lính Đức
phải tiến tới nước Pháp bằng con
đường ngắn nhất. Khi đúng
12 giờ, nước Anh và nước Đức chính
thức chiến tranh với nhau.
Các nước khác cũng sớm bị lôi cuốn vào
vòng chinh chiến. Ngày 7/8, người
Montenegrins hợp tác với người Serbs thân
thuộc để chống lại người Áo. Hai
tuần lễ sau, Nhật
Bản tuyên chiến với Đức, một phần vì là đồng minh của nước
Anh nhưng chủ đích chính của Nhật Bản là
chiếm đoạt tài sản của nước Đức
tại miền Viễn Đông. Qua ngày
01/8, Thổ Nhĩ Kỳ
thương thuyết hợp tác với Đức
rồi trong tháng 8, dội bom các hải cảng của
Nga trên Biển Đen (the Black Sea). Nước
Ý, mặc dù là một thành phần trong nhóm
Quyền Lực Trung Âu (the Triple Alliance), đã tuyên
bố trung lập cho tới tháng 5/1915 thì tham dự cuộc chiến, theo phe Đồng Minh.
2/ Trận chiến diễn ra.
|
Quân Anh lúc gần bắt đầu Thế Chiến I
|
|
Khi cuộc chiến sắp xẩy ra, đã có các đám
đông dân chúng tập họp trong các thành phố,
biểu tình để bày tỏ lòng trung thành với
đất nước và sẵn sàng chiến đấu.
Chiến tranh với tính bạo lực của nó có
vẻ như đang tạo nên một lối thoát cho
cuộc sống buồn tẻ và trống rỗng
của thứ xã hội tư sản đương
thời và theo như lời của thi
sĩ Rupert Brook người Anh, “một
thế giới đang già đi, lạnh lẽo và
mệt mỏi”. Đối với một số người, chiến
tranh mang lại cái thời “cao đẹp… linh thiêng”
(a beautiful… sacred moment). Vào lúc này, tinh thần ái
quốc đang chế ngự tâm hồn mọi người
tại châu Âu, hàng triệu người muốn hy sinh
bản thân và linh hồn cho đất nước
bởi vì trong vài thập niên vừa qua, nền giáo
dục do chính quyền chủ trương đã
tạo nên các huyền thoại, các niềm tin và thái
độ của chủ nghĩa
dân tộc (nationalism).
Tại thành phố Paris, nam giới đi trên các đại
lộ ca hát bản “Marseillaise” trong khi
nữ giới tặng hoa cho các binh lính trẻ. Có người
đã ghi lại hoàn cảnh này như sau: “các người
nam trẻ hay già, dân sự hay quân sự, đều hào
hứng. Hàng ngàn người tình nguyện chiến
đấu, đã xô đẩy nhau trước các văn
phòng tuyển quân. Danh từ “nghĩa vụ” đang có ý nghĩa cao đẹp
và danh từ “đất nước” mang tính chất rực
rỡ. Lưỡi gươm đặt vào trong long bàn
tay của chúng ta không thể tra vào bao khi mục tiêu chưa
chiếm được và lãnh thổ của chúng ta chưa
trải dài như cần thiết”.
|
Dân chúng
Âu Châu đang nóng ruột trông chờ Thế
Chiến I bắt đầu
|
Tại nước Đức, các người trẻ cũng
trông đợi thứ hành động cao thượng
và vị tha để kinh nghiệm về cuộc đời
vào giai đoạn căng thẳng nhất và giành
lấy vinh quang. Vào tháng 11/1914, nhà văn danh tiếng người
Đức là Thomas Mann cũng
đã coi chiến tranh là một cơ hội tẩy
sạch (purification) và giải phóng (liberation). Đối
với một số nhà trí thức khác, chiến tranh tái
tạo quốc gia về mặt tinh thần, làm sống
lại vẻ vinh quang, sự cao thượng và tính anh
hùng, cũng vì vậy thế hệ trẻ của châu
Âu vào thời gian này rất vui vẻ đi ra trận
mạc, mà ít người biết trước được
rằng Thế Chiến
Thứ Nhất sau 4 năm
đã trở thành một cuộc tàn sát man rợ, vô
nghĩa.
Trong các ngày sôi động này, nhà
toán học kiêm triết gia người Anh Bertrand Russell
đã nhớ lại nỗi kinh hoàng và ngạc nhiên khi
“người dân thường, đàn ông cũng như
đàn bà, lại hân hoan trước viễn tượng
chiến tranh. Cảnh chém giết đã làm vui sướng
90 phần trăm dân số khiến tôi phải xét
lại quan điểm của tôi về bản chất
con người”.
Bởi vì trận chiến này mang tính toàn diện,
đòi hỏi sự ủng hộ của toàn thể dân
chúng nên các nhà lãnh đạo các nước đã
bắt buộc phải mô tả cuộc chiến là
cuộc xung đột cao thượng (noble conflict) mà không
phải là sự tranh giành giữa các thế lực
đế quốc hay là kết quả của các cách
ghen tỵ quốc gia. Phe Xã Hội Đệ Nhị
Quốc Tế (the socialist Second International) tuyên bố
rằng các công nhân nên phản đối việc
cầm vũ khí bằng cách tổng đình công.
Mặc dù không một đảng xã hội nào của
châu Âu chú ý tới lời kêu gọi này, các chính
phủ đã e sợ sự chống chiến tranh
từ phía dưới, nên đã không ngừng động
viên dân chúng bằng tinh thần ái quốc. Công tác tuyên
truyền đã trở nên một thứ võ khí,
giống như súng máy. Công tác này của phe Đồng
Minh trở nên dễ dàng hơn sau khi quân Đức tàn
sát các con tin dân sự người Bỉ, phá hủy
một thư viện cổ tại Louvain và giết
hại hơn 600 dân sự tại Dinant.
Vào ngày 6/8/1914, Thủ
Tướng Anh Asquith công bố rằng nước
Anh phải tham gia vào trận chiến để bảo
vệ “nguyên tắc theo đó các nước nhỏ
không thể bị đè bẹp bởi việc làm tùy
tiện của một lực lượng mạnh và áp
đảo”. Tại nước
Pháp, Tổng Thống Raymond Poincaré trấn an dân chúng
rằng nước Pháp chỉ có mục đích đứng
lên vì “Tự
Do, Công Lý và Lẽ Phải” (Liberty, Justice & Reason). Sau đó là các nhà văn như
H.G. Wells và Gilbert Murray cũng
như Tổng Thống Hoa
Kỳ Woodrow Wilson, cho rằng lực lượng
Đồng Minh tham chiến vì chống lại chế
độ quân phiệt (militarism). Về phe Đức,
chính quyền này trình bày với dân chúng rằng đây
một cuộc thánh chiến vì nền văn hóa cao
đẹp hơn của dân tộc Đức và để
bảo vệ Đất Tổ khỏi cảnh bao vây
của các quốc gia Đồng Minh, còn các nhà chính
trị xã hội Đức được khuyên cáo
rằng cuộc chiến tranh của Đức với
Nga sẽ giải phóng dân chúng Nga khỏi gông cùm
của Sa Hoàng.
Đầu tiên, các chuyên viên quân sự tin tưởng
rằng Thế Chiến Thứ Nhất sẽ sớm
kết thúc nhưng trái lại, trận tuyến đã
kéo dài từ nước Thụy Sĩ tới Biển
Bắc (the North Sea) trong 4 năm trường. Khởi
đầu vào ngày 4/8/1914, quân Đức xâm lăng nước
Bỉ theo kế hoạch năm 1905 của tướng
Alfred von Schlieffen (1833-1913). Chiến thuật của viên tướng
này muốn quân Áo cầm chân quân Nga, trong khi đó quân
Đức đánh mạnh vào sườn quân Pháp, bao vây
rồi tiêu diệt, rồi sau đó quân Đức
sẽ cùng quân Áo đánh bại quân Nga. Người
Đức tin tưởng rằng nhờ tinh thần cao
và tài năng chiến đấu, họ có thể đánh
bại người Pháp sau 2 tháng hay sớm hơn.
Chiến thuật của quân Pháp là tiến đánh
Alsace và Lorraine và chỉ dùng thế công, nhưng họ
đã gặp thất bại do sự bất tài của
các tướng lãnh Pháp đã không biết thay đổi
binh pháp. Binh lính Pháp đã không biết ẩn núp, không
dùng cách tấn công bất ngờ, lại mặc đồng
phục đỏ hay xanh, dễ dàng trở thành mục
tiêu cho nhiều hàng súng máy của quân đội Đức
và kết quả là binh lính Pháp đã ngã chết hàng
loạt. Sáu tuần lễ sau khi chiến tranh bắt đầu,
số tổn thất của quân Pháp là 385,000 người,
kể cả 100,000 người chết.
Mặt khác, quân đội Đức cũng bị ngăn
trở do quân Nga đánh sang miền Đông Phổ,
khiến cho tướng
Helmuth von Moltke phải chuyển bớt binh lực qua
miền đông. Vào đầu tháng 9/1914, quân Đức
đã tiến tới dòng sông Marne, cách thủ đô
Paris 40 dặm thì bắt đầu thiếu tiếp
liệu. Quân Anh cùng quân Pháp đánh vào cạnh sườn
quân Đức khiến cho đạo quân này phải rút
lui, thủ đô Paris không bị nguy hại. Các
trận đánh bên sườn đã khiến cho cả
hai phe phải củng cố các tuyến hầm hố
trên trận địa.
Vào đầu cuộc chiến, cách bảo vệ
tuyến phòng thủ bằng các hàng rào kẽm gai và súng
máy đã là một ưu điểm. Các hầm hố
đào ngầm cả dưới mặt đất,
được che chở bằng các hàng rào kẽm gai,
nằm giữa hai chiến tuyến là “vùng đất
không người”, chỉ có bùn đất, cây
cối đổ gẫy ngả nghiêng và các xác người
thối rữa. Nơi đây là mặt trận về cân
não, sức chịu đựng, lòng cam đảm và là
nơi tàn sát hàng loạt do các đợt pháo kích
từ cả hai phía. Sự anh hùng, hy sinh và cảnh
chết chóc chẳng mang lại ích lợi gì. Vào năm 1915, quân Pháp đã tấn công
quân Đức theo nhiều mặt trận mà không
tiến xa được 3 dặm trong khi chịu
thiệt hại 1,430,000 người.
Một thứ võ khí để công phá phòng tuyến là
xe tăng chỉ được đưa vào mặt
trận vào năm 1916. Máy
bay lúc đầu được dùng để thám thính,
đôi khi cũng có các trận không chiến. Người
Đức cũng gửi đi các khinh khí cầu Zepperlin để oanh tạc thành phố London nhưng
thiệt hại gây ra không đáng kể.
Trên mặt trận miền Tây, các binh lính thuộc
cả hai phe đã trải qua cuộc sống buồn
tẻ trong các hầm hố bùn lầy và dơ bẩn,
thỉnh thoảng gặp các cơn ác mộng vì đạn
đại bác, đạn súng máy, lựu đạn, súng
phun lửa và khí độc, trong khi trận chiến không
ý nghĩa vẫn diễn ra đối với cả hai
bên. Vào tháng 2/1916, do muốn bắt buộc quân Pháp
phải đầu hàng vì thiệt hại quá cao, binh
lực Đức đã đánh phá tỉnh Verdun,
nhưng nhờ tài lãnh đạo của tướng Henri
Philippe Pétain, nhờ lòng dũng cảm của Bộ
Binh Pháp và nhờ các pháo đài kiên cố, quân Pháp
vẫn đứng vững cho tới ngày 1/7/1916, khi quân Anh mở cuộc tấn công chính
thì quân Đức phải giảm áp lực tại
mặt trận này. Verdun là
chiến địa đẫm máu nhất trong Thế
Chiến Thứ Nhất, nước Pháp và nước
Đức đã chịu thiệt hại tại nơi
này hơn 1 triệu người.
|
Quân Anh trong chiến hào trước khi tiến công
trong ngày đầu tiên của trận Somme
(Battle of the Somme, on July 1, 1916)
|
Từ cuối tháng 6/1916, quân Anh với
quân Pháp hỗ trợ, đã tiến đánh phòng
tuyến Đức tại dòng sông
Somme. Sau 7 ngày oanh tạc thật nặng các vị trí
Đức, binh lính Anh đã tiến sang “vùng đất
không người” và đã bị súng máy của Đức
tập trung hỏa lực, tàn sát khủng khiếp,
những binh sĩ nào tới sát hàng rào thì bị đâm
bằng lưỡi lê. Trong số 110,000 lính tấn công, 60,000
bị chết hoặc bị thương. Đây là tổn thất cao nhất
trong một ngày của binh lực Anh, cao hơn tất
cả các binh lực khác trong thời Thế Chiến này.
Trận đánh La Somme kết thúc vào cuối tháng
11/1916 với số thiệt hại là 500 ngàn quân Đức, 400 ngàn
quân Anh và 200 ngàn quân Pháp mà chỉ tiến được
7 dặm.
Vào tháng
12/1916, vị Tư Lệnh mới của binh lực
Pháp là tướng Robert Nivelle đã ban ra
một lệnh tấn công đại quy mô thực
hiện vào tháng 4/1917. Quân Đức đã bắt được kế
hoạch hành quân trong tử thi của một sĩ quan
Pháp nên đã rút lui về một địa điểm
cao được phòng thủ kiên cố. Dù cho mất
đi tính bất ngờ, tướng Nivelle vẫn ra
lệnh tấn công với kết quả là một
cuộc thảm sát, sau 10 ngày số thiệt hại của
quân Pháp lên tới 187,000 người.
Tới lúc này, các người lính Pháp không thể
chịu đựng lâu hơn được nữa do các
thất trận và thất vọng, họ đã nổi
loạn, từ chối tiến vào bãi chiến trường,
chống đối các viên chỉ huy của họ
đã dẫn họ như các đàn cừu vào các lò
sát sinh, một số đơn vị giành lấy doanh
trại, bắn các cấp chỉ huy đã can thiệp
vào công việc của họ. Vài toán quân khác chiếm
các toa xe lửa để về thủ đô Paris, khích
động dân chúng chống chiến tranh. Quân đội
Pháp gần đi tới tình trạng tan hàng và chỉ
cần một trận tấn công nhỏ của quân
Đức cũng đủ khiến cho thủ đô
Paris thất thủ. Nhưng Tướng
Pétain, vị anh hùng trong trận
Verdun, đã thay thế Tướng
Nivelle, đã làm gia tăng tinh thần quân đội
do ông cho họ nghỉ thêm ngày phép, cải thiện
bữa ăn, khiến nơi nghỉ ngơi đầy
đủ tiện nghi hơn, ra lệnh cho các sĩ quan
phải chăm sóc tận tình các binh sĩ dưới
quyền và thông báo rằng rất đông quân lính Hoa
Kỳ sắp sang tiếp viện, tất cả các hành
động kể trên cộng với các hình phạt
nặng nề, đã duy trì được kỷ
luật cho quân đội Pháp.
|
Bộ
binh Hoàng gia Nga của Thế Chiến Thứ
Nhất trang bị súng trường Mosin-Nagant
|
Trở
về mặt trận phía đông, quân đội Nga dù
chưa được chuẩn bị kỹ càng,
vẫn tấn công miền Đông Phổ. Bị
thất bại trong trận Tannenberg ngày 26-30 tháng 8 năm
1914, quân Nga rút lui dần, qua mùa xuân năm 1915, họ
rời bỏ miền Galicia và phần lớn nước
Ba Lan. Trong khi đó quân Áo đã không thắng nổi
tại xứ Serbia, khiến cho quân Đức phải
tiếp cứu và chịu đựng hai mặt
trận.
Qua tháng 6/1916, quân Nga
tấn công vào phòng tuyến quân Áo rồi sau đó
bị quân Đức phản công, quân Nga
bị thiệt hại hơn một triệu người. Sự thất trận này đã khiến cho tình hình
trong xứ càng trở nên bất ổn và bùng nổ thành
cuộc cách mạng. Sa Hoàng
Nicholas II phải thoái vị. Tới tháng 11/1917, một
cuộc cách mạng thứ hai đã đưa các người
Cộng Sản lên nắm chính quyền rồi qua
tháng 3/1918, các người Bolshevics
đã ký kết với nước Đức hiệp
ước Brest-Litovsk, chịu nhường cho Đức
xứ Ba Lan, miền Ukraine, xứ Phần Lan và các
xứ sở quanh Biển Baltic.
Cũng
tại mặt trận phía đông, phe Đồng Minh
muốn chiếm eo biển Dardanelles
nên đã đổ quân lên bán
đảo Gallipoli, nơi có quân Đức và quân
Phổ trấn giữ. Kết quả của mặt
trận này trong thời gian 1915-16 là phe Đồng Minh
chịu thiệt hại 252,000 lính. Vào tháng 5/1915, người
Ý tham gia vào phía Đồng Minh để đánh Đức
và Áo tại mặt trận Caporetto, đã bị
bắt 275,000 tù binh.
1917 là năm thảm họa cho
lực lượng Đồng Minh. Cuộc
tấn công của Tướng
Nivelle đã gặp thất bại, quân Pháp nổi
loạn, quân Anh phản công tại Passchendaele không
kết quả mà còn chịu thêm 300,000 tổn thất, số tử vong của cả hai phía lên tới hàng
triệu. Cuộc chiến đã bước
sang tình trạng bế tắc, với tổn hại
rất đáng kinh sợ vì tính tiêu hao của cách tàn
sát, bởi vì hàng ngàn chiến binh với súng trường,
lựu đạn và lưỡi lê đã xung phong mà
chỉ chiếm được vài chục thước
đất.
Các tổn thất lớn lao kể trên đã khiến
cho cả hai phe muốn thương thuyết trong khi
một số người cứng rắn muốn áp
lực thêm để chiến thắng và họ đã
thay đổi cấp lãnh đạo. Tại nước
Anh, vị Thủ Tướng bất lực Asquith bị thay thế bởi ông
David Lloyd George, một nhà chính trị gian hùng, là người
đã đứng đằng sau các cải tổ xã
hội trước thời chiến. Tại Pháp vào năm
sau, ông Georges Clemenceau
(1841-1929) lãnh chức Thủ Tướng để
chống lại phe chủ hòa trong giới quân sự cao
cấp. Tại nước Đức, quyền lực vào
tay của các Tướng
Paul von Hindenburg (1847-1934) và Erich Ludendorff (1865-1937) là
những người chịu trách nhiệm về các
chiến thuật của phe Quyền Lực Trung Tâm (the
Central Powers), trong khi đó do các phong tỏa của
khối Đồng Minh, dân chúng Đức và binh lính
đã bị thiếu thốn cả về nguyên
liệu lẫn thực phẩm.
Khi chiến tranh kéo dài, vài nước khác cũng tham
dự vào vòng chiến. Nước Ý được các
nước Đồng Minh hứa cho các phần đất
của Áo và phần bờ biển phía đông của
miền biển Adriatic. Bulgaria theo phe Đức vào tháng 8 năm 1915 còn Rumania
theo phe Đồng Minh một năm sau. Chỉ tới khi
Hoa Kỳ can
thiệp vào cuộc chiến của phe Đồng Minh vào
tháng 4/1917 thì cán cân
mới nghiêng lệch đi.
|
Quân
đội Hoa Kỳ sang Âu Châu tham gia Thế
ChiếnThứ Nhất
|
Theo lời của Tổng
Thống Woodrow Wilson, Hoa Kỳ
tham chiến để làm cho thế giới “an toàn hơn
vì nền dân chủ”, để loại đi chế
độ độc tài và quân phiệt, và để
thiết lập một hiệp hội các quốc gia
thay thế cho các cách vận động ngoại giao cũ. Chắc chắn rằng lý do chính của việc tham
dự của Hoa Kỳ là để cân bằng lực
lượng quốc tế. Đã từ nhiều năm,
giới ngoại giao và quân sự của Hoa Kỳ theo
chủ trương chính rằng nền an ninh của Hoa
Kỳ lệ thuộc vào sự cân bằng các lực lượng
tại châu Âu. Ngày nào mà nước Anh còn đủ
mạnh để không cho một nước nào của
châu Âu chiếm ưu thế, thì Hoa Kỳ còn được
an toàn, bởi vì Hải Quân Anh đã là một thứ
lá chắn. Tới ngày này, nước Đức không
chỉ đối đầu với ưu thế
của Hải Quân Anh mà còn đe dọa làm đói nước
Anh khiến cho phải đầu hàng và rồi nước
Đúc sẽ thiết lập quyền lực trên
khắp châu Âu.
Lý do trực tiếp khiến cho Hoa Kỳ tham chiến là
chiến thuật tầu ngầm của Đức. Khi người Đức nhận ra rằng đây là
cuộc chiến tranh tiêu hao, nếu họ không phá
được vòng phong tỏa do các tầu biển
của phe Đồng Minh, thì họ sẽ thua trận.
Vào tháng 2/1915, chính quyền Đức công bố
rằng các con tầu biển trung lập nào đi
về các hải cảng của nước Anh sẽ
bị phóng thủy lôi mà không cần báo trước.
Tổng Thống Wilson trả
lời bằng cách công bố rằng nước Đức
phải chịu trách nhiệm nếu làm thiệt
hại nhân mạng và tài sản của người
Mỹ, lời cảnh cáo này làm cho Hải Quân Đức
tạm thời ngưng dùng tầu ngầm trong khi đó,
người Đức lại tin tưởng tầu
ngầm loại U là thứ võ khí giá trị nhất,
đáng sử dụng đối với cuộc phong
tỏa của người Anh. Họ còn
biết rằng các vật liệu chiến tranh đang
được đưa lén lút bằng tầu biển
chở hành khách từ Hoa Kỳ, nên Hải Quân Đức
lại tiếp tục đánh chìm các con tầu Đồng
Minh và như vậy vi phạm tính trung lập của
Hoa Kỳ. Ngày 1/2/1917, khi
một Bộ Trưởng Đức công bố sẽ
dùng chiến tranh tầu ngầm không giới hạn,
Tổng Thống Wilson đã cắt đứt ngoại
giao với nước Đức. Ngày
6 tháng 4 năm đó, ông Wilson
ra trước Quốc Hội, xin tuyên chiến và đã
được chấp nhận.
Ba tuần lễ sau khi Hoa Kỳ cắt đứt
ngoại giao với nước Đức, giới
chức Anh đã giao cho Hoa Kỳ một bản tin
giải mã do tình báo Anh, của Bộ Trưởng
Ngoại Giao Đức là Arthur
Zimmerman gửi cho
Đại Sứ Đức tại Mexico City trong đó
nước Đức hứa với nước Mễ
Tây Cơ rằng nếu cùng tham chiến với Đức,
Mễ Tây Cơ sẽ nhận được các vùng
đất Texas, New Mexico và Arizona. Đề
nghị này của người Đức càng làm gia tăng
tinh thần chống Đức tại Hoa Kỳ và
kết quả tức thời của việc tham
chiến của Hoa Kỳ là số lượng vật
liệu chiến tranh và thực phẩm gia tăng cho phe
Đồng Minh, rồi sau này là quân số, tất
cả được chuyên chở bằng các đoàn
tầu biển có hộ tống băng qua Đại Tây
Dương. Các con tầu chiến mới được
chế tạo đã thay thế số thiệt hại
khiến cho chiến thuật dùng tầu ngầm của
Đức đã bị hóa giải.
|
Kaiserschlacht,
1918 (the Emperor’s Battle). - Đây là trận
chiến cuối cùng và là một trong những
trận chiến đẫm máu nhất của
Thế Chiến Thứ I, đã giết chết
240.000 binh sĩ Đức trên trận địa.
|
Sau khi
đã loại nước Nga ra khỏi vòng chiến, Tướng
Erich Ludendorff muốn đẩy quân Anh ra biển trước
khi quân Mỹ nhập cuộc. Mờ sáng ngày
21/3/1918 bắt đầu trận “Kaiserschlacht”
(trận đánh của hoàng đế, the Emperor’s
Battle), quân Đức tiến đánh, chia hai quân Anh và
quân Pháp, chiếm tỉnh Amiens,
đẩy lùi quân Anh về phía bờ biển. Nhưng
binh lính Anh đã chống trả rất gan dạ,
cầm cự trong hai tuần lễ khiến cho quân
Đức bị thiếu thực phẩm và đạn
dược.
Vào cuối tháng 5/1918, Tướng
Ludendorff lại tấn công bất ngờ quân Pháp,
đã tiến tới cách thủ đô Paris 56 dặm
khiến cho Tướng John
Pershing là người chỉ huy lực lượng
Hoa Kỳ phải gửi điện tín về Hoa
Thịnh Đốn như sau: “sự
việc Paris thất thủ coi như rõ ràng”. Thế nhưng, sức tấn công của quân Đức
giảm dần khi các lực lượng trừ bị
tăng cường các phòng tuyến Pháp. Trong trận
Belleau Wood kéo dài từ ngày 6 tới ngày 25/6/1918, quân
Mỹ đã chặn được quân Đức.
Tới giữa tháng 7/1918,
quân Đức cố gắng vượt dòng sông Marne,
rồi vào ngày 3/8, trận Marne thứ hai của Đức
đã không phá vỡ được lực lượng
Đồng Minh. Ngày 8/8, với quân Pháp trợ giúp, quân
Anh đã dùng xe tăng đánh vào phía đông tỉnh
Amiens, gây thiệt hại rất lớn cho quân Đức
khiến cho Tướng
Ludendorff phải nói: “đây là ngày đen tối nhất của quân
lực Đức” và chính hoàng đế William II cũng
phải nhận thấy rằng cần phải chấm
dứt chiến tranh.
|
Tù binh Đức đang tiến đến trại
giam gần Amiens, 9/8/1918 (The Hundred Days Offensive, Tháng
8 đến 11/1918)
|
3/ Đình Chiến và Hòa Bình.
Vào giữa cuộc Thế Chiến,
đã xẩy ra tại nước Nga cuộc cách
mạng lật đổ Sa Hoàng, chính quyền vào tay các
người Cộng Sản và nước Nga không còn
tham chiến nữa trong khi đó, cũng có nhiều
kế hoạch lo việc thương lượng hòa bình.
Vào mùa xuân năm 1917, các
nhà xã hội của Hòa Lan và Na Uy/Thụy Điển
đã triệu tập một hội nghị quốc
tế tại Stockholm
để thảo ra các kế hoạch chấm dứt
chiến tranh mà các phe có thể chấp nhận, nhưng
hai chính phủ Anh và Pháp đã không cho phép các đại
biểu của họ tham dự, vì thế kế
hoạch không thành.
Một công thức hòa bình tương tự do Giáo Hoàng
đề nghị cũng bị từ chối, phe Đức
không chấp nhận bồi thường và phục
hồi các miền đất bị tàn phá, nhất là
phục hồi nước Bỉ. Chưa một đề
nghị nào được cả hai phe quan tâm. Tổng
thống Woodrow Wilson là người phát ngôn của phe Đồng
Minh công bố rằng không thể có thương
thuyết hòa bình khi nước Đức còn do Hoàng
Đế William II cai trị.
Trong số các đề nghị hòa bình, được
nhiều người biết tới nhất là “Chương
Trình 14 Điểm” (the Program of 14 Points) của Tổng
Thống Hoa Kỳ Wilson, đọc trước Quốc
Hội vào ngày 8/1/1918. Nói một cách tóm tắt, chương
trình này gồm có:
1.
hủy
bỏ các thương lượng bí mật,
2.
tự do trên
các mặt biển trong hòa bình và chiến tranh,
3.
gỡ bỏ
các hàng rào kinh tế giữa các nước,
4.
giảm trang
bị quân sự tới độ thấp nhất
của mức an toàn,
5.
điều
chỉnh vô tư các đòi hỏi về thuộc địa
với sự quan tâm tới các quyền lợi của
các dân tộc liên hệ,
6.
các đạo
quân ngoại quốc rút ra khỏi đất Nga và
phục hồi các miền đất bị người
Nga chinh phục,
7.
phục
hồi nền độc lập cho nước Bỉ,
8.
phục
hồi 2 miền Alsace và Lorraine trả về cho nước
Pháp,
9.
điều
chỉnh lại biên giới của nước Ý,
10.
phát triển
tính tự trị cho các dân tộc Áo-Hung,
11.
phục
hồi các xứ Rumania, Serbia và Montenegro với phần
đất dẫn ra biển dành cho xứ Serbia,
12.
phát triển
tính tự trị cho dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ,
với eo biển từ Biển Đen dẫn tới
Địa Trung Hải được mở thường
xuyên,
13.
một
xứ Ba Lan độc lập do dân tộc Ba Lan cư
ngụ và với đất đai thông ra biển,
14.
thành lập
Hội Quốc Liên.
Chương Trình 14 Điểm kêu
gọi việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ vào
các quan hệ quốc tế, sự thay đổi lãnh
thổ căn cứ vào tính chất dân tộc
(nationality), đã biến đổi cuộc chiến thành
cuộc xung đột ý thức hệ giữa thể
chế dân chủ và chế độ độc tài.
Qua nhiều bài diễn văn, Tổng
Thống Wilson nói rằng Chương Trình 14 điểm
này là căn bản cho hòa bình. Nhiều ngàn bản in 14 điểm
được thả trên các chiến hào của Đức
và phần đất sau trận tuyến để
thuyết phục quân đội và dân chúng Đức
biết rằng các quốc gia Đồng Minh đang
cố gắng vận động một cuộc hòa bình
công bằng và vĩnh cửu.
Với nước Nga không còn tham chiến nữa,
thế lực của Đức có vẻ thắng
thế nhưng vào cuối mùa xuân năm 1918, phe Đức
bắt đầu chịu đựng thiệt hại
bởi vì cách phong tỏa hữu hiệu của phe
Đồng Minh và vì xung đột nội bộ
của nước Đức đối với các
mục tiêu của chiến tranh. Các nhà xã hội Đức
đã tấn công các mục tiêu bành trướng trong
đó có việc kiểm soát các miền sản
xuất thép và than của nước Bỉ và các
miền canh nông của Đông Âu mà chính phủ và phe
bảo thủ đang ủng hộ. Các nhà xã hội cũng
chỉ trích chính phủ Đức về cách chiếm
đóng miền đất Brest-Litovsk của nước
Nga. Vào mùa thu năm 1918, nước Đức
đang đứng trước cảnh nội chiến.
Trong khi đó trên mặt trận phía tây, cuộc
chiến vẫn tiếp diễn như 4 năm đã
qua. Các cuộc tấn công lớn lao của các quân
lực Anh, Pháp và Hoa Kỳ đã khiến cho quân Đức
phải rút lui về biên giới của nước
Bỉ. Vào cuối tháng 9 năm đó, tình hình của
nước Đức hầu như tuyệt vọng. Nước
Bulgaria rút khỏi cuộc chiến vào ngày 29/9.
Vào đầu tháng 10, Thủ
Tướng mới của nước Đức là
Maximilian, ông hoàng theo đường lối cấp
tiến của vùng Baden, đã đáp lời kêu
gọi của Tổng Thống Wilson về thương
thuyết hòa bình theo 14 điểm, nhưng chiến
tranh vẫn còn tiếp diễn nên Tổng Thống
Wilson đòi hỏi nước Đức phải
truất phế Vua William II. Trong thời gian này, các nước
về phe với Đức đang trên đà sụp
đổ: nước Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng
vào cuối tháng 10, đế quốc Áo Habsburg rạn
nứt vì các nội loạn do các sắc dân trong
xứ và cuộc tấn công của quân đội Ý
khiến cho nước Áo mất tỉnh Trieste với
300,000 tù binh. Vào ngày 3/11/1918, Hoàng Đế Áo Charles lên
ngai vàng kế tiếp Hoàng Đế Francis Joseph vào năm
1916, đã ký tên vào bản đình chiến.
Nước Đức như vậy không thể
tiếp tục chiến đấu một mình, tinh
thần của quân đội Đức xuống
thấp. Việc phong tỏa bằng đường
biển của phe Đồng Minh khiến cho dân chúng
Đức thiếu thực phẩm, gần như đói
ăn, các đe dọa nổi loạn tại nhiều nơi
có thể bùng nổ. Vào ngày 8/11, một nước
cộng hòa được tuyên bố tại vùng
Bavaria. Vào ngày hôm sau, hầu như cả nước
Đức đứng bên bờ cách mạng. Một
bản công bố tại thủ đô Berlin xác nhận
Hoàng Đế Đức thoái vị và ngày hôm sau, nhà
vua này qua xứ Hòa Lan. Vào lúc này, chính phủ Đức
thuộc về một hội đồng lâm thời
đứng đầu bởi ông Friedrich Ebert (1871-1925),
một nhà xã hội. Ông Ebert với các người
cộng tác bèn tìm cách thương thuyết về
một cuộc đình chiến.
Phe Đồng Minh đặt điều
kiện nước Đức phải chấp nhận
14 điểm và 3 điểm tu chính. Thứ
nhất, tạm ngưng điều khoản tự do
trên mặt biển, do đòi hỏi của nước
Anh; thứ hai, phục
hồi các miền đất bị xâm lăng gồm
cả bồi thường cho các người chiến
thắng; thứ ba, đòi
hỏi độc lập cho các dân tộc trong đế
quốc Áo-Hung. Ngoài ra, quân đội của các nước
Đồng Minh được quyền chiếm đóng
các thành phố trong thung lũng sông Rhine, việc phong
tỏa vẫn tiếp tục và nước Đức
phải giao nạp 5,000 đầu máy xe lửa, 150,000
toa xe lửa và 5,000 xe vận tải, tất cả
phải trong tình trạng tốt. Người Đức
không còn cách nào khác hơn là chấp nhận các điều
kiện này.
Vào 5 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1918, hai đại biểu của quốc gia
Đức thua trận tới gặp vị Tư
Lệnh của các quân đội Đồng Minh là Thống
Chế Foch trong khu rừng Compiègne và chính thức ký
giấy chấm dứt chiến tranh. Sáu giờ sau, tức là vào 11 giờ sáng,
lệnh “ngưng bắn” được ban ra cho các
binh lính hai bên.
Một thông tín viên theo quân đội Anh chiến đấu
trên đất Pháp, đã ghi lại như sau:
“Tối hôm qua, lần đầu tiên kể từ tháng
8 của năm đầu cuộc chiến, đã không
có các lằn đạn sẹt ngang bầu trời, không
còn các đám lửa bùng lên trong đêm tối, không còn
thảm cảnh nhiều người bị đâm
chết kéo dài trong 4 năm. Lửa Địa Ngục
đã bị dập tắt”. Vào buổi tối hôm
đó, hàng ngàn người đã khiêu vũ trên các
đường phố London, Paris và Rome theo cùng một
cảnh cuồng nhiệt mà họ đã chào mừng
việc tuyên chiến 4 năm về trước.
4/ Hiệp
Ước Versailles.
Tháng 1/1919, các đại biểu của khối
Đồng Minh tụ họp tại thành phố Paris
để soạn thảo các điều khoản hòa bình.
Tại thủ đô này, 2 triệu người đã
đứng dọc theo các đại lộ để
đón chào Tổng Thống Wilson và ném hoa vào xe của
ông trong khi đoàn xe chạy dưới biểu ngữ
“Danh Dự dành cho ông Wilson, nhân vật xứng đáng”
(Honor to Wilson the Just). Ông Wilson được mọi người
coi trọng là nhà Tiên Tri, sẽ khiến cho các quốc
gia rèn gươm giáo thành các lưỡi cày. Tại
kinh thành Rome, đám đông cuồng nhiệt cũng
gọi ông Wilson là vị Thần của Hòa Bình (the god
of peace) còn tại thành phố Milan, các thương binh
đã ôm hôn y phục của ông Wilson. Tại Ba Lan, các
sinh viên khi bắt tay, chào nhau bằng danh tiếng Woodrow
Wilson. Tổng
Thống Wilson đã nói ra lời kêu gọi Hòa Bình do
quá khứ và kinh nghiệm của ông về tôn giáo
Presbyterian và do lòng tin tưởng vào nền Dân Chủ
của Hoa Kỳ. Tổng Thống Wilson muốn thấy
một nền hòa bình bằng công lý để duy trì
nền văn minh phương tây trong hình thức dân
chủ và thiên chúa giáo.
|
Hiệp
Ước Versailles, ký kết vào tháng Sáu, 1919,
đánh dấu sự chấm dứt Thế
Chiến Thứ Nhất giữa Đức và
Đồng Minh
|
Các nguyên
tắc của Tổng Thống Wilson đã đề
cập tới tinh thần tự quyết
(self-determination): một dân tộc có quyền duy trì
quốc gia của mình, không bị ngoại bang thống
trị. Mục đích này có ý nghĩa là hai miền Alsace
và Lorraine phải trả về cho nước Pháp,
việc tạo ra một quốc gia độc lập
cho người Ba Lan, việc điều chỉnh
lại các biên thùy của nước Ý, dành cơ
hội cho các sắc dân Slavs của đế quốc
Áo-Hung có quyền lập nên quốc gia riêng.
Biết rằng đối xử khắt khe hay trả
thù nước Đức thua trận có thể
đưa thế giới tới một đại tai
biến khác, nên ông Wilson chủ trương “hòa bình
mà không chiến thắng” (peace without victory) để khuyến khích nước
Đức thua trận hợp tác với khối Đồng
Minh trong việc xây dựng một châu Âu mới, tuy nhiên
có một điểm mà ông Wilson cương quyết: chế độ Quân Phiệt Phổ (Prussian militarism)
phải bị tiêu diệt.
Các hội nghị khác nhau họp trong năm 1919 và 1920
để bàn cãi về Hòa Bình đã xẩy ra
giống như các phiên tòa hơn là các cuộc thương
thảo. Các vụ tuyên truyền đã đề
cập tới việc người Đức “gian ác”
phải bồi thường các thiệt hại cho các
giới quân đội và dân sự. Thủ Tướng
Anh David Lloyd George trong
vận động tranh cử vào năm 1918, đã dùng
khẩu hiệu “Treo cổ
Hoàng Đế Đức” trong khi các
nước Đồng Minh cho rằng đây là cuộc
thánh chiến chống lại kẻ ác.
Hội nghị chấm dứt chiến tranh họp
tại thành phố Paris từ tháng 1 tới tháng 6 năm
1919 nhưng chỉ có 6 buổi họp đầy đủ
và các phần quan trọng do các ủy ban nhỏ quy
định. Đầu tiên, một Hội Đồng
10 Vị (a Council of Ten) gồm có Tổng Thống và
Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, các Thủ Tướng
và Ngoại Trưởng của các nước Anh, Pháp,
Ý và Nhật. Vào giữa tháng 3, Hội Đồng
kể trên trở nên khó sử dụng nên được
đổi thành Hội Đồng 4 Vị (the Council of Four), gồm có
Tổng Thống Hoa Kỳ và Thủ Tướng các nước
Anh, Pháp và Ý. Một tháng sau, Hội Đồng trở thành Hội
Đồng 3 Vị khi Thủ Tướng Ý Vittorio
Orlando rút lui bởi vì Tổng Thống Wilson từ
chối các đòi hỏi của nước Ý.
Cuối cùng, Hiệp Ước Versailles được quyết định
do Ba Vị là các ông Wilson, Lloyd George và Clemenceau. Ba vị này với cá tính hoàn toàn khác nhau, đã
phải ngồi lại với nhau vì một mục tiêu
chung. Thủ Tướng Lloyd
George là người khôn ngoan, trong nhiều trường
hợp thành công hơn nhưng không thiện cảm
với các vấn đề như chủ nghĩa dân
tộc (nationalism). Tổng
Thống Wilson là một người lý tưởng
không nhân nhượng, thường ra lệnh cho
thuộc hạ và cho rằng phần đúng về mình,
khi phải đối đầu với các thực
tế không dễ chịu như việc chia phần
chiến lợi phẩm, ông Wilson thường coi vụ
này là không quan trọng và không quan tâm, và ông Wilson không
nghe các lời khuyên để thích nghi các quan điểm
với những người cộng tác.
Trước cuộc bầu cử vào tháng 11/1918,
Tổng Thống Wilson kêu gọi dân chúng Hoa Kỳ hãy
dồn phiếu cho đảng viên Dân Chủ, coi như
một niềm tin vào chính sách ngoại giao của ông. Thế nhưng đảng Cộng Hòa đã thắng
phiếu, làm giảm đi uy tín
của ông Wilson bởi vì ông thiếu đi sức
hậu thuẫn trong nước và Thượng Viện
Mỹ sẽ bác bỏ những gì ông Wilson đề
nghị phê chuẩn.
Nhân vật thứ ba trong tam đầu chế là Thủ
Tướng Pháp Georges Clemenceau, vừa già nua, vừa
yếm thế. Trong đời của ông, ông đã
từng trông thấy nước Pháp bị xâm lăng
hai lần, với cuộc sống bị đe dọa
trầm trọng. Ông Clemenceau luôn luôn đòi hỏi
phải báo thù nước Đức và phải giữ
cho nước Pháp được an toàn lâu dài. Trong
cuộc chiến, hầu như toàn thể mặt
trận miền tây diễn ra trên đất Pháp
với một nửa số người trẻ bị
tử vong, các kỹ nghệ và nông trại bị tàn
phá, đất đai dày đặc các bãi mìn và làng
mạc còn bị quân Đức hủy diệt trước
khi rút lui. Người Pháp đã coi người
Đức là những kẻ man rợ, sát nhân, phá
hoại, nên họ không quan tâm tới các lý tưởng
của ông Wilson. Vì thế đây là lúc nước Pháp phải lợi
dụng cơ hội, phải giữ cho nước
Đức què quặt để nền an ninh của nước
Pháp được bảo toàn.
Ngay từ đầu, các nhà hoạch định
Hiệp Ước Versailles đã gặp các vấn
đề khó khăn, quan trọng nhất là đối
với Chương Trình 14 Điểm bởi vì
chắc chắn rằng đây là căn bản của
sự việc nước Đức đầu hàng vào
ngày 11/11/1918 và cũng vì Tổng Thống Wilson muốn
dùng các điểm này cho nền hòa bình lâu dài. Chương
trình của Tổng Thống Wilson có mục đích
tạo nên một châu Âu không gặp vấn đề
sắc dân thiểu số nhưng trên miền đất
này, nhiều loại dân tộc đã sinh sống
lẫn lộn với nhau, họ không muốn giảm
bớt các ước muốn, không chịu hòa giải
các đòi hỏi, giấc mộng quốc gia của
sắc dân này đã vi phạm vào quyền lợi
của sắc dân khác. Chương
Trình 14 Điểm kêu gọi việc thành lập
một nước Ba Lan độc lập với
cửa ngõ mở ra biển để phát triển kinh
tế, nhưng giữa miền đất Ba Lan và
Biển Baltic là phần đất do sắc dân Đức
sinh sống. Nước Tiệp Khắc cũng có nhiều người
Đức cư ngụ, việc phân chia ranh giới
sẽ vi phạm vào quyền tự quyết của
sắc dân địa phương.
Vì vậy Chương Trình 14 Điểm phải là
mẫu mực của công cuộc dàn xếp nhưng trên
thực tế, ngoại trừ Tổng Thống Wilson ra,
các nhà lãnh đạo khác chỉ “nói miệng”
về các điểm này khiến cho cuối cùng,
chỉ có 4 điểm là không thay đổi: điểm
(7) phục hồi nước Bỉ, điểm (8)
đòi hỏi trả lại hai miền Alsace va Lorraine
cho nước Pháp, điểm (10) giành độc
lập cho các dân tộc Áo-Hung, và cuối cùng là điểm
(14) dự trù việc thành lập Hội Quốc Liên
(the League of Nations). Các điểm khác bị bỏ quên
hay bị thay đổi so với ý nghĩa ban đầu.
Sau nhiều tháng tranh cãi với các thái độ gay
gắt, Hiệp Ước Hòa Bình Paris đã thành hình
gồm 5 hiệp ước nhỏ đối xử
với 5 nước Đức, Áo, Hung, Bungaria và
Thổ Nhĩ Kỳ trong đó Hiệp Ước
Versailles áp dụng cho nước Đức được
coi là quan trọng nhất.
Vào cuối tháng 4 năm 1919, các điều khoản
của Hiệp Ước Versailles sẵn sàng để
giao cho kẻ thua trận và nước Đức
được lệnh phải cử đại
diện tới nhận bản hiệp ước này. Ngày
29/4, Bá Tước Von Brockdorff-Rantzau, Bộ Trưởng
Ngoại Giao của nước Cộng Hòa lâm thời,
đã tới Versailles. Khi ông này phản kháng rằng các
điều khoản quá khắt khe thì Thủ Tướng
Clemenceau cho biết nước Đức chỉ có 3
tuần lễ để ký kết hay không. Thực ra,
thời gian này đã được kéo dài hơn
bởi vì các nhà lãnh đạo này của nước
Đức đã từ chức hơn là đặt bút
ký.
Nước Đức nhất trí bác bỏ Hiệp
Ước Versailles bởi vì họ cho rằng tuy
chiến tranh chấm dứt nhưng quân đội
Đức chưa thua trận và nước Đức
chỉ lâm vào tình trạng bế tắc. Người Đức đã coi việc đình
chiến là sự dàn xếp giữa các nước
ngang hàng với nhau, căn cứ vào lời kêu gọi
hòa bình vì công lý. Nhưng trên thực tế, người
Đức đã bị gạt ra khỏi các cuộc thương
thuyết và các hiệp ước chỉ có mục
đích làm cho quân đội và kinh tế Đức
yếu hèn. Họ hỏi rõ dựa trên các tiêu
chuẩn nào mà khối Đồng Minh đã chiếm
lấy các thuộc địa của Đức,
cấm đoán nước Đức không được
tham gia vào Hội Quốc Liên, bắt họ phải
bồi thường các khoản không thể chịu
đựng nổi. Tại sao nước Đức
bị mất 1/8 lãnh thổ và 1/10 dân số do việc
chia lại biên giới các quốc gia.
Người Đức cũng phản đối
rằng khi mới bước vào cuộc chiến,
Tổng Thống Wilson đã xác nhận rằng kẻ
thù không phải là nhân dân Đức mà là chính
quyền thời đó, ngày nay thể chế dân
chủ mới của nước Đức không
thể bị trừng phạt vì các tội lỗi
của Đế Chế Đức và của bộ máy
quân sự của Hoàng Đế William II.
Mặt khác, các nước biện hộ cho Hiệp
Ước Versailles lại cho rằng nếu nước
Đức thắng trận thì các nước Đồng
Minh còn bị áp đặt những điều kiện
nặng nề hơn, bởi vì các mục đích
của chính quyền quân phiệt Đức là sát
nhập các phần của nước Pháp và Ba Lan,
biến các nước Bỉ và Romania thành các nước
vệ tinh và nước Đức bành trướng
tại miền trung tâm của châu Phi. Bằng cớ là
do lòng tham không đáy, nước Đức đã
bắt nước Nga phải ký kết Hiệp Ước
Brest-Litovsk vào năm 1918.
Ba vị lãnh đạo phe Đồng Minh đã điều
chỉnh đôi chút bản dự thảo do sự yêu
cầu của ông Lloyd George và nước Đức
được thông báo rằng 7 giờ chiều ngày
23/6 là thời hạn chót phải chấp nhận
bản hiệp ước hay là bị xâm lăng. Sau 5
giờ, chính phủ lâm thời Đức chịu
nhận các điều khoản của các kẻ
chiến thắng bởi vì dân chúng quá mệt mỏi vì
chiến tranh, nền kinh tế thảm bại, thực
phẩm không còn, các cuộc nổi loạn đang
đe dọa khắp nơi. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1919,
ngày kỷ niệm thứ 5 vụ ám sát hầu tước
Áo, các đại biểu của nước Đức
và phe Đồng Minh đã tụ họp trong Phòng Kính
Lớn (the Hall of Mirrors) của Cung Điện Versailles và
ký tên vào bản Hiệp Ước.
Các điều khoản trong Hiệp Ước Versailles
có thể được tóm lược như sau: nước
Đức phải giao nạp hai miền Alsace và Lorraine
cho nước Pháp, miền Schleswig cho nước Đan
Mạch, phần lớn vùng Posen và miền Tây Phổ
(West Prussia) cho nước Ba Lan. Các
mỏ than trong hạt Saar bị nhượng cho Pháp
để khai thác trong 15 năm và vào cuối thời
gian này, nước Đức có thể mua lại.
Hạt Saar được quản trị do Hội
Quốc Liên tới năm 1935, khi này một cuộc trưng
cầu dân ý sẽ cho biết miền này được
đặt dưới quyền của Hội Quốc Liên,
hay trả về cho nước Đức hoặc thưởng
cho nước Pháp. Vùng Đông Phổ dù cho có toàn
thể dân chúng là gốc Đức, bị cắt
khỏi và quản trị do Hội Quốc Liên.
Nước Đức bị giải giới, giao
nạp toàn bộ các tầu ngầm và tầu biển
hải quân, ngoại trừ 6 tầu chiến nhỏ, 6
khu trục hạm nhỏ, 6 hộ tống hạm và 12
thuyền thủy lôi. Nước Đức không có quyền duy trì không quân,
quân lực chỉ là một lực lượng tượng
trưng, bị giới hạn là 100 ngàn người
được tuyển mộ do tình nguyện. Để
chắc chắn rằng nước Đức sẽ không
bao giờ tấn công nước Bỉ và nước
Pháp, cấm chỉ quân đội và các đồn lũy
đóng trong thung lũng sông Rhine. Cuối cùng nước
Đức và các đồng minh của Đức
phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt
hại gây ra cho dân chúng và các chính phủ Đồng
Minh, vào năm 1921 số tiền
bồi thường được quy định là 33
tỉ mỹ kim. Ngoài ra các quốc gia chiến thắng được
tặng thưởng các xứ thuộc địa
của Đức và của Thổ Nhĩ Kỳ, sự
việc này đưa tới cách cai quản do Hội
Quốc Liên và đây là khởi đầu cách
chấm dứt chế độ thuộc địa và
cũng là cách thức thỏa hiệp giữa chế
độ đế quốc truyền thống với lý
tưởng dân chủ của ông Wilson.
Hiệp Ước Versailles cũng phản ảnh
một phần việc công nhận nguyên tắc
quốc gia tự quyết (national self-determination). Các nhà
ngoại giao khi vẽ các biên giới quốc gia đã
phải cứu xét cho thích hợp các vấn đề
như sắc dân thiểu số, ngôn ngữ, tập quán
lịch sử… nhưng dù vậy, các dàn xếp
thực tế và chính trị đã làm cho việc phân
chia rất khó khăn.
Thực ra Hiệp Ước
Versailles không
giải quyết được vấn đề
của nước Đức bởi vì quốc gia này
bị làm cho suy yếu nhưng không đổ vỡ,
sức mạnh quân sự tạm thời bị giới
hạn, tinh thần hăng hái dân tộc không suy
giảm và mối hiểm nguy thực sự của châu
Âu là nước Đức không thực tâm chấp
nhận thất trận hay từ bỏ giấc mộng
bành trướng.
Công cuộc dàn xếp về nước Áo được
hoàn thành vào tháng 9/1919 và được biết
bằng tên gọi là Hiệp Ước St. Germain. Nước
Áo phải công nhận nền độc lập của
Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Nam Tư và Ba Lan và
phải nhường cho các nước này các vùng đất
rộng lớn. Ngoài ra nước Áo chịu nạp cho
nước Ý miền Trieste, miền nam Tyrol, bán đảo
Istrian, và như vậy nước Áo mất đi 3/4
diện tích và 3/4 dân chúng, bị giảm thành một vùng
đất nhỏ, với 1/3 dân chúng tập trung vào thành
phố Vienna.
Hiệp ước dành cho xứ Bulgaria được
gọi là Hiệp Ước Neuilly (the Treaty of Neuilly) ký
vào tháng 11/1919, bắt buộc Bulgaria phải từ
bỏ mọi phần đất chiếm được
do cuộc Chiến Tranh Balkan lần thứ nhất (the
First Balkan War), chuyển cho Rumania, cho vương quốc
Nam Tư mới và cho Hy Lạp. Nước Hung Gia
Lợi trở thành một quốc gia độc lập
do Hiệp Ước Trianon ký kết vào tháng 6/1920 (the
Treaty of Trianon Palace).
Về số phận của nước Thổ Nhĩ
Kỳ, một hiệp ước được ký
kết tại Sèvres, gần Paris, vào tháng 8 năm 1920,
đã quy định Armenia là một nước
cộng hòa thiên chúa giáo, phần lớn đất
của Thổ tại châu Âu được giao cho Hy
Lạp, hai xứ Palestine và Mesopotamia là đất
quản trị của nước Anh, Syria do Pháp cai
quản, miền nam Anatolia chịu ảnh hưởng
của Ý, chỉ dành cho Đế Quốc Ottoman là thành
phố Constantinople, miền bắc và miền trung tâm
Tiểu Á (Asia Minor).
Vấn đề cuối cùng là Hội Quốc Liên.
Đây sẽ là một tổ chức của các
quốc gia, lớn hay nhỏ, để duy trì hòa bình
cho thế giới, một giấc mộng của
Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson. Ông Wilson tin tưởng
rằng việc đánh bại nước Đức là
một đòn tiêu diệt chế độ quân
phiệt; một cộng đồng các quốc gia
sẽ kiểm soát các quan hệ quốc tế thay cho cách
cân bằng thế lực vừa luộm thuộm,
vừa không hữu hiệu. Nhưng để cho các
quốc gia thành viên chấp nhận các điều
khoản của Hội Quốc Liên, ông Wilson đã
phải nhân nhượng nhiều, sửa chữa nguyên
tắc hạ giảm trang bị quân sự tới
mức thấp nhất thành “thích hợp với
nền an ninh quốc gia”. Muốn khiến cho Nhật
Bản tham gia, ông Wilson phải ưng thuận cho
Nhật Bản chiếm giữ các tài sản cũ
của Đức tại Trung Hoa và để làm
vừa lòng nước Pháp, phải loại nước
Đức và nước Nga ra khỏi khối liên
hiệp, dù cho đây là liên hiệp của mọi
quốc gia. Cuối cùng, Hội Quốc Liên vẫn không
được các quốc gia chính chấp nhận.
Vào năm 1920, Thượng Viện Mỹ đã không phê
chuẩn Hiệp Ước Versailles vì e ngại rằng
nếu Hoa Kỳ là thành viên của Hội Quốc Liên
thì nước Mỹ sẽ phải tham gia vào các
cuộc chiến của châu Âu trong tương lai
bởi vì cuộc chiến tranh đã chứng tỏ
rằng khối Đồng Minh thắng trận là do
sự can thiệp của Hoa Kỳ. Dù sao, các căn
bản về Hội Quốc Liên vẫn là nền móng
cụ thể cho một tổ chức quốc tế sau
này, là Liên Hiệp Quốc, được thành lâp sau
Thế Chiến Thứ Hai.
5/ Nhận định về Thế Chiến Thứ
Nhất.
Trong 5
tuần lễ sau vụ ám sát tại Sarajevo, các vận
động ngoại giao đã là một “bi kịch
của cách tính toán sai lầm”, tạo ra cuộc
chiến. Cuộc Thế Chiến Thứ Nhất đã
là một thảm họa nên cuộc tranh luận về
trách nhiệm của thảm họa này vẫn còn
tiếp tục và gay gắt. Các nước chiến
thắng gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ và các đồng minh
đã nhấn mạnh rằng nước Đức
chịu trách nhiệm này nhưng các sử gia trong các
thập niên 1920 và 1930 cho rằng tất cả các nước
chính của châu Âu đã đưa Thế Giới vào
cảnh tàn sát.
Vào thập niên 1960, sử gia Fritz Fischer nhấn mạnh
rằng Hoàng Đế Đức William II và Thủ Tướng
Đức Bethmann-Hollweg đã cố ý thúc giục nước
Áo đánh xứ Serbia dù biết rằng cuộc
chiến này sẽ khiến cho người Nga về phe
với người Serbs và người Pháp ủng
hộ người Nga. Phe quyền lực Đức
lại nhận định rằng nếu đợi cho
nước Nga hồi phục sau cuộc chiến tranh
với Nhật Bản, nếu đợi cho quân đội
Pháp hùng mạnh sau đạo luật 3 năm động
viên, thì nước Đức không tránh sao khỏi
thất bại. Đây là lý do hành động của
Thủ Tướng Đức vì tham vọng muốn
thống trị châu Âu nhờ ưu thế quân lực.
Các nhà sử học quy trách nhiệm của cuộc
thế chiến này cho nước Áo vì ý định
thanh toán xứ Serbia mà không dùng tới một cuộc
dàn xếp, cho nước Đức vì muốn tạo
nên các xứ vệ tinh, muốn sáp nhập các miền
đất chung quanh, cho nước Nga vì ban hành lệnh
tổng động viên, đã biến đổi
một cuộc chiến giới hạn thành toàn
diện, còn nước Pháp chịu trách nhiệm đã
không ngăn cản nước Nga mà còn khuyến khích
việc tổng động viên và nước Anh đã
không bộc lộ rõ sự yểm trợ các nước
Đồng Minh ngay từ đầu.
Có sử gia không dùng tới việc quy trách nhiệm mà
cho rằng cuộc Thế Chiến là dấu hiệu cho
thấy rõ nền văn minh của châu Âu gặp
rắc rối: cách suy tôn sức mạnh, nỗi ám
ảnh dùng bạo lực, sự bất mãn và vỡ
mộng trước xã hội tư sản và sự bùng
nổ của chủ nghĩa quốc gia. Các vấn
đề khó khăn gây nên bởi cuộc Cách Mạng
Kỹ Nghệ đã không giải quyết được
bằng các cuộc bàn thảo trong khi hệ thống các
nước Đồng Minh gặp các khuyết điểm
và đã mang lại các hiểm nguy.
Trong Thế Chiến Thứ Nhất, nền khoa học và
kỹ thuật mới đã làm ra các dụng cụ
giết người hiệu quả hơn trước,
tinh thần dân tộc đã khiến cho cả hai
tầng lớp dân sự và quân sự quyết tâm chém
giết tới khi kẻ thù hoàn toàn ngã gục và các
chính quyền đã động viên tinh thần, nhân
lực và vật lực vào cuộc chiến tranh toàn
diện, và trong khi cảnh tàn sát man rợ đang
diễn ra thì các chính khách còn đòi hỏi phải
động viên hơn nữa, leo thang các bạo lực
và chịu đựng thêm các hy sinh. Bạo lực,
sự tàn nhẫn, sự đau khổ và ngay cả
cảnh chém giết hàng loạt được coi như
tự nhiên và chấp nhận được vào tư
tưởng và lối sống của mọi người.
Châu Âu vì thế đã trở thành một thứ lò
giết người hàng loạt trong bốn năm trường.
Trước các cảnh tàn sát khủng khiếp,
một binh lính trẻ người Pháp đã than vãn
rằng: “Nhân Loại đang điên”. Nền văn
minh của Phương Tây đã đi vào thời
kỳ đầy bạo lực, lo ngại và nghi
ngờ! Các nhà trí thức của châu Âu đã trở
nên chán nản và tỉnh ngộ trước cảnh
“thế giới của trật tự, hòa bình và theo lý
trí” đã bị tàn phá, họ đã mất đi vào
các niềm tin vào các giá trị tự do, dân chủ và
họ lo sợ trước tương lai. Thế
Chiến Thứ Nhất đã khiến cho nhiều dân
tộc hướng về các phong trào toàn trị
(totalitarian), các chế độ Phát Xít, và các ý
thức hệ này đã tiêu diệt nền dân chủ
(democracy).
Thế Chiến Thứ Nhất là cuộc tàn sát
rất ghê sợ: 10 triệu quân nhân đã chết, 20
triệu thương binh còn may mắn trở về,
tổng số nạn nhân là hơn 37 triệu kể
cả những người mất tích. Nước
Đức mất 6 triệu người, nước Pháp
cũng vậy, cuộc chiến này đã không mang
lại được lợi ích gì mà còn gây nên các
xung đột mới, khủng khiếp hơn trong tương
lai. Chế độ độc đoán của Hoàng
Đế Đức đã bị tiêu diệt nhưng
miền đất này lại được chuẩn
bị cho các thể chế độc tài mới. Hai mươi
năm sau chiến cuộc chấm dứt, lại có
gần gấp hai số người cầm súng, các
cạnh tranh và ghen ghét vì quốc gia và chủng tộc
đã ăn sâu hơn trước kia.
Nếu chiến tranh toàn cầu đã làm cho thế
giới trở nên các trại lính, thì các chính phủ
nhận ra sự cần thiết phải trù liệu và
phối hợp trên bình diện quốc tế, các
nền kinh tế cần được điều hành,
kiểm soát xuất cảng, nhập cảng và cách dùng
nhân lực, cả về dân sự lẫn quân sự.
Chiến tranh đã làm đảo lộn nền mậu
dịch thế giới. Do không có hàng hóa nhập
cảng từ châu Âu, các nước Nhật Bản,
Ấn Độ và Nam Mỹ đã phát triển các
kỹ nghệ của riêng họ. Chiến tranh cũng làm
gia tăng nạn lạm phát trên thế giới
khiến cho giới trung lưu bị ảnh hưởng
nhất. Mặt khác ngoài các cơ cực, chiến tranh
cũng mang lại sự tự do cho nhiều giới. Do
nhu cầu của các chính quyền cần người
phụ nữ làm việc trong các nhà máy hay các nông
trại, lớp người này được tạm
thời giải phóng và do công cuộc đóng góp vào
chiến thắng, giới phụ nữ được
quyền bỏ phiếu tại Hoa Kỳ và Anh Quốc vào
năm 1918 và 1920.
Thế Chiến Thứ Nhất đã là một cuộc
tàn sát rộng lớn và vô ích, là kết quả
của cuộc xung đột không cần thiết do
một số nhà chính trị tham vọng, đã điều
hành sai đường lối vì các mối lợi
quốc gia, phản bội lại nền Hòa Bình
Thế Giới.
Phạm Văn
Tuấn
(Đặc San Lâm Viên)
Tài liệu tham
khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia; Western
Civilizations by Robert E. Lerner, Standish Meacham & Edward Mcnall
Burns, W.W. Norton & Co., NY, London, 1998.
|