BĂI TƯ CHÍNH : nghĩ ǵ ? làm ǵ ? GS.Lê Đ́nh Thông |
Băi
Tư Chính là địa danh riêng của nước ta.
Băi này rộng 33,88 km², từ trước 1975 đến
nay được đặt trực thuộc tỉnh Bà
Rịa. Bản đồ của Tầu ghi là 万安滩 (Vạn
An than -> than : băi). Trong năm 1994, Việt
Nam thiết trí hai đặt giàn khoan DK1/11, DK1/12. Năm
1995 thêm giàn khoan DK1/14. Ngoài ra, c̣n hai ngọn hải
đăng cao 22 m, có độ chiếu 2 hải lư.
Tuy Bắc Kinh tự ư đặt tên cho băi cạn này là Vạn An nhưng lại luôn khuấy động, gây bất ổn. Theo trang twitter ngày 10/07/2019 của giáo sư Ryan Martinson, Học viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc thuộc Đại Học Hải chiến Hoa Kỳ tại Newport, Rhode Island, tầu Hải dương Địa chất Bát Hào (Hai Yang Di Zhi Ha Hao) đă thực hiện hoạt động thăm ḍ địa chất ở vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường Sa, có các tầu chiến hộ tống, theo công lệnh của Cơ quan Khảo sát Địa chất Trung Quốc (China Geological Survey). Ngày
19/07, tuyên bố của bộ Ngoại giao Việt Nam
cho biết : ‘‘Trong
những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương
8 của Trung Quốc đă vi phạm vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Đây là vùng
biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác
định theo đúng các quy định của Công
ước của Liên Hiệp Quốc về luật
biển (UNCLOS) 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều
là thành viên’’. Ta nghĩ ǵ về những sự việc vừa kể ? Các suy nghĩ này phải chăng gợi ư một số hành động cần thiết để đối phó với t́nh thế ? I
- Băi Tư Chính : nghĩ ǵ ?
Trong tháng 07/2019, trong vụ băi Tư Chính, người ta chỉ đề cập đến yếu tố quân sự (tầu chiến Hoa Kỳ) mà bỏ qua khía cạnh chính trị. Thời sự ‘‘Băi Tư Chính’’ hiện nay có khác ǵ bối cảnh lịch sử nước ta vào năm 1284 : đại quân nhà Nguyên 50 vạn binh lính từ phương Bắc, kết hợp với 10 vạn quân của Toa Đô từ Chiêm Thành, hai mặt giáp công thôn tính nước ta. Năm 1284, thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập hội nghị Diên Hồng tại kinh thành Thăng Long để trưng cầu dân ư. Theo Đại Việt Sử kư Toàn thư, quyển 5, trong hội nghi, các vị phụ lăo đồng thanh hô vang ‘‘Đánh’’. Địa
danh ‘‘Tư Chính’’ của miền Nam từ trước
1975 mang các ư nghĩa như sau : -
chữ TƯ (諮) có nghĩa
là tư tuân dân ư (諮詢民意),
cũng giống như là trưng cầu dân ư trong
lịch sử nước ta, thể hiện qua hội
nghị Diên Hồng. -
chữ CHÍNH (政)
vừa có nghĩa là chính trị : muốn giải
quyết các tranh chấp ở băi Tư Chính, yếu
tố quân sự không đủ, cần có cả
yếu tố chính trị. Chữ CHÍNH c̣n có nghĩa là
chính đạo (正道). Xuyên
suốt lịch sử nước ta từ thời
lập quốc đến nay, việc ǵn giữ bờ
cơi là nhiệm vụ thiêng liêng, bất thành văn
của toàn dân, sau này được ghi trong hiến pháp : -
Hiến pháp VNCH năm 1967,
điều 5, khoản 2 định rằng : ‘‘Việt
Nam Cộng Ḥa cương quyết chống lại
mọi h́nh thức xâm lược và nỗ lực góp
phần xây dựng nền an ninh và ḥa b́nh thế
giới.’’ -
Hiến pháp Cộng ḥa Xă
hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 64 ghi
rằng : ‘‘Bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xă hội chủ nghĩa
là sự nghiệp của toàn dân.’’ 1)
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa Phạm Văn Đồng đă gửi
Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng ḥa Nhân
dân Trung Hoa Chu Ân Lai công hàm ngày 14/09/1958,
nguyên văn như sau: ‘‘Thưa
Đồng chí Tổng lư, Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí
Tổng lư rơ: Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm
1958, của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải phận 12
hải lư của Trung Quốc. Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn
trọng quyết định ấy và sẽ chỉ
thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải
lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước
Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi
xin kính gửi Đồng chí Tổng lư lời chào
rất trân trọng.’’ Chính
quyền Trung Quốc cho rằng công hàm của Phạm
Văn Đồng là bằng chứng cho thấy chính
quyền Việt Nam đă công nhận chủ quyền
của Trung Quốc đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Nội
dung văn kiện kể trên đă quá rơ ràng. Có hai
điểm sau đây cần lưu ư về h́nh
thức : - Công
hàm (公函 :
Correspondance diplomatique) là yếu tố cấu thành
hiệp ước, có khả năng phát sinh những
quyền lợi và nghĩa vụ trong luật quốc
tế. -
Cách xưng hô (appellation) :
‘‘Thưa Đồng chí Đổng lư’’ chứng
minh quan hệ mật thiết giữa hai đảng
cộng sản Tầu và Việt (trước đây
gọi là đảng Lao động Việt Nam). Mao
Trạch Đông đă gọi quan hệ này là ‘‘môi
hở răng lạnh’’. Công hàm chứng minh đảng
cộng sản Việt Nam thần phục đảng
cộng sản Tầu. Chừng nào c̣n đảng
cộng sản Việt Nam, mối quan hệ bất b́nh
đẳng này vẫn không thay đổi. 2)
Ba văn kiện kư tại Bắc Kinh ngày 18/11/2009 : -
Hiệp định về quy chế quản lư biên
giới trên đất liền giữa Chính phủ nước
Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa; -
Hiệp định về cửa khẩu và quy chế
quản lư cửa khẩu biên giới trên đất
liền giữa Chính phủ nước Cộng ḥa xă
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa; -
Nghị định thư phân giới cắm mốc biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc
giữa Chính phủ nước Cộng ḥa xă hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa. Các
văn bản nói trên đưa đến việc
Hữu Nghị Quan hiện nay không c̣n giữ nguyên
trạng Ải Nam Quan trước đây, mà lấn sâu
về lănh thổ Việt Nam.
3) Dự
thảo luật (sau đây gọi tắt là dự
luật) đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc
(gọi tắt là đặc khu) gồm 6 chương 85
điều. Điều 58 quy định : – đặc
khu Vân Đồn trực thuộc tỉnh Quảng Ninh; – đặc
khu Bắc Vân Phong trực thuộc tỉnh Khánh Ḥa; – đặc
khu Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Ba đặc
khu ở ba miền đất nước mở
đường cho Bắc Kinh từng bước thôn tính
Bắc, Trung, Nam. Về mặt địa lư chiến lược,
việc thiết lập ba đặc khu c̣n cho phép
Bắc Kinh xâm nhập vùng lănh hải, chiều rộng
12 hải lư của nước ta, theo quy định
của công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, công bố ngày 10/12/1982. 4) Việc
người Hoa mua nhà đất, biến nhiều thành
phố Việt Nam thành ‘‘China Town’’ cuỉa Tầu.
Các sự kiện trên đây khiến những ai ưu
tư đến vận mệnh đất nước có
ư nghĩ phải làm ǵ ? II
- Băi Tư Chính : làm ǵ ? Chỉ
với tên gọi Tư Chính, biến cố đang
diễn ra tại băi Tư Chính gợi ư một
giải pháp chính trị. Vào thế kỷ XIII, nước
ta chiến thắng quân Nguyên là nhờ yếu tố toàn
dân. Trong
bối cảnh hiện nay, thật là thiếu sót
nếu chỉ trông cậy vào sự can thiệp của
hải quân Hoa Kỳ mà không đếm xỉa ǵ
tới yếu tố toàn dân. Toàn
dân nói đây là 97,5 triệu đồng bào ruột
thịt trong nước, sát cánh cùng 1,8 triệu người
gốc Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, 180 ngàn người
tại Canada, 150 ngàn người tại Úc, 250 ngàn
tại Pháp, 90 ngàn tại Đức và cộng đồng
người Việt ở rải rác trên khăp năm
châu. Ngày nay, họ là các cử tri, tác động lên
chính sách ngoại giao của nước sở tại. Toàn
dân không phải chỉ là 24 ủy viên bộ chính
trị, không do dân cử, mà chỉ đại diện
cho đảng cộng sản, ‘‘đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lănh
đạo Nhà nước và xă hội.’’ (điều
4 Hiến pháp 2013). Trong thực tế, bộ chính
trị đảng cộng sản hiện nay gồm toàn
là thành phần tư sản mại bản, làm giàu phi
pháp trên giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đă khiến đất nước ch́m đắm
suốt nửa thế kỷ trong ‘‘chuyên chính vô
sản’’, từ 1945 đến 1994 là năm Mỹ
bỏ cấm vận. Biến cố Tư Chính gợi
ư một giải pháp triệt để cho đất nước :
tu chính Hiến pháp. Trị
liệu pháp chính trị cũng giống như trị
liệu pháp áp dụng trong y khoa : cắt bỏ
phần thối nát trong một bộ phận (ablation
d’une partie d’un organe). Những người có lương
tri đều nhận thấy trong hiện t́nh đất
nước, điều 4 hiến pháp không c̣n lư do
tồn tại nữa. Đảng cộng sản
Việt Nam tỏ ra khiếp nhược trước
sự uy hiếp thường xuyên của đảng
cộng sản Tầu. Chỉ có thế toàn dân với
sự ủng hộ của cộng đồng quốc
tế và khu vực mới làm cho nước Tầu
phải chùn bước. Nếu
bỏ điều 4, ta sẽ thay bằng quy định
mới nào ? Ngày
27/01/1973, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
(tiền thân của Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa
Việt Nam) đă kư tại Paris hiệp định
chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh
ở Việt Nam. Điều
11 của hiệp định quy định việc -
‘‘thực
hiệp ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, xóa bỏ
thù hận, cấm mọi hành động trả thù và
phân biệt đối xử với những cá nhân
hoặc tồ chức đă hợp tác với bên này
hoặc bên kia ; -
Bảo đảm các quyền tự do dân chủ
của nhân dân : tự do cá nhân, tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ
chức, tự do hoạt động chính trị,
tự do tín ngưỡng, tự di đi lại, tự
do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư
hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.’’ Hà
Nội đă kư mà không tôn trọng bất cứ
một quy định nào ghi trên. Nếu điều 11
của hiệp định thay thế điều 4
hiến pháp hiện nay, cái lợi trước mắt là
tạo được thế toàn dân, làm sống
lại tinh thần của hội nghị Diên Hồng
năm 1284. Ngoài ra, với những biến chuyển
hiện nay, làm sao tránh được việc chế
độ cộng sản sụp đổ. Điều
khoản mới sẽ là lá chắn pháp lư, bảo
đảm để các thành viên của chế độ
cũ (cộng sản) không phải vùi thân trong tù
ngục cải tạo như trường hợp các
cựu viên chức VNCH bị cộng sản đầy
ải, bức tử sau năm 1975. Về
thủ tục tu chính, điều 120 hiến pháp
quy định quy định như sau : ‘‘Chủ
tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một
phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp,
sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết
định việc làm Hiến pháp, sửa đổi
Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng
số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành.’’ Quốc
hội hiện nay có 494 đại biểu.
Như vậy cần có hai phần ba số đại
biểu, tức 333 vị, bỏ phiếu tán thành. Ba con
số 3 : ‘‘Tam Tam Tam’’ thật là có có nghĩa.
Người dân kêu gọi lương tri của quư
vị đại biểu để Quốc hội có các hành
động kịp thời, thích hợp ; đáp
ứng được nhu cầu cấp thiết của
thời cuộc. Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách. Huống hồ là các vị đại biểu quốc hội ? GS.Lê
Đ́nh Thông
|