BIỂN NAM
TRUNG HOA: YẾU TỐ DẪN TỚI ĐỆ TAM
THẾ CHIẾN? Đại-Dương |
Tài
liệu tham khảo: Four Ways a China-US War at Sea Could
Play Out (Bloomberg) ‘Getting tough on China’ more
rhetoric than reality (Asia Times) Senate’s Strategic Competition Act Will
Make China-US Relations Worse, Not Better (Diplomat) It’s Time to Talk About J-15, China’s
First Carrierborne Fighter (Diplomat) BIỂN NAM TRUNG HOA:
YẾU TỐ DẪN TỚI ĐỆ TAM THẾ
CHIẾN? Đại-Dương
Nhân
loại từng chịu đựng hai cuộc Thế
chiến với những hậu quả khủng
khiếp ngoài sức tưởng tượng, kể
cả những kẻ hoang tưởng nhất. Nhưng,
loài người phải chứng kiến những
cảnh đoạ đày, những h́nh phạt độc
ác vô cùng tận xảy ra trong các Chế độ
Cộng sản hoặc giả danh Xă hội Chủ nghĩa.
Ngăn chặn sự lan tràn của Chủ nghĩa
Cộng sản phát triển thành Thế chiến đă
đặt lên trên vai người Mỹ. Mặc
dù Đệ tam Quốc tế dưới sự lănh
đạo của Liên Sô đă tan ră và bị lăng quên.
Nhưng, từ một góc trời Châu Á đă nổi lên
một Đế chế Cộng sản mệnh danh
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC) ôm tham vọng thống
trị toàn cầu với các vệ tinh Việt Nam,
Bắc Triều Tiên, Cuba. Liên
Sô chú trọng về ưu thế quân sự nên dễ
đối phó hơn. Trái lại, Trung Quốc muốn
thống trị thế giới bằng các biện pháp
quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá, xă
hội, khoa học kỹ thuật như các chiếc ṿi
bạch tuộc nên phương thức đối phó
phải đa dạng và đồng bộ trong một
liên minh yêu chuộng hoà b́nh, công lư, luật pháp
quốc tế. Nhằm
hạn chế sự bành trướng của Bắc
Kinh trên phương diện quân sự nên Bộ
chỉ huy của Hoa Kỳ tại Ấn Độ-Thái
B́nh Dương (USINDOPACOM) do một Đô đốc
Hải Quân làm Tư lệnh để điều động
380,000 bộ binh, thuỷ quân lục chiến, không quân,
vệ binh, bảo vệ duyên hải, và dân sự có trách
nhiệm với tất cả hoạt động quân
sự trong khu vực bao trùm 36 quốc gia, 14 múi giờ
và hơn 50% dân số thế giới. Mỗi
vị Tư lệnh Lực lượng đồ
sộ này có nhiệm kỳ 3 năm mà hiện tại
(2021-) do Đô đốc John C. Aquilino chỉ huy. Người
tiền nhiệm, Đô đốc Philip S. Davidson
nhiệm kỳ 2018-2021 đă nói trước Thượng
viện Hoa Kỳ rằng cuộc chiến với Trung
Quốc có thể diễn ra trong ṿng 6 năm. Nhưng,
người kế nhiệm lại cho rằng điều
ấy có thể xảy ra sớm hơn v́ Bắc Kinh xác
định Tây Phương suy thoái nên phải chớp
thời cơ. Cựu
Đô đốc James G. Stavridis từng làm Tư
lệnh Đồng minh Tối cao Châu Âu (SACEUR) từ
2009-2013 rồi giải ngũ, dạy Đại học
và viết sách lẫn b́nh luận trên báo chí. Trong
bài “Four Ways a China-US War at Sea Could Play Out” được
đăng trên The Bloomberg ngày 26/04/2021, Đô đốc
Stavridis đă nêu ra “4 điểm nóng” mà Hải quân
Trung Quốc có khả năng tấn công quân sự
chống lại Mỹ và các đồng minh, đối
tác và bạn bè. Đó là eo biển Đài Loan;
Nhật Bản và Biển Đông Trung Hoa (ECS); Biển
Nam Trung Hoa (SCS); và các vùng biển xa hơn xung quanh các nước
Indonesia, Singapore, Australia và Ấn Độ. Mặt trận Đài Loan và Eo biển Đài Loan Khu
vực này là ưu tiên hàng đầu của Bắc
Kinh liên quan đến chủ trương thống
nhất đất nước Trung Quốc dựa vào:
(1) Trung Quốc từng cai trị Đài Loan. Nhưng,
thực tế Đảo Quốc này cũng từng là
thuộc địa của Hoà Lan từ năm 1642. Nhà
Minh kiểm soát Đài Loan từ 1662 rồi bị Nhà
Thanh cướp vào 1683. Chiến tranh Thanh-Nhật năm
1895 buộc Bắc Kinh nhượng Đài Loan và Bành
Hồ cho Đế quốc Nhật Bản. Từ đó
làm bàn đạp cho Nhật Bản mở rộng
thuộc địa tới Đông Nam Á, Thái B́nh Dương,
Đệ nhị Thế chiến. (2) Nước Trung Hoa
có hai chế độ đối chọi nhau tại Hoa
Lục và Đài Loan sau WWII và người gốc Hoa
ở Đài Loan ngày càng có xu hướng coi như người
Đài Loan trên phương diện chính trị nên
Bắc Kinh khó thống nhất bằng biện pháp
phi-quân-sự. (3) Thông cáo chung Thượng Hải
được Tổng thống Richard Nixon và Thủ tướng
Chu Ân Lai kư ngày 27/02/1972 công nhận một nước
Trung Hoa, hai chế độ chính trị và phải
thống nhất bằng biện pháp hoà b́nh. Bởi v́
Tổng thống Tưởng Giới Thạch vẫn coi
như đại diện cho dân tộc Trung Hoa. Tuyên
bố chung Trung Quốc-Anh Quốc năm 1997 cho phép
Hồng Kông có chế độ tự trị cho đến
năm 2049 đă bị Bắc Kinh đơn phương
chấm dứt vào 2020 làm cho dân chúng Đài Loan không c̣n
ảo tưởng về chính sách “hai nước Trung
Hoa” v́ nhành ô liu do Bắc Kinh ch́a ra đă trở thành
lưỡi kiếm đâm vào cổ 24 triệu dân
Đài Loan. Dù
Hoa Kỳ không có Hiệp ước Pḥng thủ chung
với Đài Loan, nhưng, Đạo luật Quan
hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act, TRA) của Hoa Kỳ có
hiệu lực từ 10/10/1979 nhằm vào Ngày Quốc Khánh
của Trung Hoa Dân Quốc hàm ư bảo vệ Đài
Loan bằng mọi giá. Hơn nữa, Đài Loan
hiện nay là ḷ sản xuất các loại chip điện
tử cần thiết nhất cho sự tiến bộ
của loài người. V́ thế, ngoài Hoa Kỳ c̣n có
Nhật Bản, Tây Âu phải có trách nhiệm bảo
vệ Đài Loan. Đài
Loan tuy bé, nhưng đă tự trang bị và mua từ nước
ngoài, đặc biệt của Mỹ, nhiều khí tài
quân sự thuộc loại tiên tiến, đồng
thời với ḷng quyết tâm bảo vệ đất
nước ngày càng dâng cao. Khó
khăn của Trung Quốc: (1) Dân Đài Loan từ
chối thống nhất với Hoa Lục. (2) Hoa Kỳ
và các cường quốc không chấp nhận Bắc
Kinh thống nhất bằng vũ lực. (3) Chiếm
Đài Loan đă khó mà bảo vệ sau khi chiếm
đóng càng khó hơn nhiều v́ sẽ bị bao vây trên
biển, trên không. (4) Hải quân và Không quân của
Trung Quốc không thể thắng Hoa Kỳ và Nhật
Bản trên hai Biển Đông Trung Hoa. Đài
Bắc đă tận dụng mọi khả năng
của 24 triệu dân sẵn sàng đương đầu
với Bắc Kinh. Nhưng, sức người có
hạn cần phải có đồng minh và bạn bè cùng
chung ư chí bảo vệ độc lập, tự do cho
Đài Loan. Mặt trận Nhật Bản và Biển Đông
Trung Hoa Từ
năm 1894 đến 1895, Hải quân Nhật Bản tuy
được trang bị vũ khí kém Hạm đội
Hải Dương của Nhà Thanh mà vẫn tiêu
diệt được Hạm đội này buộc
Đế quốc Đại Thanh phải trao Triều Tiên
và Đài Loan cho Nhật Bản. Hải
chiến Tsushima (Hải chiến Đối Mă) năm
1904, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đă
tiêu diệt hoàn toàn một Hạm đội của
Hải quân Đế quốc Nga. Từ
đó, Nhật Bản trở thành chủ nhân ông
của các biển ở Châu Á sau khi đánh bại
triệt để hai cường quốc Hải quân
Trung Hoa và Nga. Lực
lượng Pḥng vệ Duyên hải Nhật Bản
hiện có 2 Hàng không mẫu hạm được trang
bị bằng các Tiêm kích cơ F-35B tàng h́nh cất và
hạ cánh thẳng đứng. Nhật sở hữu
số F-35 đứng thứ nh́ sau Hoa Kỳ. Nhật có
nhiều tiềm thuỷ đỉnh diesel xuất
sắc, máy bay tuần tra tầm xa được
phối hợp chặt chẽ và thống nhất.
Nhật Bản c̣n nổi tiếng trong lĩnh vực săn
ngầm, đặc biệt về tiềm thuỷ đỉnh.
Các khu trục hạm đều được trang
bị Hệ thống Tác chiến Aegis của Hoa Kỳ.
Đông Kinh sẽ có Tiềm thuỷ đỉnh tàng h́nh
phi-nguyên-tử vào năm 2022. Bắc
Kinh công khai đ̣i Nhóm Đảo Điếu Ngư
thuộc chủ quyền Nhật Bản với tên
Senkaku được Hoa Thịnh Đốn xác nhận
sẽ kích hoạt Hiệp ước Pḥng thủ
Hỗ tương nếu bị tấn công. Đệ
thất Hạm đội lớn nhất trong Hải quân
Hoa Kỳ đồn trú tại hải cảng Yokosuka
với 60 chiến hạm, 300 chiến đấu cơ và
60,000 gồm thuỷ thủ, thuỷ quân lục
chiến, nhân viên dân sự chịu trách nhiệm
bảo vệ Biển Đông Trung Hoa và Biển Nam Trung
Hoa. Tokyo đă thoả thuận hỗ trợ 1.9 tỷ
USD cho 55,000 lính Mỹ trú đóng ở Nhật Bản. Lực
lượng quân sự của Đại Hàn vào năm
2020 được xếp hạng ba ở Châu Á và
hạng 6 thế giới có Hiệp ước Pḥng
thủ chung với Hoa Kỳ từ năm 1953, kể
cả dù che nguyên tử. Đại Hàn có 600,000 binh sĩ
dưới cờ và 3.1 triệu trừ bị. Ngành
sản xuất phương tiện chiến tranh của
Đại Hàn trang bị 70% cho ḿnh và đă xuất
cảng ra nước ngoài khoảng 3 tỷ USD vào năm
2012. Hiện có 28,000 binh sĩ Mỹ đồn trú
ở Đại Hàn và Hán Thành đồng ư đóng thêm
chi phí mà không cho biết con số. Đảo
Guam được coi như Hàng không mẫu hạm vĩnh
cửu có một Căn cứ Không quân ở phía
Bắc và một Căn cứ Hải quân ở phía Nam.
Guam có các Oanh tạc cơ chiến lược như
B-2 (tàng h́nh), B-1, và B-52 được luân phiên từ
Hoa Kỳ. Guam có 7,000 lính Mỹ trong số 160,000 cư dân.
Bắc
Kinh chưa đủ khả năng đương đầu
với một Lực lượng Quân sự hùng
hậu của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đại Hàn,
Đảo Guam nên khó khai chiến. Mặt trận trên Biển Nam Trung Hoa Trung
Quốc có lợi thế hơn trên Biển Đông
Trung Hoa: (1) Các quốc gia duyên hải Đông Nam Á đều
có Hải quân yếu trên phương diện chiến
hạm và kinh nghiệm hải chiến. (2) Hầu
hết họ lệ thuộc về kinh tế với
Trung Quốc ở từng mức độ khác nhau nên
dễ bị áp lực từ Bắc Kinh. Cộng đồng
người Hoa v́ lợi ích kinh tế và chủng
tộc vẫn công khai hoặc kín đáo ủng hộ
mọi quyết định của Bắc Kinh. (3)
Bắc Kinh chỉ cần sử dụng một trong các
nước Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan để làm
thất bại các mưu đồ chống bành trướng
trên SCS của ASEAN. Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á ở vào thế
yếu: (1) Chưa có nước nào đủ khả năng
đương đầu hữu hiệu với các
lực lượng Hải quân, Hải cảnh, Dân quân
Biển Trung Quốc. (2) Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă
Lai Á có các vùng biển chồng lấn mà không giải
quyết bằng Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). (3) Việt Nam có
chung ư thức hệ Cộng sản với Trung Quốc
nên chỉ chống có giới hạn. Biển
Nam Trung Hoa đóng vai tṛ quan trọng trên các phương
diện quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao
của Bắc Kinh: (1) Chiếc ao nhà để thao dượt
lực lượng viễn chinh. (2) Độc quyền
khai thác tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt khối
“băng cháy” (natural hydrate) dưới đáy
biển. (3) Tạo một lực lượng làm gia công
và tiêu thụ hàng hoá của Trung Quốc. (4) Dựng lên
những lănh tụ độc tài để áp dụng
Chủ thuyết Cộng sản theo khuôn mẫu Trung
Quốc. (5) Áp dụng kiểu ngoại giao “hứa mà
không làm” như trường hợp đầu tư
24 tỉ USD cho Phi Luật Tân mà chỉ nhỏ giọt.
Và, “làm mà không hứa” như hối lộ viên
chức bự khiến cho các quốc gia Đông Nam Á như
con thuyền đi vào trận băo. Muốn
thoát khỏi sự chèn ép của Bắc Kinh trên SCS th́
các quốc gia duyên hải Đông Nam Á cần xác định
rơ ràng: (1) Cai trị Đông Nam Á là bước đầu
trên con đường thống trị thế giới
của Trung Quốc . (2) Từng quốc gia hoặc
hợp lại cũng không đủ sức chống
lại chiến lược bành trướng của
Bắc Kinh. (3) Các quốc gia duyên hải Đông Nam Á
phải dựa vào UNCLOS để giải quyết các
tranh chấp về chủ quyền biển đảo trước
khi đàm phán về Quy tắc Ứng Xử trên SCS
(COD) với Trung Quốc. (4) Công khai hợp tác toàn
diện với Hoa Kỳ. Dù Nhật Bản, Đại
Hàn c̣n yếu (nhưng, mạnh gấp bội so với
các quốc gia duyên hài ĐNA) mà Bắc Kinh cũng không
dám chèn ép nói chi tới động binh. Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á phải nhanh chóng
lấy quyết định v́ sau khi Tổng thống Joe
Biden thoả hiệp với Chủ tịch Tập
Cận B́nh th́ nhiều đảo nhân tạo của
Trung Quốc sẽ mọc lên như nấm tại
Spratly Islands (Trường Sa, Nam Sa) như thời Barack
Obama-Joe Biden từng để Trung Quốc chiếm đoạt
Scarborough Shoal năm 2012 do Phi Luật Tân trấn giữ
và xây bảy đảo nhân tạo năm 2014. Dưỡng hổ di hoạ Sau
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, giới lănh đạo
Tây Phương tiến hành chính sách “phát triển
kinh tế kéo theo thay đổi chính trị theo hướng
dân chủ” nên phóng tay viện trợ, đầu tư,
chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nhân tài cho
Trung Quốc bất chấp những lời cảnh cáo
của một số chuyên gia quốc tế về
những hậu quả nghiêm trọng có thể tác
hại tới trật tự thế giới. Lănh
tụ Đặng Tiểu B́nh và các nhân vật kế
nhiệm đă moi gan, móc ruột từ Hoa Kỳ cho
tới các quốc gia chậm tiến nhất. Kẻ
cung cấp kiến thức, người bán tài nguyên thiên
nhiên để được nhận lại thâm
hụt ngân sách triền miên, hàng độc, hàng
giả, hàng nhái và tuyên truyền dối trá. Một
số cựu thủ tướng Châu Âu, Châu Úc,
học giả, nhà báo Tây Phương nhiệt t́nh
tiết lộ cho giới lănh đạo Bắc Kinh
biết hết mọi đường lối chính sách
quốc gia. Đồng thời, biện minh cho các
việc làm của Bắc Kinh theo sự gợi ư,
hoặc đút lót hậu hĩ. Đă có nhiều chính
khách, học giả, truyền thông, lănh tụ đấu
tranh ở Tây Phương dính “chiêu hối lộ”
để làm lợi cho Trung Quốc. Hôm
30/04/2021, Hăng thông tấn AFP cho biết vị cựu
Cố vấn An ninh Quốc gia kiêm Ngoại trưởng
Mỹ thập niên 1970. Henry Kissinger cảnh báo rằng căng
thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung có thể cuốn theo
toàn thế giới và có thể dẫn đến
một cuộc xung đột kiểu tận thế
giữa hai gă khổng lồ quân sự và công nghệ. Kissinger
nói rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với
Trung Quốc cần phải được tiếp
cận hai hướng: vừa duy tŕ các nguyên tắc
của Mỹ, yêu cầu Trung Quốc tôn trọng; đồng
thời duy tŕ đối thoại liên tục và t́m
kiếm các lĩnh vực hợp tác. Thực
tế, suốt 49 năm trôi qua, Bắc Kinh đă phá
hoại luật pháp quốc tế trong nhiều lĩnh
vực để dọn đường thống
trị thế giới. Liên
Sô sụp đổ v́ bị cô lập toàn diện
chứ không phải nhờ Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Đại Hàn, Châu Âu hợp tác vô-điều-kiện. Bắc
Kinh chỉ xem Biển Đông Trung Hoa như “diện”
để che dấu “điểm” ở Biển Nam
Trung Hoa nên chỉ doạ, quấy rối mà không dám
động binh với Đài Loan và Biển Đông
Trung Hoa v́ giới lănh đạo Trung Quốc biết rơ
họ sẽ mất hết những thành quả gôm góp
được từ năm 1972. Do
đó, mặt trận trên Biển Nam Trung Hoa dễ bùng
nổ hơn hết nếu nh́n về tương quan quân
sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao. V́
thế, các quốc gia duyên hải Đông Nam Á cần
suy nghĩ chu đáo khi chọn bạn mà chơi,
hợp tác với hạng người trung thực và
can đảm từ tư tưởng tới hành động.
Chơi với Trung Quốc chẳng khác chi chơi
với ác! Đại-Dương |