Giải
quyết các xung đột ở Biển Đông Đỗ Kim Thêm dịch |
Mặc
dù thắng được Trung Quốc trong cuộc
tranh tụng về băi cạn Scarborough, Philippines đă
đề cập vấn đề này một cách
hết sức thận trọng. Phương sách
mềm dẻo của Philippines đă mở ra một cánh
cửa để đạt đến một thỏa
thuận chung khả thi với đối thủ
mạnh của ḿnh về các quyền đánh cá trong
vùng biển c̣n tranh chấp. Dự
báo Philippines
sẽ tiếp tục sử dụng chiến lược
củ cà rốt và cây gậy đối với Trung
Quốc trong vấn đề Biển Đông, họ
chọn cách không thổi pḥng việc thắng
kiện gần đây tại Ṭa án Trọng tài Thường
trực để đạt thỏa hiệp. Đánh
cá xung quanh băi cạn Scarborough sẽ là một vấn
đề quan trọng của sự hợp tác, nó
sẽ tiến hành thông qua các cuộc đàm phán song
phương. Tuy
nhiên, nghị quyết thực sự của các
việc tranh chấp biên giới trong khu vực sẽ
c̣n khó đạt, thậm chí có thể c̣n bị tŕ
hoăn bởi các thỏa thuận để làm xoa
dịu căng thẳng. Phân
tích Các
quốc gia có tranh chấp chủ quyền ở
Biển Đông vẫn đang điều chỉnh
để xác định cách quy định lănh
hải trong khu vực. Ngày 12 tháng 7 Ṭa án Trọng tài
Thường trực công bố quyết định
việc vô hiệu hoá các yêu sách của Trung Quốc
chiếu theo Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS), đặc biệt hơn Toà c̣n
quy định rằng băi cạn Scarborough không có các
ḥn đảo và do đó không có vùng đặc
quyền kinh tế để đ̣i hỏi. Quyết
định này đánh dấu thắng lợi cho
Philippines, dù Manila cũng cho là băi cạn này là
của riêng ḿnh mà Bắc Kinh đă chiếm. Ít
nhất, Philippines đă t́m cách để đảm
bảo rằng Trung Quốc không thể kiểm soát băi
cạn này về mặt pháp lư và bằng cách mở
rộng, Philippines đă mở ra cơ hội cho các nước
khác cách phân vạch Biển Đông để mặc
cả về vị trí của Trung Quốc chiếu
theo UNCLOS. Nhưng
sau khi thắng kiện, Philippines đă thể hiện
đối sách một cách cẩn thận. Manila
biết thế yếu của ḿnh - quân sự của
Trung Quốc mạnh hơn nhiều. Nhưng Philippines
đă thắng trên chính trường quốc tế mà
họ chưa từng có trước đây (ngay
cả khi chủ yếu xem đó là tượng trưng).
Phán quyết này có thể gây cho Trung Quốc đau
đầu nặng nề, và dù kềm chế kiên tŕ
theo phán quyết, Manila đang gây khích lệ cho
Bắc Kinh mang lại sự thỏa hiệp và thích
nghi. Ví dụ như Tổng thống Philippines Rodrigo
Duterte đă nói rằng ông sẽ không đưa phán
quyết này ra tại hội nghị thượng
đỉnh tháng chín của Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Bằng cách đó,
Manila có thể bảo toàn lợi ích cốt lơi
của ḿnh và đạt được một số
nhượng bộ của Trung Quốc, trong khi
tiếp tục hợp tác với Nhật Bản, Hoa
Kỳ và các cường quốc bên ngoài khác. Trong
bối cảnh năng động mới này, đàm
phán về một hiệp ước giữa Manila và
Bắc Kinh đă tập trung vào một chủ đề
cụ thể là đánh cá. Thủy
sản là vấn đề lớn tại biển
Đông. Theo một ước tính có khoảng 1.720.000
tàu đánh cá hoạt động trong vùng biển,
sử dụng khoảng 5,4 triệu người.
Cuộc đối đầu với các tàu tuần
tra xung quanh nhiều nơi c̣n gây tranh căi về
hải phận - và trong các vùng biển của
quốc gia cận duyên - là nguy cơ quen thuộc và
triền miên, nó đang châm ng̣i cho các cuộc
khủng hoảng lớn hơn. Phán quyết theo UNCLOS
giải quyết một cách cụ thể các vấn
đề khi quy định rằng các động thái
của Trung Quốc ngăn chặn các tàu đánh cá
của Philippines xung quanh băi cạn Scarborough kể
từ tháng năm 2012 là bất hợp pháp. Mặc
dù trọng tâm của khu vực là khoáng sản và
dầu, cá là một yếu tố quan trọng hơn
trong các tranh chấp lănh hải chung quanh Trung Quóc đang
trỗi dậy. Ban
đầu, Bắc Kinh phản ứng trước
quyết định của Ṭa bằng cách là hạ
thấp vấn đề. Vào ngày 02 tháng 8, Toà án Nhân
dân Tối cao Trung Quốc đă đưa ra một
quyết định nói rằng chính quyền có
quyền truy tố ngư dân nước ngoài bị
bắt trong vùng hải phận mà Trung Quốc tuyên
bố có chủ quyền. Một tuần sau đó các
chủ đề này đă được đưa
ra một vài lần trong một cuộc họp
giữa các quan chức Trung Quốc và đặc
sứ Philippines và cựu Tổng thống Fidel Ramos. Có
các dấu hiệu cho thấy là các chính giới
ở Bắc Kinh cũng chọn đề tài này. Ramos
đă nói chuyện với Wu Shicun, Chủ tịch Cơ
quan Nghiên cứu hàng đầu về Biển Đông
của Trung Quốc, ông đă nói Bắc Kinh và Manila có
thể t́m cách để mở băi cạn Scarborough cho
ngư dân và cùng phát triển nuôi thủy sản xung
quanh các vùng tranh chấp trên biển. Sau
đó, vào ngày 23 tháng 8, Duterte kêu gọi Trung Quốc
cho phép tàu đánh cá cuả Philippines vào vùng biển
c̣n tranh chấp. Ngày 29 tháng 8, Trung Quốc trả
miếng lại là: Đại sứ Zhao Jianhua cho
biết Bắc Kinh sẽ tổ chức các cuộc
đàm phán song phương v à cứu xét việc cho
phép các ngư dân Philippines thâm nhập vào băi cạn
Scarborough. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán chưa
bắt đầu, và vẫn chưa có ǵ là rơ ràng
về chuyện chừng nào th́ những h́nh thức
thâm nhập hỗn hợp nào sẽ thực hiện
(các phương án chọn lựa qua các giai đoạn
từ việc thâm nhập đơn giản đến
việc thiếp lập một khu vực thủy
sản chính thức để cùng phối hợp
quản lư). Tuy nhiên, một thỏa thuận sẽ giúp
ngăn chặn các cuộc xung đột ngắn
hạn, gay gằt hơn về đánh cá và có
thể đem lại một mô h́nh hợp tác ở
những nơi khác trong vùng biển Đông. Tại
sao có cuộc chiến về thuỷ sản? Các
ngành công nghiệp đánh cá, mặc dù không thu hút,
nhưng cố hữu vốn là một vấn đề
địa chính trị. Cá hoang đă được
coi là một "tài nguyên không bền": Giống
như các động vật, nước hoặc không
khí, cá di chuyển từ nơi này đến nơi
theo cách riêng của nó. V́ thế, tàu đánh cá
phải theo đuổi theo để đánh bắt,
thường th́ họ không chú ư đến vấn
đề biên giới hoặc quyền tài phán. Các
biến động trong việc đánh cá hoặc các
mức hạn chế đánh cá sẽ có nhiều
hậu quả lan rộng cho quốc gia cận duyên,
đẩy các tàu càng ngày càng đi xa hơn các
bờ biển của nước họ. Bởi v́ ngành
công nghiệp đánh cá sử dụng rất
nhiều khả năng không chính thức, những ǵ
làm tổn hại cho ngư dân sẽ làm tổn
hại chung cho tất cả các tầng lớp trong xă
hội, từ các đơn vị bầu cử ở
nông thôn cho đến các tập đoàn kinh doanh
lớn. Trong
mỗi khu vực hàng hải đă bùng phát việc
đánh cá trước đây, nhưng vị trí địa
lư độc đáo của Đông Á tăng nguy cơ
các cuộc tranh chấp như vậy - và cả
phần hưởng lợi của họ. Vùng Tây Thái
B́nh Dương khác biệt với hầu hết các
vùng trong vành cung Thái B́nh Dương ở chỗ là nó
có thềm lục địa rộng, với nhiều
đường giao thông cận duyên và vùng vịnh sâu.
Ngược lại, các bờ biển của Bắc và
Nam Mỹ có thềm lục địa hẹp và
đường bờ biển tương đối
đơn giản. Điều
này làm cho việc phân định lănh thổ trong khu
vực châu Á Thái B́nh Dương khó khăn hơn,
đặc biệt là kể từ khi hầu hết các
thủy lộ là không đủ rộng để cho
phép các quốc gia trong khu vực có yêu sách về vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) với đầy
đủ 200 hải lư mà không cần đụng
chạm đến các nước láng giềng.
Chỉ có Nga, Nhật Bản, Philippines và Indonesia đă
có các yêu sách về EEZ rơ ràng, và những quốc gia
này thành h́nh do trải dài lănh thổ trên biển.
Mỗi quốc gia khác đă phải thương lượng
về EEZ của ḿnh với các nước xung quanh,
một tiến tŕnh đă để lại nhiều
ranh giới chưa được giải quyết,
đem lại những điểm nóng trong sự xung
đột giữa các quốc gia. Thềm
lục địa làm cho việc đánh cá thuận
lợi, đặc biệt là trong ngành hàng hải
thuộc khu vực Đông Nam Á, bên dưới
được bao quanh bởi các thềm Sunda và Sahul.
Các vùng nước cạn của các thềm này, trong
đó nó chiếm khoảng 20 phần trăm trong
tổng diện tích thềm trên toàn thế giới,
cung cấp điều kiện ngày càng tăng trưởng
cho sinh hoạt của biển: ánh sáng mặt trời,
vùng nước cạn và lưu lượng dinh dưỡng
từ nhiều hệ thống sông ng̣i chính đổ
ra biển. Các môi trường này đă tạo ra
một sự đa dạng đáng ngạc nhiên -
chỉ ở vùng biển Đông có hơn 3.000 loài cá
sống - và một khu vực thiên nhiêu cực kỳ
ưu đăi cho việc đánh cá. Đối với
các quốc gia phân định nhau bằng các thủy
lộ (mỗi nước trong khu vực Đông Nam Á
ngoại trừ Lào), th́ việc đánh cá là vấn
đề mấu chốt để duy tŕ dân số, và
trong thời kỳ hiện đại, tạo doanh thu
cho chính phủ và công nghiệp hóa. Trong
khu vực châu Á Thái B́nh Dương, hải sản là
sinh hoạt. Khu vực này cũng là lănh thổ, thâm
nhập vào lănh thổ là việc quan trọng v́ các lư
do khác: Kiểm soát các thủy lộ là ch́a khoá cho các
quốc gia duy tŕ lưu lượng thương
mại để sinh tồn, thông tin liên lạc
với các vùng xa xôi và tiếp cận với các
nguồn tài nguyên. Đánh cá tạo ra xung đột
mà nó va chạm đến những lợi ích cốt
lơi. Các ngành công nghiệp đánh cá vốn dĩ
đă bị phân mảnh trong vô số những phân vùng
nhỏ, và các tàu viễn duyên đi qua vùng biển
xa, làm cho họ khó khăn để điều
tiết - ngay cả đối với các chính phủ
dù họ có thiện chí muốn làm như vậy.
Với nhiều công nghiệp đánh cá hấp
dẫn trải rộng trên nhiều lănh thổ qua
nhiều quốc gia cận duyên gần gũi nhau, tàu
đánh cá có thể dễ dàng đi lạc vào vùng
biển nước ngoài, hoặc là do vô t́nh hoặc
với hy vọng thoát khỏi sự phát hiện. T́nh
h́nh đă được kết hợp bởi trào lưu
đánh cá càng mở rộng ào ạt tại châu Á
Thái B́nh Dương kể từ khi kết thúc Đệ
Nhị Thế Chiến, khi tại vùng Tây Thái B́nh Dương
công nghiệp hoá đánh cá với một tốc
độ chưa từng thấy ở nơi nào khác.
Đến những năm 1990, tất cả các
quốc gia cận duyên đă bị buộc phải phát
triển các ngành công nghiệp đánh cá của riêng
ḿnh trong một cuộc đua để khai thác các tài
nguyên chung. Điều này đă dẫn đến
đánh bắt quá mức và tự do tha hồ về
các khối lượng cá trong khu vực. Khi các
quốc gia đă đánh cá ra xa khỏi các vùng
hải phận của họ, họ đă ngày càng
quay sang đánh cá xa hơn trong vùng lănh thổ của
các nước láng giềng, đặc biệt
tập trung vào các vùng có kém tuần tra. Khu vực
tranh chấp, chẳng hạn như những vùng
biển Đông, đă trở thành một mục tiêu
đặc biệt thu hút, khiến có vô số các
lệnh cấm đánh cá đơn phương,
tạo ra việc kiểm soát đánh cá và phá hủy
các tàu tấn công rất chuyên nghiệp. Tại
một số các quốc gia - bao gồm cả Trung
Quốc - họ đă thậm chí công khai khuyến khích
ngư dân của họ đánh cá ngay trong vùng
biển c̣n tranh chấp. Khi làm như vậy, Bắc
Kinh hy vọng sẽ ngăn cản các tàu ít trang
bị kỷ thuật mới của các nước láng
giềng, chưa kể đến việc thu thập
thông tin t́nh báo và bản đồ khu vực. Đẩy
ngư dân của ḿnh ra bên ngoài nhằm đáp
ứng các mục tiêu về ổn định kinh
tế và chính trị nội địa trong khi
hiện diện trong vùng biển là vấn đề
sinh tồn để đảm bảo thương
mại và chiều sâu chiến lược ở
hải ngoại. Đó là một phần nhỏ
của một chiến lược lớn hơn, nhưng
nó liên tục làm thành các vấn đề chính khi các
nước láng giềng bắt tàu cá của Trung
Quốc trong vùng biển của ḿnh. Chia
sẻ tài nguyên Nhưng
Trung Quốc đă đạt đến một
thời điểm kỳ lạ. Trung Quốc chiếm
hữu một phần lớn của các vùng ở
Biển Đông - một vị thế không thể
chấp nhận được. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng
không muốn tạo nguy hiểm cho vị thế
của ḿnh với động thái gây hấn, hoặc
vơi các sự cố sẽ đẩy các nước
khác có yêu sách khai thác đến mức tối đa
về phán quyết của ṭa án theo UNCLOS hoặc
buộc Hoa Kỳ và các đồng minh tiến hành hàng
loạt các tuần tra hàng hải theo quyền tự
do. Bắc
Kinh đang khai triển các cơ chế để
giảm căng thẳng và giải quyết khủng
hoảng, họ hứa sẽ hoàn thành Quy luật
Ứng xử tại Biển Đông vào giữa năm
2017, áp dụng một hiệp ước hàng hải
cho ASEAN để thỏa thuận về các việc
đối đàu không dự kiến tại các
hải lộ và thiết lập một đường
dây báo động khẩn cấp về hàng hải.
Quản lư phối hợp về đánh cá trong vùng
biển c̣n tranh chấp là một lựa chọn khác
thấp hơn để giữ cho căng thẳng
bớt leo thang. Giải pháp này cũng thực hiện
cho phù hợp với ư nguyện ưu tiên của Trung
Quốc đối với các giải pháp song phương
cho các mâu thuẫn về các yêu sách Biển Đông,
thay thế cho một hiệp ước quốc
tế. Tùy thuộc vào cách quản lư việc đánh
cá diễn ra như thế nào, việc này cũng có
thể đi đôi với chiến lược
của Trung Quốc để tạo ra một sự
rạn nứt giữa các đối thủ trên
Biển Đông. Trong
trường hợp tranh chấp về băi cạn
Scarborough, Philippines và Trung Quốc có thể thiết
lập một "khu vực hỗn hợp" cho
việc quản lư việc đánh cá. Hai bên sẽ
chấp nhận rằng sẽ không có sự đồng
thuận về quyền sở hữu các khu vực này
như là một đặc điểm riêng và
thiết lập các chính sách tạm thời cho
việc ứng xử và khai thác tài nguyên. Điều
này sẽ làm tăng thêm lợi ích của việc tuân
thủ với các điều 74 và 83 của UNCLOS mà
trong đó giải quyết các sắp xếp tạm
thời như vậy. Có
một tiền lệ cho các hợp tác đánh cá
giữa Trung Quốc và các nước láng giềng. Ví
dụ điển h́nh là sự thu xếp của Trung
Quốc với Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ. Vùng
vịnh tạo h́nh cho một cánh phía tây bắc
của Biển Đông, nằm giữa miền Bắc
Việt Nam và phía đông nam tỉnh Quảng Tây
của Trung Quốc và đảo Hải Nam, khống
chế toàn bộ khu cửa vịnh. Thỏa thuận
giữa hai nước kư kết vào năm 2000 là
một phần của một giải pháp toàn bộ
nhằm phân định vùng biển trong Vịnh
Bắc Bộ, nó đề ra sau khi Trung Quốc và
Việt Nam tái lập quan hệ vào năm 1991 sau
nhiều thập niên của mâu thuẫn, bao
gồm cả một cuộc chiến tranh biên giới
vào năm 1979. Là một vùng biển chung gần gũi
với các khu vực quan trọng và các giới ngư
dân, Vịnh Bắc Bộ là một vấn đề
lănh thổ cốt lơi cần giải quyết - và
một trong các vấn đề này đă dẫn
đến nhiều vụ bắt giữ tàu Trung
Quốc của chính quyền Việt Nam, v́ bị cáo
buộc là xâm nhập. Bảy năm đàm phán mang
lại một ranh giới gần trung điểm
của vùng Vịnh. Nó cũng thiết lập một
vùng đánh cá, chồng chéo nhau với 33.500 km vuông
(12.934 dặm vuông) khoảng 30 hải lư rộng, kéo dài
từ biên giới đất liền đến
cửa vịnh. Hai chính phủ được phép
kiểm soát và tuần tra các vùng EEZ của ḿnh,
thực tập các việc phát triển chung, và giám sát
chung các tàu thuyền trong khu vực. Khu vực này
được quản lư bởi một Ủy ban
hỗn hợp. Nhưng
đó không phải là một mô h́nh chính xác cho các
thỏa thuận ở các nơi khác. Ở Vịnh
Bắc Bộ, hai bên đă có thể giải quyết
toàn bộ các vấn đề lănh hải một cách
rơ rệt. (Mặc dù điểm đáng chú ư là
họ không giải quyết tốt đẹp cho các
tranh chấp trong các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường
Sa - ranh giới cuối của cửa vịnh.) Đứng
trước việc Trung Quốc chiếm đóng các vùng
trong các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng
như ở băi cạn Scarborough, và quan tâm của Trung
Quốc đến việc duy tŕ quyền thâm nhập
vào vùng biển Đông, việc phân định
những ranh giới này sẽ không xăy ra trong một
thời gian dài, nếu có thể. Nhiều quốc gia
đ̣i chủ quyền về một vùng rộng
lớn của Biển Đông cùng đánh cá và thăm
ḍ chung, họ không giải quyết chuyện phân
định lănh hải, một vấn đề
cực kỳ phức tạp. Tuy
nhiên, thỏa thuận về Vịnh Bắc Bộ
đă đạt được các mục tiêu nguyên
thủy: kết thúc các cuộc xung đột ở vùng
vịnh và đặc biệt là những xung đột
về các tàu đánh cá đi lạc vào vùng biển
chưa quy định. Khu vực quản lư hỗn
hợp cho phép Việt Nam và Trung Quốc duy tŕ một
vùng trái độn giữa cho mỗi bên, ít nhất
đó là một lư do chung để cùng phối
hợp quản lư. Tuần tra hỗn hợp bắt
đầu từ năm 2006. Một Ủy ban hỗn
hợp họp một vài lần trong năm, mặc dù
khu vực chung không được giám sát hoặc
kiểm soát chặt chẽ. Thoả ước gây ra
ấn tượng vào một thời điểm khi
Trung Quốc bị suy vi về thanh thề và dường
như có thể thỏa hiệp với lân bang.
Bất kỳ thỏa thuận nào đạt được
trong giai đoạn này có thể sẽ được
mệnh danh là làm lợi cho phiá Trung Quốc. Một
thỏa thuận thứ hai về việc quản lư
hỗn hợp đánh cá liên quan đến Trung
Quốc đă ít thành công, đó là một thoả
thuận về những quần đảo Senkaku,
mặc dù nó đă t́m cách để duy tŕ trong
một khoảng thời gian ngắn. Đặc
biệt đáng chú ư cho Trung Quốc là đă kư
với đối thủ khu vực của họ,
đó là Nhật Bản. Các nhóm đảo Senkaku
ở Biển Đông về phía đông bắc
của Đài Loan được kiểm soát bởi
Nhật Bản, nhưng tuyên bố của Trung
Quốc đó là đảo Điếu Ngư. Bởi
v́ những tuyên bố cạnh tranh lẫn nhau, nên không
có vùng phân định ranh giới giữa các vùng EEZ
của hai quốc gia. Trong tháng 11 năm 1997, Trung
Quốc và Nhật Bản đă đồng ư gác tranh
chấp để thiết lập một vùng đánh
cá tạm thời, mở rộng đến biên
giới của Biển Đông, bao gồm cả các
khu vực xung quanh quần đảo Senkaku. Thỏa
thuận này là một phần mở rộng của
Thoả hiệp về đánh cá năm 1975 quy định
cách ứng xừ giữa các tàu đánh cá của
Trung Quốc và Nhật Bản trong vùng biển Hoàng
Hải và biiển Đông và giữ tàu đánh cá ra
khỏi vùng lănh hải. Về cơ bản hiệp
ước năm 1997 tạo ra một khoảng cách mà
trong đó các hoạt động đánh cá b́nh thường
giữa hai bên có thể tiếp tục. Trong
khu vực này, hai bên có thẩm quyền tài phán đối
với các tàu của họ mà cũng c̣n có một
khả năng hạn chế để giám sát và
điều tiết tàu của phe khác. Các tranh chấp
việc đánh cá trong khu vực được
xử lư bởi Ủy ban hỗn hợp, hoặc
nếu không có th́ họ sẽ có các cuộc đàm
phán trực tiếp. Các hiệp ước hợp tác
có hiệu lực vào năm 2000 và đă có nghĩa là
sẽ kéo dài trong năm năm. Nó bao gồm các
quyền Nhật Bản và Trung Quốc, đánh cá
trong khu vực độc quyền kinh tế, thành
lập c ơ quan giám sát tập thể thông qua
một ủy ban giám sát hỗn hợp và đề ra
các hướng dẫn để cà hai có quyền thâm
nhập vào vùng biển của nhau. Có nghĩa là
cả hai bên cũng đă tiến hành tuần tra
chung. Nhưng
hiệp ước này không c̣n hoạt động -
những căng thẳng giữa Nhật Bản và
Trung Quốc làm cho thoả thuận không c̣n hiệu
lực. Thất bại này làm nổi bật tính
chất mong manh của các thoả thuận đánh cá
mà đầu tiên không có các mức phân định
phạm vi. Mặc dù vậy, một thỏa thuận
gần giống như vậy của Nhật Bản và
Đài Loan đă kư kết.vào năm 2013, đu9 ược
tuân thủ. (Đài Loan yêu sách về các lănh hải
cũng giống như Trung Quốc đại lục.) Vấn
đề trước mắt Một
hiệp ước có mục tiêu tương tự
giữa Trung Quốc và Philippines sẽ không cần
phải mất thời gian để nghĩ ra một
giải pháp như đă thỏa thuận mà Vịnh
Bắc Bộ đă làm, đặc biệt là kể
từ khi thoả thuận này sẽ không tạo ra cho
lư do cho lâu dài. Hợp tác khai thác đánh cá chung và có
hiệu quả, ngay cả trong một thỏa thuận
hạn chế, sẽ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Các yếu tố đứng đầu
trong số này sẽ là lợi ích hỗ tương
của cả hai chính phủ trong việc giảm căng
thẳng ngoại giao. Ở đây, các thương
thảo khác về đánh cá liên quan đến
Philippines và Đài Loan là một ví dụ. Mặc dù
Manila và Đài Bắc không thiết lập một khu
vực quản lư hỗn hợp về lănh hải mà
hai nước từng tuyên bố có yêu sách, cả
hai đạt một thỏa thuận vào năm 2015 -
với một mục tiêu là lợi ích chung để
chống lại Bắc Kinh - họ không sử dụng
vũ lực chống lại các tàu đánh cá của
nhau trong vùng biển c̣n tranh chấp. Mục tiêu chung
của họ nhắm đối trọng với Trung
Quốc vẫn c̣n như các thỏa thuận đánh
cá đề ra. Nhưng việc thiếu một
tiến tŕnh phân định phạm vi toàn diện
quanh các mục tiêu đề ra sẽ làm cho bất
cứ vấn đề thỏa thuận nào sẽ
lệ thuộc vào các ư kiến bất thường
trong lĩnh vực của địa chính trị. Ví
dụ như sau khi Trung Quốc và Nhật Bản đạt
được thoả ước ở Biển Đông,
nó mất hiệu lực khi căng thẳng của
cả hai đă làm kết thúc các quan tâm chung trong
việc hợp tác. Nếu không có phân định ranh
giới, bất kỳ thỏa thuận nào cũng
sẽ là mong manh và dễ bị tổn thương
đến những thăng trầm của quyền
lực chính trị. Điều không chắc là
Bắc Kinh và Manila sẽ bắt đầu phân định
phạm vi của băi cạn Scarborough trong một
thời gian dài, và trong thực tế, việc này có
thể sẽ không bao giờ xảy ra. Trong
thực tế, hợp tác về đánh cá sẽ
bị hạn chế. Bản chất của hai
việc đánh cá và ngư dân là dể thay đổi,
có nghĩa là các biến động sẽ rất khó
điều hướng. Hơn nữa, cả hai chính
phủ nhắm vào lợi ích trong việc tăng
khối lượng đánh bắt. Do đó, ngay
cả chuyện kiên nhẩn hợp tác sẽ không gây
phản ứng trong việc đánh cá, thậm chí
hợp tác đó mở rộng ra cho những nơi khác.
Điều đó nói rằng việc thắng kiện
rơ ràng cho một thỏa thuận về đánh cá
sẽ là một cuộc đối đầu ngắn
ngủi và gây gắt (và thường không định
trước) có thể đủ ngăn chận để
họ không kích động các cuộc khủng
hoảng rộng lớn hơn mà nó có thể
đưa Biển Đông tới một cuộc xung
đột gây gắt hơn. *** Nguyên
tác: Conflict
and Cooperation in the South China Sea. Tựa đề
bản dịch là của người dịch https://www.stratfor.com/analysis/conflict-and-cooperation-south-china-sea |