Khả năng đ̣i lại Hoàng Sa và Trường Sa trên phương diện pháp lư |
I. Nhập đề: Ngày
19 tháng 1, 2019 vừa qua, mùa tưởng niệm trận
chiến anh dũng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa bảo vệ Hoàng Sa bắt đầu. Báo
chí hải ngoại loan tin như: “Một số tờ báo lớn như Thanh Niên,
Tuổi Trẻ, Sài G̣n Giải Phóng lần đầu
tiên sau 45 năm đă dùng từ “cưỡng
chiếm” đối với Trung Quốc khi nhắc
đến trận hải chiến Hoàng Sa vào ngày 19 Tháng
Giêng, 1974. (Người Việt)” Tiếp
theo đó, nhiều thức giả b́nh luận về lư
do tại sao CSVN lại thay đổi chính sách kiểm
duyệt đề tài nhạy cảm này. Tuy
nhiên có một điều chúng ta có thể khẳng
định là, lịch sử đương đại
cho thấy, nhiều đảng CS trên thế giới
vẫn có khả năng tiếp tục tồn tại,
sau khi chế độ CS toàn trị cáo chung, như
tại Nga Sô và một số quốc gia Đông Âu, dưới
tên nguyên thủy hoặc dưới một tên mới. Xác
xuất rất cao là ngay cả sau khi tiến tŕnh dân
chủ hóa hoàn tất tại Trung Quốc, Bắc
Triều Tiên, Cuba th́ các đảng CS liên hệ
vẫn có khả năng sinh tồn như một chính
đảng trong lịch sử, kể cả một
đảng tàn ác như CS Bắc Triều Tiên. Chỉ
duy nhất đảng CSVN sẽ không thể tồn
tại. Lư do
đơn giản là v́ trừ đảng CSVN, không có
đảng CS nào công khai và hèn hạ bán nước
để sinh tồn cả. Đây
cũng là nỗi kinh hoàng của Bộ Chính Trị và
cũng là lư do tại sao đảng CSVN thà chết
chứ không bao giờ gia nhập tiến tŕnh dân
chủ hóa đất nước. Trong
những vùng đất và lănh hải đảng CSVN bán
cho CSTQ th́ Hoàng Sa và Trường Sa (Gạc Ma) là
hiển nhiên nhất. Hậu
quả hành động bán nước của đảng
CSVN di họa thật lâu dài cho toàn dân tộc. Câu
hỏi trên vành môi của mọi công dân Việt Nam là
ǵ? Đó
là chừng nào chúng ta mới lấy lại được
những vùng đất và lănh hải bị bán đứng
cho CSTQ? Câu
trả lời thứ nhất là nếu chúng ta hùng
mạnh hơn TQ cả về kinh tế lẫn quân
sự th́ chúng ta sẽ lấy lại bằng sức
mạnh. Xác
xuất này quá thấp và sẽ không xảy ra. Thế
th́ trên phương diện pháp lư, có xác xuất cao hơn
hay không? Câu
trả lời sẽ phức tạp và tôi xin cố
gắng như sau. II. Trên phưong diện pháp lư:
Mặc
dầu hệ thống luật pháp, nhất là nền
luật pháp của Tây Phương, kể cả Công Pháp
Quốc Tế, rất phức tạp. Tuy nhiên nếu nh́n
kỹ th́ cũng chỉ có 6 yếu tố quan trọng
nhất liên hệ, khi giải quyết một sự
tranh chấp giữa người và người hoặc
quốc gia này và quốc gia kia: 1. Con người làm trọng
tài hoặc quan ṭa (mediator, arbitrator or judge) 2. Những định chế
pháp lư (Legal institutions) 3. Những nguyên tắc pháp lư
(legal principles) 4. Những sự kiện liên
hệ (relevant facts) 5. Phong thái của mỗi bên
(the conduct of each party) 6. Sức mạnh (kể
cả tài chánh lẫn vũ lực) của mổi bên
(relative strength of the parties) Trong cuộc tranh chấp
giữa Việt Nam và Trung Quốc, khả năng đ̣i
lại HoàngSa và Trường Sa phần lớn lệ
thuộc vào các yếu tố trên. 1. Một người hoặc
nhiều người làm trọng tài hoặc quan ṭa: Những con người này trước
hết, theo luật pháp Tây Phương, đều
được quan niệm là những con “người
biết phải chăng” (reasonable persons) Quan điểm
thế nào là “a reasonable person” là căn bản
của luật pháp tây phương. Định nghĩa
của quan điểm này như sau: “Một người biết
phải chăng là một người có thể hành
xử khả năng chú tâm, hiểu biết, thông minh và
phán xét mà xă hội đ̣i hỏi nơi một thành
viên của ḿnh để từ đó bảo vệ cho
quyền lợi của chính ḿnh cũng như của
tha nhân trong xă hội.”(Trích WikiAnswers) Muốn dung ḥa quyền
lợi của ḿnh và của tha nhân, để giữ
quân b́nh trong xă hội, một reasonable person không bao
giờ cứng nhắc và quá chấp nguyên tắc. 2. Những định chế có
thể giúp giải quyết sự tranh chấp gồm có: Theo nhiều b́nh luận gia
quốc tế, sự tranh chấp giữa các quốc
gia trong “South China Sea” có thể được
giải quyết qua các phương thức sau đây: a. Mời một nhóm người
có uy tín quốc tế (Imminent persons group) để giúp
các bên ḥa giải. b. Mời một đệ tam
nhân được cả hai bên tôn trọng và đồng
thuận đứng ra làm trọng tài ḥa giải (Third
Party mediation). c. Đưa ra Ṭa Án Công Lư
Quốc Tế để xử (The International Court of
Justice). d. Đưa ra Tổ ChứcḶng
Đại Dương Quốc Tế để thương
thảo và giải quyết (The International Seabed Authority). e. Đưa ra Ṭa Trọng Tài
Thường Trực (Permanent Court of Arbitration) tại The
Hague. Thực ra, các b́nh luận gia
nêu trên chỉ nói một cách vô thưởng vô
phạt. Thực tế th́ phương thức pháp lư nào
nêu trên (trừ các Ṭa Án Quốc Tế) cũng bất
lợi cho chúng ta cả. Lư do là v́ HS &TS là của chúng
ta. Bây giờ có kẻ cướp vào đoạt
lấy rồi lại đưa ra thương thuyết
ngang hàng với chúng ta, làm sao gọi là công bằng cho
được? Tuy nhiên ngay cả Ṭa Án Công Lư
Quốc Tế cũng chưa chắc đă thuận
lợi cho chúng ta v́ phong thái hành xử vô cùng phi lư
của đảng CSVN như sẽ chứng minh sau. Trên b́nh diện chính trị
th́ vấn đề này phải được chính
phủ Việt Nam nêu ra trong Hội Đồng Bảo An
LHQ và trong Đại Hội Đồng LHQ. Tuy nhiên, CSVN không
muốn làm phiền ḷng quan thầy TQ. Đồng thời
TQ lại là Ủy Viên thường trực của
Hội Đồng Bảo An LHQ với quyền phủ
quyết tuyệt đối. Thế của Việt Nam
không thể nào bằng thế của TQ. 3. Những nguyên tắc pháp lư: Các nguyên tắc pháp lư
được cô đọng trong Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (The United
Nations Convention on Law of the Sea). Bao gồm các nguyên tắc
sau đây: Nội thủy (internal waters): vùng biển nằm bên trong lằng
thủy triều xuống thấp nhất thuộc
chủ quyền tuyệt đối của quốc gia
ven biển. Lănh hải (Territorial waters): vùng biển chạy ra 12 hải lư.
Các quốc gia ven biển có chủ quyền. Tuy nhiên tàu
bè quốc tế được quyền đi qua (right
of innocent passage) Vùng kinh tế đặc
quyền (Exclusive economic zone): ra 200 hải lư tính từ
lằng thủy triều xuống thấp nhất. Các
quốc gia ven biển có quyền khai thác tài nguyên thiên
nhiên như đánh cá, dầu hỏa, khoáng sản
v.v… Thềm lục địa
(continental shelf): Được định nghĩa như
vùng biển 200 hải lư tính từ lằng thủy
triều xuống thấp nhất, hoặc sự nối
tiếp tự nhiên của thềm lục địa
(nằm dưới biển) kéo dài cho đến b́a bên
ngoài của thềm lục địa, cái nào dài
nhất (whichever is greater), tuy nhiên không thể đi xa hơn
350 hải lư hoặc 100 hải lư ngoài 2,500 thước
isobath. Các quốc gia ven biển có đặc quyền
khai thác khoán sản (minerals & non-living material) từ
tầng dưới (sub-soil) của thềm lục địa
(continental shelf). Phi Luật Tân đă chiến
thắng vẻ vang CSTQ vào ngày 12 tháng 7, 2016 tại Ṭa
Trọng Tài Thường Trực, một phần
lớn căn cứ trên công ước này và tính
ngụy biện của chủ thuyết Đường
Lưỡi Ḅ của TQ tại Biển Đông bị hoàn
toàn hủy diệt trên pháp lư. 4. Những sự kiện liên
hệ (relevant facts): a. Địa dư & địa
lư: * Biển Nam Hải (the South
Sea) c̣n gọi là biển Nam Trung Quốc (The South China
Sea) * Hoàng Sa cách Trung Quốc
khoảng 270 hải lư, cách Việt Nam 155 hải lư. * Trường Sa cách Trung
Quốc khoảng 750 hải lư, cách Việt Nam 220
hải lư. b. Lịch sử: Từ 1816 thời Gia Long, nước
Việt Nam đă có hải đội Hoàng Sa và Trường
Sa. Khi người Pháp xâm
chiếm Việt Nam vào năm 1884 cũng đă xác
nhận chủ quyền của Pháp qua chủ quyền
Việt Nam (bia chủ quyền dựng năm 1938). 5. Phong thái của mỗi bên
(conduct of each party) Sau đây là phong thái và hành
xử của các phe nhóm Việt Nam và TQ liên hệ: a. Văn thư ngày 14 tháng 9 năm
1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Bắc Việt)
gởi cho Thủ Tướng Chu Ân Lai thừa nhận
chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường
Sa. b. Quốc Hội Việt Nam
Cộng Ḥa (Nam Việt) trong các năm 1956-66 đă xát
quyết chủ quyền của Việt Nam. Ghi chú Hoàng
Sa và Trường Sa được Pháp nhượng
lại cho VNCH sau hiêp định Geneve 1954, không phải
nhường cho Bắc Việt. c. 1945 Trung Hoa xâm chiếm
một số đảo thuộc HoàngSa. d. 1958 CSVN công nhận chủ
quyền Trung Quốc tại 2 quần đảo. e. 1974 Hải Quân Trung Quốc
đánh chiến toàn bộ Hoàng Sa bằng vũ
lực. Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa anh dũng
chiến đấu. CSVN lặng thinh chấp nhận
sự chiếm đóng của TQ. Chính Phủ VNCH đă
mạnh mẽ chính thức phản đối trước
Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên lúc đó VNCH chỉ là
quan sát viên, chưa phải là thành viên của LHQ nên không
có hiệu quả. Ngày hôm nay, CSVN là ủy viên không thường
trực của Hội Đồng Bảo An LHQ. Đến nay
chưa thấy CSVN xử dụng tư cách này để
bảo vệ HoàngSa và Trường Sa. f. 1992 TQ chiếm băi dầu khí
Vạn An của Trường Sa, CSVN im lặng. g. 2000 Trong hiệp Ước
Vịnh Bắc Việt, CSVN nhượng Trung Quốc
khỏang 21,000 cây số vuông lănh hải. h. 2/12/07 TQ thanh lập thanh
phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để chính
thức quản trị Hoàng Sa và Trường Sa như
là lănh thổ của TQ. i. Tháng 12, 2007, thanh niên
Việt Nam rầm rộ biểu t́nh trong nước. Đồng
bào hải ngoại phản đối mạnh mẽ.
CSVN im lặng chấp nhận và ngăn chận thanh niên
và đồng bào phản kháng v́ sợ mất ḷng TQ. 6. Sức mạnh của mỗi
bên (relative strength of the parties): Trung quốc đang trên đà
phát triển và xây dựng bá quyền. Việt Nam là
một nước nhỏ hơn và uy thế trên trường
quốc tế thua xa Trung Quốc. Một sự thật phũ phàng
là ngay cả trên b́nh diện công pháp quốc tế,
kẻ có sức mạnh có nhiều quyền quyết
định và ảnh hưởng hơn kẻ yếu.
Câu nói trong thơ ngụ ngôn của Lafontaine: “la raison
du plus fort est toujours la meilleure” (Cái lư của kẻ
mạnh luôn luôn thắng) rất đáng lưu ư. III. Kết Luận - Khả năng
lấy lại: Mặc dầu những nguyên
tắc pháp lư và những sự kiện liên hệ
đem lại cho chúng ta nhiều lợi điểm, tuy
nhiên chúng ta vô cùng bất lợi v́ những điểm
sau đây: 1. Những người phân
xử dù là những con người biết phải chăng,
họ cũng chỉ là những con người bằng
xương bằng thịt. Họ phải dung ḥa
quyền lợi và thậm chí c̣n phải nương
theo kẻ mạnh để phân xử. Thêm vào đó,
mặc dù những từ ngữ như South China Sea không
có nghĩa là “cả vùng biển đó là của Trung
Quốc”. Cũng như Japan Sea không có nghĩa là
của Nhật Bổn, hoặc English Channel không có nghĩa
là của Anh Quốc. Tuy nhiên dùng danh từ như
thế có ảnh hưởng tâm lư trên con người. 2. Sự bất hạnh
của dân tộc ta là CSVN từ thủa xa xưa đă
quá sùng bái CSTQ như là một bật thầy, đă
vay nợ TQ quá nhiều và bây giờ đang nương
tựa TQ để bám víu độc quyền chính
trị. Trong quá khứ họ đă nhân nhượng, và
những chỉ dẫn bây giờ cho thấy họ
chấp nhận mất chủ quyền trên lănh thổ
tổ tiên miễn là giữ được độc
quyền chính trị. Phong thái như thế của
CSVN sẽ đem lại nhiều bất lợi pháp lư
cho dân tộc, khi hai bên tranh tụng. 3. Có thể nói rằng
những phản ứng của CSVN, trên phương
diện pháp lư, đă đặt tổ quốc Việt
Nam vào vị trí nhục nhă tương tự với
một phụ nữ bị cưỡng dâm, mà không bày
tỏ sự kháng cự nào. Trong trường hợp
của CSVN vào thời Phạm Văn Đồng (1958) c̣n bày
tỏ sự đồng thuận nữa. Qua các hiệp
ước sau đó về lănh thổ và lănh hải,
lại nhường thêm đất đai và vùng
biển, cũng như hợp tác thêm trên các vùng
biển TQ chiếm được của dân tộc
Việt Nam. Có khác nào một phụ nữ đă
bị hiếp dâm, không phản kháng rồi sau đó
lại hợp tác sống chung với kẻ đă cưỡng
bức ḿnh. Một nạn nhân như thế làm sao có
thể yêu cầu ṭa án, gồm những người
“biết phải chăng” như trên, can thiệp
để trả lại công lư và danh dự cho ḿnh
được? Đất nước và dân
tộc Việt Nam tuyệt đối không có trách
nhiệm trả lại món nợ lớn lao CSVN vay mượn
từ CSTQ, nhất là bằng danh dự và sự
vẹn toàn lănh thổ của tổ quốc Việt
Nam. Nếu có phải trả th́ CSVN phải tự ḿnh
trả lấy. Dĩ nhiên hàng ngũ lănh
đạo hiện nay trong đảng rất am tường
một chân lư bất di bất dịch của lịch
sử. Đó là một tập đoàn cắt đất,
cắt biển để đem dâng cho ngoại bang
sẽ không c̣n chỗ đứng tương lai trong ḷng
dân tộc. Tuy nhiên các lănh tụ này sẵn sàn hủy
diệt tương lai của các thế hệ trẻ
của chính đảng CSVN, miễn là trong thời gian
ngắn hạn trước mắt, họ có thể bám
víu quyền lực và đục khoét quyền lợi
cho cá nhân mà thôi. Tương lai của đảng không
phải là ưu tiên của họ. Thêm vào đó TQ có đủ
sức mạnh quân sự để uy hiếp và đủ
sức mạnh tài chính để mua chuộc cả
đồng minh lẫn đối thủ. Chính v́
thế khả năng lấy lại của dân tộc
Việt Nam rất cam go. TQ có dư tiền mua nguyên
cả Bộ Chính Trị hoặc Trung Ương Đảng
Bộ CSVN dễ dàng. Việt Nam cần phải
lập tức tách rời TQ, xích lại gần với
Hoa Kỳ và các nước Tây Phương. Xây dựng
lại quân đội (nhất là Hải Quân và Không Quân)
trang bị bằng vũ khí hiện đại nhất
của Hoa Kỳ v́ vũ khí của Hoa Kỳ phẩm
chất cao hơn của Nga Sô hoặc Trung Quốc), xây
dựng một chủ thuyết quân sự mới
với mục tiêu rơ rệt là chống lại
ngoại thù phương Bắc. V́ có biên giới chung
với kẻ thù nguy hiểm như thế, chúng ta
phải suy nghĩ đến sự kiện Việt Nam
sở hữu hàng không mẫu hạm và vơ khí nguyên
tử. Chỉ có một nước Việt Nam hùng
mạnh về kinh tế, uy lực về quân sự và
có nhiều đồng minh tây phương như
thế, TQ mới không c̣n ư định xâm lấn
bờ cơi Việt Nam. - Đây nguyên thủy là Bài
thuyết tŕnh cuả LS Đào Tăng Dực trong
buổi Hội luận Paltalk ngày 22 tháng 12 năm 2007
tại diễn đàn “MatTruongSaHoangSaPhaiLamGi” |