KỊCH
BẢN NÀO CHO MỐI CĂNG THẲNG QUÂN SỰ TRÊN
BIỂN NAM TRUNG HOA Đại-Dương
|
Tài
liệu tham khảo: ASEAN
stops pulling punches over South China Sea (Asia Times) China
Conducts Naval Drills in South China Sea (Diplomat) Indo-Pacific
in Focus as Australia Substantially Lifts Military Spending (Diplomat) India-Japan
naval exercises: a message for China? (SCMP) Singapore
Decides on 5G Networks: Is Huawei Banned? (Diplomat) KỊCH BẢN NÀO CHO MỐI CĂNG THẲNG QUÂN
SỰ TRÊN BIỂN NAM TRUNG HOA Đại-Dương Bắc
Kinh đang đẩy mạnh chính sách bành trướng,
bá quyền trên Biển Nam Trung Hoa (SCS) trong bối
cảnh cả thế giới tập trung nỗ lực
chống Đại dịch Virus Vũ Hán. SCS
vừa là tâm điểm quan trọng nhất trong chính
sách siêu cường Hải quân của Trung Quốc nên
Bắc Kinh cần áp đặt luật pháp của
Bắc Kinh lên tất cả các phương tiện hàng
hải đi vào khu vực này làm đ̣n bẫy đẩy
mạnh sự thống trị toàn cầu. Tham
vọng vô bờ của Bắc Kinh ai cũng biết. Nhưng,
biện pháp nào hữu hiệu tuỳ thuộc vào cách
xử trí của các quốc gia trong khu vực cũng như
nhiều nước có lợi ích trực tiếp và
hợp pháp. Biển
Nam Trung Hoa trải rộng từ Tân Gia Ba tới Eo
biển Đài Loan và bao phủ một diện tích
khoảng 3.4 triệu km², lớn thứ tư
thế giới sau Biển Phi Luật Tân, Biển San Hô
và Biển Ả Rập có các nước bao quanh theo
chiều kim đồng hồ: Trung Quốc, Đài Loan,
Phi Luật Tân, Mă Lai Á, Brunei, Indonesia, Tân Gia Ba, Thái Lan,
Cam Bốt và Việt Nam. Diện
tích vùng biển thuộc chủ quyền và
quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán của
Việt Nam chiếm hơn 1 triệu km² trên Biển Nam
Trung Hoa. Để
tránh nhầm lẫn với Biển Đông Trung Hoa (ECS),
chúng ta nên gọi Biển Đông Việt Nam,
giống như Biển Tây Phi Luật Tân. Như
thế, Việt Nam sẽ không vi phạm Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Khó
khăn nan giải của Việt Nam do Trung Quốc không
chịu ra trước Toà án Công lư Quốc tế (ICJ)
để được phân xử chủ quyền
quốc gia trên biển nên hai, kể cả các quốc
gia duyên hải Đông Nam Á vẫn ở trong t́nh
trạng “tuyên bố chủ quyền biển đảo”. Đế
quốc Trung Hoa chỉ có mục đích duy nhất là cưỡng
đoạt Đông Nam Á, kể cả SCS, bằng
mọi giá để làm bàn đạp thực thi
chiến lược thống trị toàn cầu. Tham
vọng này không bao giờ thay đổi. Bắc
Kinh thường xuyên bẻ cong luật pháp quốc
tế: (1) Biển Nam Trung Hoa của người Trung
Quốc. Thực tế, khi giới hàng hải quốc
tế đặt tên SCS nhằm xác định một
toạ độ hải hành mà không mang ư nghĩa
chủ quyền quốc gia. Biển Nhật Bản bao trùm
một vùng rộng lớn tới tận Nga mà không
phải của người Nhật. Ấn Độ Dương
không phải của Ấn Độ. (2) Bác bỏ
thẩm quyền xét xử của Toà án Trọng tài Thường
trực về Luật Biển (PCA). Sự thật, PCA
do Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển 1982 (UNCLOS) lập ra để phân xử tranh
chấp về quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán
cũng như sự hiểu không đúng hoặc áp
dụng sai Công ước. Phán quyết mang tính
chung thẩm mà mọi thành viên (Bắc Kinh đă phê
chuẩn UNCLOS) phải tự động tuân hành. (3) Coi
“tuyên bố chủ quyền” là “chủ quyền”
mà không cần tới các quy định trong luật pháp
quốc tế hoặc tập tục của giới hàng
hải thế giới. Cứ thế, Bắc Kinh
buộc cộng đồng quốc tế phải
thừa nhận dù có phải gây áp lực ngoại
giao, kinh tế, quân sự. Chủ
tịch Tập Cận B́nh quyết đẩy mạnh
kế hoạch chế ngự và cưỡng đoạt
trên SCS trong lúc Cộng đồng nhân loại đang
dồn nỗ lực đối phó với Virus Vũ Hán
(hay đó là một loại Vũ khí Sinh học?): (1)
Đặt Hải cảnh dưới sự điều
động của Giải phóng quân Nhân dân Trung
Quốc hoặc 5 Bộ tư lệnh Chiến khu trong trường
hợp tác chiến. (2) Bắc Kinh lập 2 huyện
đảo Tây Sa (Hoàng Sa, Paracel Islands) để cai
quản Hoàng Sa lẫn Băi Maclessfield, và Nam Sa (Trường
Sa, Spratly Islands) trực thuộc Thành phố Tam Sa. (3)
Bắc Kinh lập 2 trạm nghiên cứu trên hai đảo
nhân tạo Chữ Thập và Xu Bi tại Trường
Sa. (4) Bắn tiếng chuẩn bị lập Vùng
Nhận dạng Pḥng không (IDIZ) trên SCS. (5) Từ đầu
năm 2020 cho đến nay, Hải đội Tàu sân bay
Liêu Ninh đă hai lần hiện diện trên Biển Nam
Trung Hoa. Cuộc tập trận với một tàu đổ
bộ diễn ra phía Bắc Hoàng Sa từ 1 đến 5
tháng 7-2020 nhằm làm đối trọng với các
cuộc tập trận của hai Hải đội Xung
kích Hàng không mẫu hạm Mỹ trên Biển Nam Trung
Hoa. Dù
quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á cũng chưa
phải là đối thủ cân sức với Trung
Quốc nếu xét về thực lực quân sự, kinh
tế, ngoại giao. Vậy,
bằng cách nào, các quốc gia duyên hải Đông Nam
Á có thể tránh khỏi áp lực từ Giấc
Mộng Trung Hoa thời Tập Cận B́nh? Thứ
nhất, các quốc gia duyên hải Đông Nam Á cần
phải duyệt xét lại cách gọi chính xác các
thực thể địa lư trên Biển Nam Trung Hoa
đúng theo quy định của UNCLOS để tránh
ngộ nhận về chủ quyền hoặc
quyền-chủ-quyền của các thực thể. Thứ
hai, họ sẽ biết quốc gia nào đă tuyên
bố và thực thi chủ quyền và
quyền-chủ-quyền và quyền-tái-phán trái với
quy định trong UNCLOS. Thứ
ba, kết thân với cường quốc quân sự,
kinh tế, chính trị, ngoại giao nào có thực
lực vượt trội Trung Quốc để làm
hậu thuẫn cho các hoạt động chính đáng
và phù hợp với công pháp quốc tế mới tránh
được áp lực từ Giấc Mộng Trung Hoa.
Liên Hiệp Châu Âu (EU) tuy mạnh về kinh tế, chính
trị, ngoại giao mà vẫn phải dựa vào
sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ mới
giữ vững biên cương để phát triển
đất nước trong hoà b́nh. Bóng ma của Liên Sô
rồi Nga tuy có đe doạ, nhưng, Châu Âu vẫn b́nh
yên từ sau Đệ nhị Thế chiến (1945).
Trung Quốc chịu nhục với Nhật Bản
nhiều lần mà dù muốn phục thù cũng
chẳng dám v́ có Đệ thất
Hạm đội, mạnh nhất của Hoa Kỳ,
đồn trú tại Yokosuka cộng thêm 50,000 thuỷ quân
lục chiến Mỹ trên đất Phù Tang. Bắc
Hàn thèm rỏ dăi sự giàu sang, tiên tiến của
Đại Hàn mà chỉ có thể đánh giặc
mồm v́ có 28,000 thuỷ quân lục chiến Mỹ
ở đó. Bé hạt tiêu Tân Gia Ba giàu nứt đố
đổ vách với lợi tức b́nh quân đầu
người 55,000 USD so với 10,000 của Trung Quốc,
và 2,700 của Việt Nam mà nào Bắc Kinh dám động
tới v́ có cam kết đồng minh không-hiệp-ước
từ chủ trương nhất quán của Thủ tướng
Lư Quang Diệu “hợp tác chặt chẽ với cường
quốc mạnh nhất để tồn tại và phát
triển” . Thứ
tư, các quốc gia duyên hải Đông Nam Á lấy
UNCLOS làm kim chỉ nam để giải quyết các khác
biệt về tuyên bố chủ quyền và
quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán, đồng
thời, xác định rơ ràng vùng chồng lấn
để hợp tác khai thác chung tài nguyên biển. Thứ
năm, dựa theo công thức này mà các quốc gia duyên
hải Đông Nam Á chứ không phải ASEAN trực
tiếp đàm phán với Trung Quốc về các
quyền trên Biển Nam Trung Hoa. Myanmar, Lào, Cam Bốt. Thái
Lan sẽ khó chia sẻ quan điểm của khối
duyên hải Đông Nam Á nên dễ bị Bắc Kinh
lung lạc. Thứ
sáu, các quốc gia duyên hải Đông Nam Á phải tăng
cường khả năng pḥng thủ nhằm chứng
tỏ cho Bắc Kinh thấy rơ tinh thần bất
khuất của dân tộc về khát vọng độc
lập, tự chủ. Thứ
bảy, kư “Hiệp ước Pḥng thủ chung”
hoặc “cam kết đồng minh không-hiệp-ước
với cường quốc biển mạnh hơn Trung
Quốc” là một biện pháp răn đe hữu
hiệu nhất. Các quốc gia chư hầu của Liên
Sô ở Đông Âu đều gắn bó về quân
sự với Hoa Kỳ hơn Liên Âu. Việt
Nam ở trong vị trí nguy hiểm nhất trong ASEAN.
Đại Hàn ở vào vị trí nguy hiểm hơn
Việt Nam nhiều v́ giàn đại pháo sát biên
giới của Bắc Triều Tiên, kèm theo vũ khí
nguyên tử trong tay Chủ tịch Kim Chính Ân. Nhưng,
Đại Hàn vẫn vững như bàn thạch với
kinh tế, khoa học kỹ thuật vào hàng các
quốc gia phát triển toàn diện trong khi Việt Nam
tiếp tục làm thuê từ trong nước ra tới
hải ngoại, giới lănh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn thường xuyên sang
Bắc Kinh nhận chỉ thị. Đại
Hàn làm tay sai cho Hoa Kỳ. Hay, Việt Nam làm tay sai cho
Trung Quốc? Đại-Dương |