LỢI
THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆT NAM
SAU
PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ PCA Đại-Dương |
Tài
liệu tham khảo: U.S.
says its forces will keep operating in South China Sea (Reuters) A
New Playbook for China and ASEAN
(Project & Syndicate) Look
Out, Asia: China's Peaceful Rise is Over (The National Interest) Việt
Nam: Biển Đông - kiện hay đàm? (BBC) Tại
sao Việt Nam không kiện Trung Quốc? (BBC) Có
phải Việt Nam "thiệt tḥi" v́ phán
quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông?
(GDVN)
LỢI
THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆT NAM
SAU PHÁN QUYẾT
CỦA TOÀ PCA
Đại-Dương Phán
quyết của Toà án Trọng tài Thường
trực về Luật Biển (Permanent Court of Arbitration,
PCA) công bố hôm 12 tháng 7 năm 2016 không chỉ có
lợi cho nguyên đơn Phi Luật Tân mà c̣n gồm
cả các quốc gia Đông Nam Á. Phán
quyết đă làm sáng tỏ t́nh trạng mù mờ
về yêu sách chủ quyền mà phần lớn do
Trung Quốc tạo ra liên quan đến Đường
9 Đoạn (Đường Chữ U); Khu vực
Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) và
Thềm lục địa; giới hạn của đảo,
đá, đảo nhân tạo, băi ngầm, băi nổi,
quần đảo; khu vực đánh cá truyền
thống. Phi
Luật Tân chỉ cần dựa vào phán quyết
của PCA mà đàm phán với Trung Quốc và các
quốc gia láng giềng có liên quan đến quyền
lợi hợp pháp và t́nh trạng chồng lấn. Trong
khi đó, các quốc gia duyên hải khác như
Việt Nam, Mă Lai Á, Brunei, Indonesia, Đài Loan cũng nên
dựa vào phán quyết của PCA cho Phi Luật Tân
để nhờ phán xét việc Trung Quốc đă vi
phạm vào EEZ và ngư trường truyền
thống của ḿnh. Bắc
Kinh có thể viện dẫn PCA chỉ đề
cập tới Scarborough Shoal (Panatag Shoal, Hoàng Nham Đảo),
Mischief Reef (Panganiban Reef, Đá Vành Khăn, Mĩ Tế
Tiêu), Second Thomas Shoal (Băi Cỏ Mây, Nhân Ái Tiêu, Ayungin)
nằm trong EEZ của Phi Luật Tân. PCA chỉ xác
định ngư trường truyền thống
của Phi Luật Tân tại Scarborough Shoal mà từ
chối các nơi chưa được đề
cập. Bởi
thế, các nước có quyền lợi quan trọng
tại Spratly Islands (Quần đảo Trường Sa,
Tây Sa) và Paracel Islands (Quần đảo Hoàng Sa, Nam Sa)
phải t́m kiếm phán quyết từ PCA để
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán. Việt
Nam ở vào vị trí quan trọng nhất trong
cuộc tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông Việt Nam, Biển Tây Phi Luật Tân, Biển
Đông Nam Á). Việt
Nam có chiều dài nhiều nhất trong Biển Đông
nên được hưởng lợi nhiều
nhất nếu bảo vệ hữu hiệu chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Ngược
lại, sẽ chịu thiệt tḥi hơn bất
cứ quốc gia nào trong Khối ASEAN. Từ
đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn đă tổ
chức Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải
để khai thác các nguồn lợi tại 2 Quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm
1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu Quần
đảo Hoàng Sa. Giai đoạn (1947-1974), Việt Nam
và Trung Hoa cùng trấn đóng phân nửa Hoàng Sa. Năm
1974, Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng
chiếm toàn bộ Quần đảo này đang do Chính
phủ Việt Nam Cộng Hoà cai quản. Từ
Hiệp ước Giáp Thân (1884), Pháp Quốc đại
diện cho Việt Nam về ngoại giao đă
thực thi chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường
Sa. Năm
1933, Pháp chính thức tuyên bố chủ quyền
Quần đảo Trường Sa mà không gặp
sự phản đối của bất cứ nước
nào, ngoại trừ Nhật Bản. Trung
Quốc từ chối đề nghị của Pháp
nhờ Trọng tài Quốc tế phân xử chủ
quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Tại
Hội nghị Hoà b́nh San Francisco năm 1951, Nhật
Bản chính thức tuyên bố từ bỏ chủ
quyền tất cả các hải đảo đă
chiếm đóng trên Thái B́nh Dương. Thủ tướng
Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam
lập tức tuyên bố tái lập chủ quyền
trên hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà
50 quốc gia cùng tham dự đă không phản đối.
Liên Xô đề nghị trao cho Trung Quốc đă
bị 46 phiếu chống so với 3 thuận. Năm
1988, Trung Quốc đánh chiếm Johnson South Reef (Đá
Gạc Ma) do Việt Nam trấn đóng và kiểm soát
5 thực thể địa lư. Năm 1995, Trung Quốc
cưỡng chiếm Mischief Reef (Đá Vành Khăn) do
Phi Luật Tân kiểm soát. Hiện
tại, Việt Nam kiểm soát 20 thực thể địa
lư của Quần đảo Trường Sa, Phi
Luật Tân 10, Trung Quốc 7, Mă Lai Á 7, Đài Loan 1. Sau
phán quyết của PCA, Nhà cầm quyền Cộng hoà
Xă hội chủ nghĩa Việt Nam (CSVN) vẫn
bất động do các chứng cứ bán nước
(hoặc gây bất lợi cho đất nước, dân
tộc) từ Công hàm Phạm Văn Đồng năm
1958, bản đồ, sách giáo khoa, b́a một
quyển Atlas Thế giới năm 1972. Măi
tới tháng 2-1979, CSVN mới ra tuyên bố chủ
quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, đồng
thời, giải thích lại nội dung Công hàm 1958. CSVN
cũng bị ràng buộc bởi các Tuyên bố chung
Việt-Trung về giải quyết các tranh chấp
dựa trên căn bản: “tuân thủ nhận
thức chung giữa lănh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước, nghiêm túc thực hiện những
Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển”. Do
đó, CSVN vẫn lặng thinh. Tuy
nhiên, giới học giả người Việt ở
trong và ngoài nước đang bàn căi sôi nổi
về giải pháp đàm phán hay nhờ trọng tài
quốc tế phân xử đă phơi bày các khó khăn
và hạn chế của Việt Nam. Thứ
nhất, Điều 282 và 283 của Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) quy
định chỉ được kiện khi đàm phán
đă cạn kiệt. Nhưng, từ năm 1947 đến
nay vẫn chưa có cuộc đàm phán Việt-Trung nào
về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ
hai, Bắc Kinh không thừa nhận có tranh chấp mà
cáo buộc các nước khác đă chiếm đóng
bất-hợp-pháp nhiều thực thể địa
lư của Trung Quốc. So
với Trung Quốc th́ Việt Nam yếu hơn về
quân sự, kinh tế, ngoại giao nên cần bám vào
luật pháp quốc tế mới tránh được
áp lực từ một cường quốc vô-trách-nhiệm,
đầy tham vọng. CSVN
phải đi kiện để bảo vệ vững
chắc và trường cữu chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán nếu đứng
trên lập trường Tổ quốc, Dân tộc. Bắc
Kinh luôn luôn đặt điều kiện tiên
quyết để đàm phán: “công nhận chủ
quyền bất khả tranh căi của Trung Quốc”. V́
thế, CSVN phải đặt ưu tiên khởi
kiện ra trước Toà PCA với lư do Trung Quốc
từ chối đàm phán về tranh chấp. Tuy
nhiên, CSVN bị hạn chế v́ luật pháp Việt
Nam chưa tương hợp với hệ thống pháp
luật quốc tế, chưa có đội ngũ chánh
án, luật sư am tường luật pháp quốc
tế, thiếu kinh nghiệm tranh tụng quốc
tế, chưa có nhân chứng đáng tin cậy. Nhằm
bổ khuyết cho khiếm khuyết và hạn chế
CSVN cần: (1) Thuê Hăng Luật Quốc tế Foley Hoag
và Luật sư Paul Reichler (giỏi nhất thế
giới về tranh tụng hàng hải) để t́m
ra yếu điểm Trung Quốc mà khởi kiện.
(2) Đào tạo đội ngũ nhân chứng đủ
khả năng ứng phó với kiểu phỏng
vấn chéo trong toà án quốc tế. (3) Sửa đổi
hệ thống luật pháp Việt Nam để
giới luật sư theo kịp tŕnh độ
quốc tế. (4) Sự hợp tác của các luật
gia gốc Việt trên khắp thế giới. CSVN
đang đủ điều kiện và thời cơ
để kiện Trung Quốc trên hai vấn đề:
(1) Vi phạm EEZ của Việt Nam. (2) Cản trở
hoạt động của ngư dân Việt Nam
tại khu vực đánh cá truyền thống ở
Quần đảo Hoàng Sa. Ngoài
ra, Nhà nước Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng phải điều chỉnh các sai
phạm so với Phán quyết của PCA trong vụ
kiện Phi Luật Tân-Trung Quốc. Đại-Dương |