BIỂN
NAM TRUNG HOA LUẬT PHÁP THẮNG TUYÊN TRUYỀN Đại-Dương |
Tài
liệu tham khảo: Law
Challenges China Dream for Control of South China Sea (Yale Global) Prospects
And Challenges For China After South China Sea Arbitration – Analysis
(Eurasia Review) Interview:
The South China Sea Ruling (Diplomat) What
China Can Learn From the South China Sea Case The
South China Sea Ruling: Who Really Won? (Diplomat)
BIỂN NAM TRUNG HOA
LUẬT PHÁP THẮNG TUYÊN TRUYỀN
Đại-Dương Bắc
Kinh tin chắc sẽ nuốt trọn Biển Nam Trung
Hoa bằng thủ đoạn tuyên truyền, bổng
chết đứng như Từ Hải sau khi Toà án
Trọng tài Thường trực về Luật
Biển (Permanent Court of Arbitration, PCA) công bố tài
liệu xét xử vụ Phi Luật Tân kiện Trung
Quốc. Chính
phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập từ năm
1912 đă công khai Đường 11 Đoạn vào năm
1948. Năm 1949, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa kế
nhiệm vẫn sử dụng đường này cho
đến năm 1953 mới bỏ “2 Đoạn”
trong Vịnh Bắc Bộ nên thành Đường 9
Đoạn. Nhưng, cả hai chính phủ đó chưa
đưa ra tuyên bố hoặc giải thích rơ ràng. Họ
chỉ vận dụng guồng máy tuyên truyền
khổng lồ để làm cho người Trung Hoa
cộng sản cũng như quốc gia tin tưởng
tuyệt đối về chủ quyền không thể
tranh căi trên Nam Hải đă có từ 2,000 năm trước. Tiếp
theo họ sử dụng hành động bạo
lực để buộc cộng đồng quốc
tế chấp nhận chủ quyền lịch sử
của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa bằng cách
thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán. Trung
Quốc yêu sách “chủ quyền lịch sử” bên
trong Đường 9 Đoạn chiếm 95% Biển
Nam Trung Hoa bao gồm 4 quần đảo Pratas (Đông
Sa), Paracel (Tây Sa, Hoàng Sa), Macclesfield (Trung Sa), Spratly (Nam
Sa, Trường Sa). Như thế, các quốc gia duyên
hải Đông Nam Á như Việt Nam, Phi Luật Tân,
Mă Lai Á, Brunei chỉ được 5% c̣n lại. Thực
tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 đă quy định
Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) 200 hải lư cho
mỗi quốc gia duyên hải. Trung Quốc từng
tham gia đàm phán Công ước này từ 1973 đến1982
đă đứng vào nhóm các quốc gia thuộc
Thế giới Thứ ba để đ̣i quyền có
EEZ 200 hải lư. Bắc Kinh đă phê chuẩn UNCLOS vào
năm 1996 nên bị PCA buộc tội vi phạm. Tiến
sĩ Zheng Wang, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Xung
đột và Hoà b́nh nhận xét “Các nhà ngoại
giao Trung Quốc khi đàm phán đă hoàn toàn quên
Biển Nam Trung Hoa và Đường 9 Đoạn nên
để cho EEZ mâu thuẫn với yêu sách chủ
quyền của Trung Quốc”. Tàu
buôn Bellona của Đức bị ch́m năm 1895 và tàu
Imeji Maru của Nhật đắm năm 1896 tại Hoàng
Sa. Ngư dân đảo Hải Nam ra mót lượm kim
loại nên bị công ty bảo hiểm gửi thư
khiển trách với Trung Hoa. Nhưng, nhà chức trách
cho biết Hoàng Sa không thuộc lănh thổ Trung Hoa. Năm
1909, Đô đốc Lư Chuẩn đưa 3 pháo
thuyền thăm Hoàng Sa chớp nhoáng trong 24 giờ
đồng hồ rồi về. Năm
1933, Trường Sa được sáp nhập vào
tỉnh Bà Rịa, và Pháp đề nghị đưa
vấn đề ra toà án quốc tế, nhưng, Trung
Hoa từ chối. V́
thế, Toà PCA tuyên phán: (1) Chẳng có cơ sở pháp
lư để Trung Quốc đ̣i quyền lịch
sử các vùng biển bên trong Đường 9 Đoạn”.
(2) Không một thực thể nào bên trong Đường
9 Đoạn tạo ra EEZ và Thềm Lục địa.
Một số nổi khi thuỷ triều cao nhất
chỉ được lănh hải 12 hải lư. (3) Trung
Quốc đă vi phạm Công ước về Quy định
Quốc tế nhằm Ngăn ngừa Va chạm trên
Biển năm 1972, và Điều khoản 94 của Công
ước liên quan tới
an toàn hàng hải”. (4) Trung Quốc xây đảo nhân
tạo trong EEZ của Phi Luật Tân làm thiệt
hại hệ sinh thái, phá hoại vĩnh viễn điều
kiện tự nhiên. Những
lời đe doạ được sự đồng
ư của Bắc Kinh như sẽ lập Vùng Nhận
diện Pḥng Không trên Biển Nam Trung Hoa; Trung Quốc
không sợ chiến tranh; có hành động quân
sự; xây đảo nhân tạo Scarborough Shoal chưa
xảy ra mà h́nh như có như dấu hiệu
xuống thang. Phán
quyết của Toà PCA làm cho Giấc Mộng Trung Hoa
của Chủ tịch Tập Cận B́nh bị teo
lại. Chủ
bút tờ YaleGlobal, Nayan Chanda giải thích “Ông ta
hoặc tiếp tục bành trướng quân sự,
bất chấp phán quyết của Toà và nguy cơ
xung đột cấp vùng, nỗi nhục quốc
tế hoặc cố gắng làm giảm t́nh h́nh căng
thẳng bằng các biện pháp ngoại giao làm cho
Tập Cận Ḿnh trở thành yếu đuối trước
trạng thái chủ nghĩa dân tộc đang dâng
cao”. Bắc
Kinh tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền các
đảo ở Nam Hải. Tất cả đảo
đều có nội thuỷ, lănh hải, vùng tiếp
giáp lănh hải, EEZ và Thềm Lục địa, có
quyền lịch sử ở Biển Nam Trung Hoa”. Mặt
khác, Bắc Kinh kiềm chế để không xảy
ra các cuộc biểu t́nh rầm rộ như vụ
Toà Đại sứ Trung Quốc ở Belgrade bị
NATO ném bom nhầm năm 1999, hoặc vụ biểu t́nh
đập phá khi Nhật Bản tuyên bố
quốc-hữu-hoá Quần đảo Senkaku năm 2012. Biển
Đông có tầm quan trọng đối với
sự thịnh vượng và thương mại toàn
cầu v́: “hàng năm có 1/3 hải vận thế
giới thông qua Biển Đông; 8 trong số 10
cảng container lớn nhất thế giới nằm
trong vùng Châu Á-Thái B́nh Dương; gần 2/3 dầu
hoả thế giới từ Ấn Độ Dương
vào Thái B́nh Dương. Lịch
sử Trung Hoa từng chứng minh khi nhà cầm
quyền muốn thoả măn nguyện tâm lư bá
quyền th́ thường cất binh chinh phạt láng
giềng v́ chưa gặp đối thủ hùng
mạnh. Nhưng,
từ năm 1839 Trung Hoa rơi vào “thế kỷ ô
nhục” cho tới khi chấm dứt Thế chiến
Thứ hai v́ chạm phải sức mạnh quân
sự Tây Phương cũng như Nhật Bản. Thực
tế, Trung Quốc không có khả năng đụng
độ với Tây Phương và Nhật Bản như
thời c̣n “múa gậy vườn hoang”. Các
quốc gia láng giềng với Trung Quốc nói chung và
Đông Nam Á nói riêng dù mê túi tiền hơn 3,000
tỉ của Bắc Kinh cũng không thể bán rẻ
chủ quyền nên càng ép họ càng nghiêng về phía
cộng đồng quốc tế văn minh. Con
đường chống lại chiến dịch tuyên
truyền của Trung Quốc không thể bằng h́nh
thức phản-tuyên-truyền mà tấn công trực
diện vào điểm yếu nhất của Tập
Cận B́nh về pháp lư. Từ
lâu, một số quốc gia duyên hải Đông Nam Á,
đặc biệt là Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa
Việt Nam, hăm he đưa Trung Quốc ra các toà án
quốc tế. Nhưng, chưa có nước nào đủ
dũng khí như Phi Luật Tân. Họ
tự ru ngủ bằng khẩu hiệu “đàm phán
song phương, duy tŕ hoà b́nh và ổn định”
nên bị Bắc Kinh dẫn vào mê hồn trận, không
lối ra. Bị
Bắc Kinh chèn ép, đe doạ bằng chính sách
“cắt lát” làm mất chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán quốc gia v́ các
quốc gia Đông Nam Á lao vào cuộc đàm phán song
phương với Trung Quốc theo điều
kiện “chấp nhận chủ quyền không tranh căi
của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa” rồi
mới đàm phán. Phán
quyết của Toà PCA chú trọng giải quyết
vấn đề của Phi Luật Tân, nhưng, cũng
có lợi các quốc gia ở Biển Đông. Nhưng,
từng quốc gia Đông Nam Á cần phải khai thác
triệt để hầu giành lại quyền lợi
của riêng ḿnh mà Toà PCA chưa xét tới v́ không
nhận được đơn kiện. Luật
sư Paul Reichler, linh hồn của vụ Phi Luật Tân
kiện Trung Quốc đă nhận định
“Chắc chắn câu chuyện này chưa chấm
dứt” như một lời nhắc nhở những
ai c̣n do dự.
Đại-Dương |