Mục
tiêu của CIA trong đối sách của ḿnh cho
biển Đông
Nguyễn Trọng Dân |
Giới
chức quân sự Hoa Kỳ lần lượt ra
mặt tuyên bố cứng rắn, thậm chí hăm
dọa công khai Trung Cộng. Ngay vào ngày đầu tháng
Sáu, Trung Tướng McKenzie, Tham Mưu Trưởng
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ, khi trả
lời phỏng vấn đă khẳng định
rằng Hoa Kỳ thừa sức làm vụn nát
các đảo nhân tạo. Lời tuyên bố này
chẳng khác nào đổ dầu thêm lửa vào t́nh h́nh
biển Đông căng thẳng dậy sóng suốt
hai tháng qua. Trước đó chỉ hai ngày, bộ Tư-lệnh
Hải quân Hoa Kỳ thừa nhận đă mời
Cộng Sản Việt Nam (CSVN) tham gia tập
trận châu Á Thái B́nh Dương RIMPAC kéo dài
suốt từ 27 tháng Sáu đến đầu tháng Tám.
Trong khi đó, Trung Cộng đă không được
mời dự dù là cường quốc ở biển
Đông. Hành
động này của Hoa Kỳ khiến hố ngăn
cách giữa CSVN và Trung Cộng càng thêm sâu hơn và
làm Trung Cộng thêm tức giận. Vài
ngày trước đó, Bộ Trưởng Quốc Pḥng
(QP) Mattis, cũng
khẳng định
Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra tại biển
Đông tiếp nối sau quyết định đưa
chiến hạm đi thẳng vảo Hoàng Sa như bài
trước đă tŕnh bày. Điều
bất ngờ nhất là Đô đốc Hải quân
Davidson, vào hai tháng trước khi c̣n là ứng
cử viên cho chức Tư lệnh Hải Quân Thái B́nh
Dương, đă phát
biểu oang oang trước UB quân lực
của Thượng Viện Hoa Kỳ, là “chỉ
có chiến tranh mới có thể khiến Trung Cộng
từ bỏ tham vọng độc chiếm biển
Đông.”
Lời tuyên bố này rơ ràng báo hiệu sự căng
thẳng tại biển Đông sẽ leo thang nhanh chóng. Như
vậy là trong một giai đọan ngắn ngủi chưa
đầy hai tháng qua, giới tướng lănh cao
cấp của Hoa Kỳ lần lượt xuất đầu
lộ diện, liên tục đưa ra nhiều tuyên
bố thẳng thừng hăm dọa trực tiếp
đến Trung Cộng về vấn đề biển
Đông. Dĩ
nhiên, những lời tuyên bố hăm dọa này không
xuất phát từ bộ Ngoại Giao nên về mặt
h́nh thức, vẫn chưa thể coi đây là sự hăm
dọa chính thức của Hoa Kỳ đối với
Trung Cộng, nhưng ai ai cũng hiểu rằng, nếu
Ṭa Bạch Ốc không cho phép, th́ các vị tướng
lănh này không ngu dại ǵ tuyên bố bậy bạ quá
mức, ngoài ra, nếu có trường hợp lỡ
lời quá trớn th́ cũng không thể lỡ lời
theo kiểu “tập thể”, hết ông tướng này
đến đô đốc nọ lỡ lời
suốt hai tháng qua như thế! Trong
bối cảnh ḥa đàm thương-mại Mỹ
Trung để né tránh chiến tranh mậu dịch c̣n
đang tiếp diễn, cũng như nỗ lực dàn
xếp cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ và
Cộng Sản Bắc Hàn c̣n đang dang dở, th́
bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chưa thể tiện
bề tuyên bố hăm dọa Trung Cộng tại
biển Đông công khai, nên Ṭa Bạch Ốc đă
để bộ QP và các tướng lănh Hoa Kỳ
đảm nhiệm việc này. Sự
căng thẳng tại biển Đông c̣n leo thang ra ngoài
dự đoán của giới truyền thông, giới phân
tích, khi mà Tổng
Thống Phi Duterte đột nhiên tuyên bố
sẵn sàng đánh Trung Cộng nếu chế độ
Cộng Sản này cứ lấn lướt bành trước
tiếp vào lănh hải của Phi cũng vào vài ngày trước. Trước
đây, ngay cả khi Trung Cộng ngang nhiên lấn
chiếm và tiếp tục xây đảo nhân tạo
tại vùng biển Hoàng Nham của Phi bất chấp phán
quyết của toà án quốc tế về biển
đảo ở Hague, mà Duterte c̣n vẫn phải
nhịn nhục Trung Cộng trong vấn đề
biển Đông, th́ bây
giờ, việc Tổng thống Phi loan báo trắng
trợn như thế, rơ ràng là Phi phải có lời
hứa hẹn tuyệt đối từ Hoa Kỳ, là
sẽ sẵn sàng khai hỏa giúp Phi nếu Trung Cộng
tiếp tục lấn hiếp lănh hải của Phi, coi
thường lời tuyên bố của Tổng Thống
Duterte. Phi không
có khả năng khai hỏa đối đầu
trực diện với Trung Cộng. Sự
thay đổi thái độ nhanh đến chóng
mặt của Hoa Kỳ đối với Trung Cộng
về vấn đề biển Đông làm Trung Cộng
có hai lựa chọn, hoặc là tiếp tục kế
hoạch tiệm tiến lấn chiếm lănh hải
của ḿnh bấy lâu, hoặc là lùi bước. Trung
Cộng trả lời lại sự hăm dọa
của giới tướng lănh Hoa Kỳ và tổng
thống Phi bằng động tác rất nhẹ nhàng là
cho chạy
thử mạng lưới điện đầu
tiên tại đảo Phú Lâm cũng chỉ cách đây
vài ngày. Thông điệp này cho thấy, Trung Cộng
dứt khoát không rút lui hay từ bỏ ư định
biến các đảo nhân tạo này thành căn cứ
của Hải Lục Không quân của Trung Cộng
tại biển Đông. Bất
ngờ hơn nữa là vào đầu tháng Sáu, cả
hai vị bộ trưởng QP của Pháp và Anh đều
tuyên
bố công khai là sẽ cho tàu chiến của ḿnh vào
biển Đông để thách thức sự hung hăng
của Trung Cộng tại nơi này. Dù
chưa rơ tàu chiến của Pháp Anh sẽ đi vào
quần đảo nào tại biển Đông, nhưng
ai ai cũng dự đoán là tàu chiến Anh Pháp sẽ
vào vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Ḥa trước
đây. Nếu đúng là như vậy, th́ các siêu cường
vẫn không thừa nhận sự cưỡng chiếm
Hoàng Sa của Trung Cộng sau khi đẩy lui
Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1974. Đây
cũng là tính hiệu cho thấy các siêu cường
đă có thái độ phủ quyết, không đồng
ư với quan điểm chủ quyền Trung Cộng
tại quần đảo này. Sự
phối hợp nhịp nhàng có thứ tự lớp lang
của Hoa Kỳ, Anh và Pháp trong hai tháng vừa qua cho
thấy thái độ của Hoa Kỳ tại biển
Đông có sách lược, có tính toán cân nhắc
kỹ lưỡng, không phải chỉ là ứng phó
tức thời trước hoàn cảnh. Sách
lược về biển Đông của Hoa Kỳ
được vạch định bởi nhiều cơ
quan, mà trong đó, cơ quan t́nh báo CIA đóng vai tṛ
then chốt từ phân tích đến đưa ra sách lược.
Đương nhiên, các chiến lược gia bên
bộ QP Hoa Kỳ cũng có vai tṛ then chốt trong
quyết định sau cùng cho chính phủ Hoa Kỳ. Cho
nên, để hiểu bản chất bên trong
của t́nh h́nh biển Đông dậy sóng đ̣i
hỏi sự phân tích kỹ càng về mục tiêu
chiến lược mà CIA nhắm đến. Không
phải vô cớ mà Hoa Kỳ cứ để cho Trung
Cộng lấn hiếp ở biển Đông ngày càng tăng,
cũng như chọn thời điểm để gây
khó khăn cho Trung Cộng trong quá tŕnh bành trướng
ở biển Đông. Mục
tiêu chiến lược thứ nhất của
CIA tại biển Đông – Đẩy Trung Quốc
suy sụp an sinh xă hội để an ninh chính
trị bị suy yếu: Mặc
dù nhiều chiến lược gia cho rằng mục tiêu
của CIA tại biển Đông là bảo đảm
khả năng kiểm soát đường lưu thông
mậu dịch hàng hải ngang qua vùng này của Hoa
Kỳ. Nhưng trên thực tế, đây chỉ là
mục tiêu đ̣n bẩy, nghĩa là mục tiêu
bảo đảm đường hàng hải chuyên
chở hàng hóa dầu hỏa đi ngang qua vùng này
chỉ là bề ngoài, tuy rất quan trọng, nhưng
được dùng để che đậy nhiều
mục tiêu khác mà CIA cho là quan trọng hơn. Điều
quan trọng trước hết, thông qua căng
thẳng về biển Đông, CIA muốn nh́n thấy
Trung Cộng tiếp tục chảy máu về ngân sách,
tức là tiếp tục duy tŕ một mức ngân
sách càng lúc càng lớn hơn nữa dành cho quân sự
để khiến sự thiếu thốn về ngân
sách để đối phó những bất ổn
về an sinh xă hội bên trong ḷng nội bộ Trung
Cộng mỗi lúc mỗi tăng. Mặc
dù ít được đề cặp trên
mọi hăng truyền thông của thế giới,
nhưng Trung Quốc vẫn là quốc gia có trên 500
triệu dân sống dưới năm đô-la rưỡi
một ngày, tức là khoảng trên 40% dân số
của Trung Quốc vẫn sống trong nghèo đói cùng
cực. Hoàn cảnh nghèo đói của 500 triệu người
dân Trung Quốc là mối nguy họa lớn nhất cho
an ninh chính trị của đảng Cộng Sản, là
lực lượng nếu dấy bạo loạn mà không
cách ǵ, kể cả sẵn sàng thả bom nguyên tử
hay bom hóa học để trấn áp, cũng không
thể thắng nổi. Trung
Cộng đă t́m đủ cách ru ngủ lực
lượng nghèo khó này bằng nhiều hứa
hẹn, kể cả vận dụng tinh thần dân
tộc, yêu cầu thành phần nghèo đói của người
dân Trung Quốc hăy tin tưởng vào thành
tựu kinh tế dưới sự lănh đạo
của đảng, để tiếp tục chờ
đợi sự cải thiện đời sống ở
tương lai. Tuy nhiên, mọi sự chờ đợi
đều có giới hạn, nhất là khi đời
sống của thành phần nghèo đói trong xă
hội Trung Quốc ngày càng cơ cực hơn. Cùng
đường túng thế, vào đầu tháng Giêng năm
nay, Tập
Cận B́nh đă phải công khai hứa hẹn thúc
đẩy cải thiện đời sống của người
dân, mà trong đó, sẽ giúp đỡ 70 triệu người
dân ra khỏi t́nh trạng đói nghèo cùng cực
từ đây đến năm 2020. Giả sử
lời hứa hẹn này của họ Tập thành
hiện thực, th́ vào năm 2020, Trung Cộng vẫn có
hơn trên 400 triệu người dân khổ đói cùng
cực. Để
có thể giảm bớt t́nh trạng nghèo đói
quá căng thẳng trong ḷng xă hội Trung Quốc,
một khoảng ngân sách lên đến 370 tỷ Mỹ
kim đă được Trung Cộng tung ra để tài
trợ tài chánh cho giới nghèo khó, con số này quá
nhỏ nhoi không thấm vào đâu cho cả xă hội
Trung Quốc 500 triệu dân nghèo khó bất ổn, nhưng
cũng giúp họ Tập giảm bớt sự căng
thẳng có thể dẫn đến nội loạn
trong giai đoạn trước mắt. Tuy
nhiên, từ con số ngân sách này, người ta
thấy rơ Trung Cộng rất muốn chi ra nhiều hơn
nữa để giảm nghèo nhằm bảo đảm
an toàn chính trị cho thêm vững chắc mà không
thể được. Nợ
công của chế độ đă vượt qua
trên 28 ngàn tỷ Mỹ kim, lên trên 200% GDP của
cả nước, một ngân sách trên một ngàn
tỷ Mỹ kim cần thiết cho vấn đề
chống nghèo khó, giảm nghèo khó cho 500 triệu người
dân là điều mà Trung Cộng không thể cán đáng
nổi trong lúc này. Do
đó, chi phí quân sự của Trung Cộng cứ tăng
dần lên theo tốc độ đến 7% hay
8% GDP theo mỗi tài khóa (*), để rồi tổng
số ngân sách quân sự vượt quá 10% đến
15% GDP v́ lư do biển Đông là chủ yếu,
khiến mọi hy vọng tăng vọt ngân sách cho
vấn đề giảm nghèo bảo toàn an toàn chính
trị cho Trung Cộng ngày một tắt liệm
đi. Với mức nợ công lên trên 200% GDP,
các khoản trợ giúp của WB từ Hoa Kỳ cũng
khó có thể được chuẩn thuận. Trung
Cộng thật sự một ḿnh đơn độc
đối phó với nạn nghèo khó không cường
quốc nào muốn giúp đỡ cả. Nói
cho ngắn gọn hơn, Trung Cộng càng chi nhiều
cho mục tiêu quân sự bao nhiêu, nhất là ngân sách càng
bị chảy máu cho vấn đề biển Đông
nhiều bao nhiêu th́ nội loạn ngay trong ḷng xă
hội Trung Quốc càng đến gần bấy nhiêu.
Vào giờ phút này, mỗi xu chi thêm cho an sinh xă hội
sẽ giúp Trung Cộng có thêm mỗi giây về
mặt an toàn chính trị, trong khi mỗi xu chi thêm cho quân
sự để tăng ưu thế tại biển
Đông, lại đẩy Trung Cộng đi
gần đến chiến tranh và nội loạn nhanh
hơn. Mục
tiêu chiến lược thứ hai của CIA
tại biển Đông– Đẩy Trung Cộng đi vào
rối loạn ngân sách để suy kiệt rối
loạn nội bộ: Một
chính phủ có nợ công lên đến 200% mà lại có
ngân sách quốc pḥng trên 10% GDP, lại cứ tăng
vọt khoảng 7% trong gia đoạn này so với các tài
khóa trước th́ là một sự tự sát chính
trị. Đơn giản, điều này sẽ giúp
Trung Cộng đi vào rối loạn ngân sách. Nền
kinh tế lắp ráp và chỉ phụ thuộc vào
xuất khẩu mậu dịch hiện nay của Trung
Cộng không thể nào cán đán nổi chính sách tăng
ngân sách quân sự quá trớn của Trung Cộng
ở đường dài. Trước
hết, nền kinh tế này đang phải đối
diện với chiến tranh mậu dịch với các nước
ḿnh xuất khẩu hàng hóa, khiến sự tăng trưởng
tổng giá trị xuất khẩu không được
như mong đợi và sẽ khó khăn hơn. Kế
đến, nền kinh tế này phải trả tiền
lời cho khoản nợ công gần 28 ngàn tỷ
Mỹ kim, mà trong khi đó, tổng số giá trị
của nền kinh tế Trung Cộng chỉ vào
khoảng gần 12 ngàn tỷ Mỹ kim. Tức là
tổng số nợ vượt quá 200% GDP. Ước
tính mỗi một giây, Trung Cộng phải trả trên
5600 Mỹ kim tiền lời. Có nghĩa là mỗi năm,
Trung Cộng phải trả
tiền lời cho nợ công của chính
phủ không thôi đă lên đến 180 tỷ Mỹ
kim, bằng toàn bộ ngân sách về quân sự
của Bắc Kinh. Cho nên cuộc chạy đua vũ
trang ở biển Đông càng tăng tốc bao nhiêu,
th́ sự khánh kiệt về ngân sách của Trung
Cộng càng gần kề bấy nhiêu. Một
khi ngân sách đi vào chổ khánh kiệt, th́ bất
đồng bên trong nội bộ các đảng
Cộng Sản sẽ bộc phát rất mạnh. Trong quá
khứ, Liên Xô kiệt quệ tài chánh dẫn đến
mất khả năng kiểm soát của trung
ương đảng đối với các chi bộ Xô-viết,
kể cả Xô-viết Nga, Ucraine và Georgia; nơi
sản sinh ra ba lănh tụ Cộng Sản lừng danh,
một là Lê-nin (Nga) sáng lập ra Liên Xô, hai là TBT
Khrushchev (Ucraine) người kế vị Stalin và ba là
TBT Stalin (Georgia). Tương tự như thế,
Cộng sản Rumania cạn kiệt tài chánh nên không
thể điều khiển quân đội, dẫn đến
mất quyền kiểm soát chính trị và bị đảo
chánh, Cộng Sản Ba Lan, Hung, Tiệp, Nam Tư, Đông
Đức, v..v đều tan nát cũng chỉ v́
kinh tế tài chánh của cả xă hội bị suy
kiệt trầm trọng quá lâu không c̣n gượng
dậy nổi. Bản
chất độc tài của cộng sản đ̣i
hỏi rất nhiều họng súng để kiểm soát
người dân, do đó các đảng cộng
sản cần rất nhiều tiền để duy tŕ
quân đội công an. Khi tài chánh bị suy
kiệt, lực lượng cầm súng không
nhất thiết phải phục tùng đảng nữa
và từ đó, đảng cộng sản không thể
đủ sức trấn áp chống đối từ
mọi giới trong xă hội nữa. Ngoài
ra, sự đoàn kết bên trong nội bộ cộng
sản hoàn toàn dựa vào sự ban phát tài lộc
một cách ưu đăi từ đảng đối
với các đảng viên ở mọi cấp, cho nên
mất khả năng ban phát tài lộc, các đảng
cộng sản đổ vỡ nhanh như nhà bị
mối ăn. Tập
Cận B́nh đă liều chết tiến hành thanh
trừng loại trừ mọi vây cánh hay băng nhóm bên
trong đảng thông qua chương tŕnh chống
hối lộ “đả hổ diệt ruồi”,
bắt bớ bỏ tù trên cả triệu đảng
viên không cùng vây cánh, tập trung tối đa quyền
lực của trung ương đảng lên
mọi hoạt động của đảng, của quân
đội, nhằm đề pḥng sự trước
tan ră nhanh chóng của đảng khi xảy ra suy
kiệt nền tài chánh đảng, có thể
xảy ra trong nay mai khi mà nợ công tiếp tục tăng
vọt. Tuy
nhiên, di họa của rối loạn nội bộ
đảng do suy kiệt tài chánh vẫn c̣n nguyên
bởi v́ giả sử ngay cả khi chỉ c̣n mổi
phe của ông Tập nắm đảng, th́ giữa các
thành viên cùng phe với nhau, nếu sự ban phát đặc
quyền đặc lợi từ đảng không c̣n
thực hiện được nữa do tài chánh suy
kiệt, th́ các thành viên này cũng không cần
thiết phải đoàn kết nữa, cũng như không
c̣n nhất thiết phải trung thành với họ
Tập nữa, dẫn đến sự tan ră ngay chính
trung ương đảng. Mặc
dù quỹ dự trữ ngoại tệ Trung Cộng vượt
qua mức ba ngàn tỷ Mỹ kim, nhưng con số này
sẽ không đủ để lắp hố nợ
nần đang ở mức 28 ngàn tỷ Mỹ kim. Đó
là chưa kể bổng lộc cho trên dưới hơn
84 triệu đảng viên. Cho đến giờ phút này,
ngân sách của Trung Cộng vẫn là ngân sách thắt
lưng buộc bụng, túng thiếu nhiều mặt. Do
đó, chi tiêu về quân sự càng tăng vọt nhanh
bao nhiêu, th́ càng khiến sự suy kiệt và rối
loạn ngân sách càng bùng nổ nhanh bấy nhiêu. Mức
độ giàu có kinh khiếp của các đảng viên
trung và cao cấp từ địa phương đến
trung ương cũng là một trong những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến khánh kiệt nền tài
chánh cả Trung Cộng. Người ta ước tính
trên 10% GDP của Trung Cộng bị ḅn rút bởi các
đảng viên. Nghĩa là mỗi năm, tham nhũng và
hối lộ làm ngân sách của Trung Cộng thiệt
hại khoảng 110 tỷ Mỹ kim đến
200 tỷ Mỹ kim. Do
đó, Tập Cận B́nh đă cố liều mạng
thanh trừng hàng loạt các viên chức trung cao cấp
để giảm bớt thiệt hại công quỹ.
Sự thanh trừng hối lộ gắt gao là sự
liều lĩnh quá lớn mà họ Tập buộc
phải chấp nhận để giải quyết t́nh
trạng rối loạn ngân sách của đảng,
chỉ vào năm ngoái, giới chức thân cận
của họ Tập đă thừa nhận có những
“biến cố” gần giống như đảo chánh
đă xảy ra và được dập tắt (**) Suy
kiệt tài chánh c̣n sẽ khiến toàn bộ
hệ thống công ty, tập đoàn nhà nước
của đảng bị tê liệt, tạo ra thất
nghiệp hàng loạt khiến nổi loạn c̣n dễ
dàng xảy ra hơn. Đây chính là nổi ám ảnh
của họ Tập. Một khoảng ngân sách dành cho tài
trợ nạn thất nghiệp bùng phát quá mạnh, quá
trầm trọng, là đều mà không chính phủ nào
có món nợ công trên 200% GDP có thể gánh nổi. Do
đó, nếu Trung Cộng không kiểm soát được
t́nh h́nh rối loạn tài chánh, th́ đảng
bị rối loạn ngay từ bên trong nội bộ. V́
vậy, sự gia tăng chi phí quân sự ở biển
Đông sẽ là sự chảy máu tài chánh tiềm
ẩn nhiều hung hiểm đẩy Trung Cộng
lâm vào cảnh rối loạn an sinh xă hội,
cũng như dẫn đến sự xung khắc
bất ổn bên trong nội bộ đảng mỗi lúc
mỗi nhanh hơn. Mục
tiêu chiến lược thứ ba của CIA
tại biển Đông– Thúc đẩy các nước
trong vùng biển Đông hiện đại hóa
quân đội, chia sẽ trách nhiệm an ninh quốc
pḥng với Hoa Kỳ: Ngay
sau đệ nhị thế chiến chấm dứt,
toàn vùng Đông Nam Á hoàn toàn nằm dưới
quyền kiểm soát của người Hoa Kỳ; và các
quốc gia trong vùng Đông Nam Á hoàn toàn nương
tựa sự bảo vệ của Hoa Kỳ để
phát triển, chẳng có quốc gia nào chú trọng tăng
cường binh bị trừ Việt Nam Cộng Ḥa ra
do phải đối phó với họa xâm lăng
của cộng sản. Sau hơn 60 năm kể từ
1950 đến nay, mặc dù biết Trung Cộng là
một cường quốc về quân sự, luôn có
tham vọng bành trướng, nhưng chẳng quốc
gia nào chịu hiện đại hóa quân đội.
Tất cả điều ỷ lại vào Hoa Kỳ. Khi
CIA thúc đẩy Hoa Kỳ nêu cao mục đích
“Tự do hàng hải” mà đứng ngoài không can
thiệp về chủ quyền lănh hải th́ các nước
trong vùng bắt đầu thấy rơ quan niệm ỷ
lại vào Hoa Kỳ sai lầm, và đồng ư cùng
Hoa Kỳ chia sẽ trách nhiệm an ninh quốc pḥng. Vũ
khí chiến lược nhập khẩu vào vùng Đông
Nam Á bắt đầu tăng vọt. Dù ǵ đi
chăng nữa, các nước trong vùng cần phải
bảo vệ nguồn dầu hỏa, khí đốt
trong lănh hải của ḿnh, không thể để
lọt vào tay của Trung Cộng một cách quá
dễ dàng được. Tính
đến năm 2016, ngân sách quốc pḥng của
Phi cuối cùng cũng chịu tăng 25%. Quốc gia này
ỷ lại vào Hoa Kỳ quá lâu sau đệ nhị
thế chiến, chưa thành lập nổi một
hạm đội cho ra hồn. Singapore cũng đồng
ư theo chân Phi, tăng ngân sách quốc pḥng lên 9%, Riêng
Indonexia, ngân sách quốc pḥng tăng 150% Trừ
Cộng Sản Việt Nam có chung đặc điểm
rối loạn ngân sách tiềm ẩn như Trung
Cộng, các nước trong vùng c̣n lại, dù có đối
đầu với nhiều khó khăn kinh tế, an sinh xă
hội, nhưng lại dư sức gia tăng ngân sách
quốc pḥng. Từ lâu, ngân sách quốc pḥng của
những quốc gia này chiếm tỷ lệ phần trăm
GDP rất thấp. Ngân sách quốc pḥng của
Indonexia vào năm 2015 chiếm khoảng 0.9% GDP, cho nên
sự tăng vọt ngân sách quốc pḥng lên đến
150% trong hai năm gần đây thật ra cũng
chẳng là bao nhiêu. Xin lưu ư là ngân sách quốc pḥng
của Trung Cộng chiếm trên 10% GDP. Từ
đó cho thấy, chính sách thong dong của Hoa Kỳ khi
đối phó với tham vọng bành trướng
của Trung Cộng ở biển Đông là nhằm
tạo thời gian để các quốc gia Á châu trong vùng
biết cách liên minh chặt chẽ hơn, biết cách
tự lo quốc pḥng chi tiết hơn thay v́ bỏ
lỏng hoàn toàn về mặt quốc pḥng, giao cho Hoa
Kỳ lo lắng kể từ năm 1950 đến nay. Đi theo mục tiêu này, Hoa Kỳ mở
rộng hàng loạt các khóa huấn luyện quân sự
cho sĩ quan các nước trong vùng. Người dân vùng
Đông Nam Á xuất hiện nhiều hơn
tại các đại học quân sự của Hoa
Kỳ (như trường huấn luyện sĩ quan
West Point chẳng hạn). Dù có nhiều lời đồn đoán Hoa
Kỳ làm như vậy là để bán vũ khí
kiếm tiền, nhưng trên thực tế, Hoa Kỳ
thật sự cần các nước trong vùng hiện
đại hóa quân đội để giúp Hoa Kỳ
ổn định an ninh quốc pḥng trong vùng. Trung Cộng có dân số trên 1,3 tỷ người.
Do đó, tổng số binh sĩ khi tổng động
viên có thể lên trên 500 triệu người. Hiện
quân số đang tại ngũ cũng đă trên 2
triệu người. Cho nên muốn đối đầu
quân sự với Trung Cộng, Hoa Kỳ cần các
nước trong vùng tham chiến phụ thêm một
tay khi cần thiết. Ngoài các nước trong vùng, Hoa
Kỳ c̣n cần phải lôi kéo cả Ấn Độ,
Nhật, Úc, Liên Hiệp Anh, Pháp vào cuộc th́ mới
hy vọng đủ quân số để đối
chọi với Trung Cộng khi cần. Thông qua hai cuộc chiến vùng Vịnh với
Irag trước đó, với Taliban ở Afghanistan,
giới quân sự đă thấy rơ Hoa Kỳ có
thừa vũ khí nhưng thiếu lính trầm trọng. Nay nếu muốn đối phó quân sự
với Trung Cộng, Hoa Kỳ cần huy động
tổng lực nhân sự của ḿnh. Tuy nhiên, Hoa
Kỳ chỉ có 325 triệu dân, th́ không đủ người
để đối phó với một quốc gia trên 1
tỷ dân tại biển Đông nếu xung đột
xảy ra. Hơn nữa, hầu hết các chiến lược
gia của CIA đều thuộc trường phái nh́n
chiến tranh thông qua gốc độ kinh tế. Nghĩa là theo quan niệm của CIA, với
một nền kinh tế có GDP trên 12 ngàn tỷ Mỹ
kim như Trung Cộng, th́ nếu Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Ấn Độ, Anh, Pháp, Úc, và các nước
trong vùng Đông Nam Á hợp lại gây chiến
với Trung Cộng, tổng số GDP của Đồng
Minh (> 30 ngàn tỷ Mỹ kim) sẽ vượt
trội đối phương, áp đảo Trung
Cộng gấp hai lần, cho nên khi chiến tranh
tiếp diễn kéo dài, Trung Cộng sẽ buộc
bị kiệt quệ v́ không làm sao mà chịu nổi
tiềm năng kinh tế hậu thuẩn chiến tranh
áp đảo của Đồng Minh, gấp ḿnh đến
hai lần hoặc hơn. C̣n nếu Hoa Kỳ tham chiến một ḿnh,
mức chênh lệnh GDP giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng
tuy cũng lên đến trên sáu ngàn tỷ, nhưng
vẫn không áp đảo gấp hai lần như tŕnh
bày ở trên, do đó, khả năng chiến thắng
Trung Cộng bị sút giảm nghiêm trọng. Đồng minh có thể lỏng lẻo lúc
đầu, Trung Cộng có thể dành được
những thắng lợi lúc đầu, nhưng khi đồng
minh phản công tổng lực th́ sức sản
xuất của Trung Cộng hậu thuẩn cho chiến
tranh sẽ chịu không nổi. Hơn nữa, Hoa Kỳ
có kinh nghiệm dẫn dắt đồng minh đang
từ bại thành thắng qua suốt hai cuộc
thế chiến, kể cả cuộc chiến tranh
lạnh với Liên Xô. Do đó, đối sách của CIA về
vấn đề biển Đông nh́n bề ngoài có
vẻ nữa vời tŕ hoăn để bán vũ khí,
nhưng trên thực tế, Hoa Kỳ đang cần
thời gian để cũng cố liên minh, hiện
đại hóa quân sự đồng minh để có
được sức mạnh áp đảo từ kinh
tế, vũ khí, quân số trước Trung Cộng. Mục
tiêu chiến lược thứ tư của
CIA tại biển Đông – Ràng buộc Cộng
Sản Việt Nam vào đường lối chiến lược
của Hoa Kỳ tại biển Đông Trong
hội nghị về an ninh khu vực diễn ra
tại Singapore vào ngay đầu tháng Sáu, Bộ Trưởng
Mattis đă lên tiếng hối thúc CSVN phải hợp tác
với Hoa Kỳ về quân sự sâu rộng hơn
nữa. Sự hối thúc này cho thấy Hoa Thịnh
Đốn không cho Hà Nội sự lựa chọn đứng
trung lập mà buộc phải gia nhập vào lực lượng
Đồng Minh của Hoa Kỳ tại biển Đông
đối chọi với Trung Cộng. Hoa Kỳ chờ cho các đảo nhân tạo
của Trung Cộng hoàn tất mới đồng
ư tháo bỏ cấm vận vũ khí làm CSVN chậm
chể rất nhiều trong việc củng cố
sức mạnh quốc pḥng. Do đó, CSVN không c̣n cách
nào khác là chạy nước rút trong mối quan hệ
quốc pḥng với Hoa Kỳ, mà trong đó, chấp
nhận sự hiện diện của lực lượng
Không-Hải và TQLC của Hoa Kỳ tại miền Trung Việt
Nam khi cần thiết. Lục quân của CSVN hùng mạnh với hơn
1500 xe tăng hiện đại đủ các loại nhưng
trong cuộc chiến không hải tại biển Đông
nếu xảy ra, lực lượng này hoàn toàn không
thể tham chiến. Khoảng 140 oanh kích của Không
quân CSVN th́ đă quá cũ, 30 chiếc Su Khoi 35
hiện đại không
thể bao phủ chiều dài của biển Đông
cũng như bảo vệ bầu trời Việt Nam.
CSVN cố gắn đẩy mạnh hệ thống hỏa
tiển pḥng không nhưng đây là chiến lược
thụ động chủ bại, nhất là khi
Hải quân CSVN quá yếu kém, ít ỏi và không có hậu
thuẫn mạnh từ Không quân để bảo
vệ. Trong hoàn cảnh như vậy, CSVN buộc
phải nhờ Hoa Kỳ huấn luyện và viện
trợ thêm oanh kích cơ để bảo vệ
bầu trời và các vùng duyên hải, nhất là khi hàng
không mẫu hạm (HKMH) của Trung Cộng đă có
thể đi vào hoạt động trong tương lai. Mối quan hệ quân sự giữa CSVN và Hoa
Kỳ buộc phải tăng tốc trong thời gian
tới v́ t́nh thế biển Đông đưa
đẩy bắt buộc phải như vậy.
Giới chức quân sự của CSVN thường xuyên
bay ra HKMH của Hoa Kỳ hội vấn, cụ thể là
tướng Nguyễn Chí Vịnh bay ra HKMH của Hoa
Kỳ vào tháng 10 năm ngoái. Ngoài ra, vấn đề CSVN phải chấp
nhận lực lượng Không-Hải của Hoa
Kỳ hiện diện thuờng xuyên hơn, thậm chí thường
trực tại miền Trung Việt Nam, nhất là ở
Cam Ranh nếu CSVN không muốn t́m kiếm
sự bảo đảm về quốc pḥng. Cuộc tập trận RIMPAC sắp tới đây
chính là cơ hội mà Hoa Kỳ mở ra để các
sĩ quan của CSVN quen dần với khái niệm
chiến tranh không-hải hiện đại. Hệ lụy chính trị của chính sách
CIA về biển Đông gây ra: Nếu
cuộc đối đầu căng thẳng sắp
tới xảy ra ở Hoàng Sa, th́ một lần
nữa, chủ quyền biển đảo của
Việt Nam Cộng Ḥa trên quần đảo này
sẽ được đem ra bàn hội nghị bàn
thảo để t́m chung cuộc cho cuộc tranh
chấp. Đến lúc đó, các giá trị pháp lư
của Việt Nam Cộng Ḥa về chủ quyền
biển đảo cần phải được
thừa nhận như là tiền đề căn
bản cho cuộc ḥa đàm kết thức chiến
tranh tại biển Đông. Trong t́nh h́nh hiện tại, CSVN cần
rất nhiều thời gian để thay đổi tư
tưởng chính trị trong đảng trước khi
đi đến hợp tác sâu rộng hơn với Hoa
Kỳ về mặt quốc pḥng, nhưng CIA đă không
cho Hà Nội có thời gian, v́ sự uy hiếm
của Trung Cộng đă quá cận kề, và lệnh
băi bỏ cấm vận buôn bán vũ khí được
băi bỏ quá muộn màng. CSVN muốn hiện đại hóa nền
quốc pḥng th́ cần phải hiện đại hóa
đảng của chính ḿnh trước cái đă, mà
trong đó, giới lănh đạo trẻ trí thức
cần phải thay thế giới lănh đạo già nua
trong đảng hiện nay. Nhất là giới lănh đạo
đảng mới này phải tốt nghiệp đại
học ở Hoa Kỳ, có quan niệm chính trị và
kiến thức của thời đại ngày nay,
hiểu cách làm việc của người Mỹ khi
đối phó với t́nh h́nh quân sự chính trị
ở biển Đông trong tương lai. Đó là lư do tại sao, các đại học
Mỹ mở rộng cửa để con cháu các đảng
viên sang học, và nếu CSVN không vận dụng cơ
hội này để trí thức hóa đảng, trẻ
trung hóa đảng th́ chế độ Cộng Sản
này chỉ chờ ngày sụp đổ do không đủ
khả năng đối phó với các chính sách đối
đầu của các siêu cường. Tuy nhiên, khi giới lănh đạo trẻ trí
thức nắm quyền uy của đảng, liệu
đường lối Cộng Sản c̣n tiếp
nối được nữa không? Hay họ lại
nh́n về chính thể Việt Nam Cộng Ḥa để ḍ
dẫm bước đi mới cho Việt Nam. Nhất
là khi các giá trị pháp lư biển đảo của
Việt Nam Cộng Ḥa được đem ra bàn
thảo. Từ đó, chúng ta thấy đối sách
của CIA không dừng lại ở biển Đông, mà
trên thực tế, đây chỉ là bước đầu
trong kế hoạch dài lâu cả chục năm để khiến
cho cả hai chế độ Cộng Sản, Việt
Nam và Trung Quốc, bị biến dạng hay
hủy diệt sao cho có lợi cho vị thế lănh
đạo của Hoa Kỳ trong vùng; cũng như sao
cho có lợi cho sự phát triển văn hóa, kinh
tế xă hội dài lâu mà Hoa Kỳ đă chủ trương
sẵn cho vùng Đông Nam Á. Nguyễn Trọng Dân |