Nhân
đọc lại hồ sơ về chủ quyền
Hoàng Sa và Trường Sa của phía Trung Quốc…
Trương Nhân Tuấn |
Học giả Trung Quốc (TQ) có “niềm
tin” là “ngàn năm trước TQ là một quốc
gia đi biển lớn. TQ là quốc gia đầu tiên
phát hiện, khai khác và quản lư các quần đảo
HS và TS ở Biển Đông”. Hồ sơ của TQ
ghi chắc điều này như đinh đóng cột. Nhưng vụ “TQ là quốc gia đi biển
lớn” có đúng hay không, việc này không nói lên
được điều ǵ. Bởi v́ các nước
chung quanh, hàng ngàn
năm trước, họ cũng là những giống dân
đi biển, sống bằng nghề biển. Họ có thể là những quốc gia nhỏ hơn,
nhưng chắc chắn người dân các quốc gia này
rành Biển Đông hơn dân TQ. Họ sống kế
cận Biển Đông. Họ đi thuyền ra các
đảo, họ lặn ngụp bắt cá, bắt
ốc, bắt rùa… ở các đảo, các băi đá
đó. Sau này, thế
kỷ 17, thế kỷ 18, dân VN mỗi năm ra các
đảo, ngoài việc đánh bắt hải sản,
c̣n có việc thu lượm các xác tàu ch́m đă
bị sóng đánh trôi dạt vào các đảo đó. Họ không hề lớn tiếng tuyên bố
“khám phá” như TQ. Đơn giản v́ họ từ
khai thiên lập địa đă sinh sống ở đó
rồi. Vùng biển có các băi đá đó là không gian
sinh tồn của họ. Nếu nói theo “ngôn từ
luật pháp” th́ họ đă “khám phá, khai thác và
quản lư” vùng biển và đảo đó từ
thời kỳ mà TQ c̣n viết “huyền sử”. Các học giả TQ nói rằng họ là nước
“phát hiện” ra quần đảo Trường Sa qua
việc vịn vào một số tài liệu kể
lại một số chuyến du hành trên Biển Đông. Nếu việc “phát hiện” dễ như
vậy th́ đương nhiên TQ là kẻ đi sau các
nhà hải hành Ả Rập và Tây phương. Bằng chứng là không hề có bản đồ
hải hành nào của người Châu Âu ghi nhận Hoàng
Sa và Trường Sa là của TQ. Trước đây khoảng một thế
kỷ, các nhà hải hành thế giới không phân
biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(Paracel và Spratleys). Hầu hết các bản đồ
của các thế kỷ 16, 17, 18… đều gom hai
quần đảo này vào làm một (dưới cái tên
là Parcel, sau đó là Paracel). Cái tên Spratleys cũng
chỉ mới có đây thôi. Năm 1909 nhà nước TQ khẳng định
(với dư luận quốc tế) rằng lănh
thổ cực nam của TQ là đảo Hải Nam.
Đến năm 1932 th́ nhà nước này tuyên bố
lănh thổ cực nam của họ là Tây Sa (Hoàng Sa
của VN). Đến năm 1935, trên các bản đồ
của TQ c̣n ghi băi Scarborough là Nam Sa. Đến năm
1947 th́ họ mới đẻ ra cái tên Trung Sa quần
đảo rồi đem Hoàng Nham (Scarborough) và băi
ngầm Macclesfeild gộp vào trong đó. Cái tên Nam Sa
lấy lại đặt cho Trường Sa của
Việt Nam. Ngay cả cái tên mà họ c̣n lúng túng, lấy
râu ông nọ cắm cằm bà kia. TQ cũng chưa từng “quản lư” Trường
Sa. Việc Đài Loan chiếm đảo Ba B́nh năm
1956 là chiếm một lănh thổ đă có chủ. Phía TQ lập luận Đài loan “kế
thừa” từ Nhật. Sau Thế chiến II, Nhật thua trận
phải từ bỏ tất cả các lănh thổ mà
họ chiếm hữu trước kia (trong đó có VN cũng
như hai quần đảo HS và TS). Đài loan làm sao kế thừa một lănh
thổ mà Nhật đă không c̣n nữa? Lập luận khác là Ḥa ước
Trung-Nhật 1952 đă “giao” các đảo này cho
Đài loan. Điều này cũng không đúng. Bởi v́ Ḥa
ước San Francisco 1951 Nhật đă kư nhận
việc “từ bỏ chủ quyền, từ bỏ
mọi quyền, mọi yêu sách” ở HS và TS. Nhật không c̣n thẩm quyền chi cả
ở HS và TS, kể cả thẩm quyền “giao” chúng
cho Đài loan. Vấn đề là Ḥa ước San Francisco
1951 “giao” các lănh thổ này trả lại cho ai? Sau khi Nhật bại trận, nước Anh lănh
nhiệm vụ giải giới quân Nhật ở VN phía
nam vĩ tuyến 16, Trung Hoa Dân quốc (của Tưởng
Giới Thạch) giải giới quân Nhật ở phía
bắc vĩ tuyến 16. Vấn đề là, Anh nhượng quyền
lại cho Pháp, v́ họ xem Đông Dương thuộc
(chủ quyền của) Pháp. Song song đó Pháp kư các
thỏa ước Trùng Khánh với Tưởng năm
1946, theo đó Pháp nhượng lại cho TQ đất
đai và một số đặc quyền về kinh
tế (như đường xe lửa Vân Nam). Đổi
lại Pháp vào thế chân TQ ở Bắc Kỳ. Tại các đảo HS quân đội Pháp
Việt có mặt vào tháng 4 năm 1946 để
dựng lại mốc chủ quyền. Quân đội
Pháp Việt làm tương tự vào tháng 10 năm 1946
ở Trường Sa. Tại Hội nghị San Francisco 1951, Quốc gia
VN được mời tham dự với danh nghĩa
“quốc gia có tuyên bố chiến tranh với
Nhật”. Mặc dầu về ngoại giao và quốc
pḥng vẫn chịu điều khiển của Pháp, nhưng
Quốc gia VN khẳng định được
“chủ quyền về lănh thổ”. Thủ tướng
Quốc gia VN là ông Trần Văn Hữu nhân dịp này
đă tuyên bố thâu hồi hai quần đảo HS và
TS về cho VN. Chủ quyền của VN tại HS và TS đă tái
khẳng định, bằng các thủ tục theo đúng
thông lệ quốc tế, ở các năm 1946 và 1951. Vậy TQ quản lư bằng h́nh thức nào
quần đảo TS? Năm 1974 TQ đă chiếm HS của VN bằng
vũ lực. Năm 1988 TQ dă chiếm một số băi
đá của VN thuộc quần đảo Trường
Sa bằng vũ lực. Theo tập quán luật quốc
tế, việc thụ đắc chủ quyền lănh
thổ bằng vũ lực th́ không được nh́n
nhận. (Học giả TQ là ông Chun Ho Park, nguyên thẩm
phán ṭa án về Luật Biển – ITLOS – cho rằng
TQ có nhiều bằng chứng về chủ quyền
tại HS và TS hơn là VN và các nước khác.
Nhiều học giả TQ cũng chủ trương TQ nên
chấp nhận dùng trọng tài như là “phương
pháp bên thứ ba” để giải quyết tranh
chấp chủ quyền các đảo với VN). T.N.T. |