QUÂN ĐỘI HOA KỲ CÓ THỂ DỄ DÀNG PHÁ HỦY CÁC CĂN CỨ CỦA TRUNG
CỘNG TRÊN BIỂN ĐÔNG
ROBERT FARLEY
|
“…Trong
một số điều kiện nhất định,
lớp vỏ này có thể phá vỡ sự tự do hành
động của Hoa Kỳ, nhưng Không quân và
Hải quân Hoa Kỳ không lấy ǵ làm khó khăn
để chọc thủng nó…” Điểm
then chốt:
Những
ḥn đảo này có thể tấn công tàu của Hoa
Kỳ bằng tên lửa. Tuy nhiên, giống như
thời Hoàng gia Nhật Bản, những ḥn đảo
này được trải rộng và khó mà bảo
vệ an toàn. Trung
Cộng đă xây dựng một số đảo
ở Biển Đông. Họ có thể bảo vệ
được chúng? Trong
Thế chiến II, Nhật Bản nhận xét ra rằng
việc kiểm soát các đảo mang lại một
số lợi thế chiến lược, nhưng không
đủ mạnh để buộc Hoa Kỳ phải
triệt hạ từng ḥn đảo riêng lẻ. Hơn
nữa, theo thời gian, các đảo trở thành
một gánh nặng chiến lược, khi Nhật
Bản phải vất vả cung ứng thực
phẩm, nhiên liệu và thiết bị cho chúng. Các ḥn
đảo Biển Đông tạo vị trí thuận
lợi cho Trung Cộng, nhưng chúng có thực sự
biểu chưng cho khí tài của quân đội Trung
Cộng không? Câu trả lời là có, nhưng trong
một cuộc xung đột thực tế, giá trị
sẽ giảm đi nhanh chóng. Thiết
lập căn cứ Trung
Cộng đă thiết lập nhiều cơ sở quân
sự ở Biển Đông, chủ yếu ở
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tại Trường
Sa, Trung Cộng đă xây dựng các sân bay tại Subi
(Xu Bi), Mischief (Vành Khăn) và Fiery Cross (Đá Chữ
Thập), cùng với cơ sở hạ tầng tên
lửa, radar và máy bay trực thăng tiềm năng
ở một số đội h́nh nhỏ hơn.
Tại Hoàng Sa (Paracels), Trung Cộng đă thiết
lập một cơ sở quân sự quan trọng
tại Đảo Phú Lâm (Woody Island), cũng như các
đài radar và máy bay trực thăng ở một
số khu vực khác. Trung Cộng tiếp tục xây
dựng trên toàn khu vực, có nghĩa là họ có
thể mở rộng sự hiện diện quân sự
trong tương lai. Các căn cứ lớn hơn (Subi,
Mischief, Fiery Cross và Woody Island) có cơ sở hạ
tầng cần thiết cho việc quản lư máy bay quân
sự, bao gồm máy bay chiến đấu và tàu
tuần tra lớn. Những tên lửa, radar và máy bay này
mở rộng tầm sát thương của quân đội
Trung Cộng trên khắp bề rộng của Biển
Đông. Tên
lửa Một
số các đảo làm căn cứ cho các hệ
thống SAM (bao gồm cả HQ-9, với một loạt
các 125 dặm, và có lẽ S-400của Nga) và tên lửa
hành tŕnh phóng từ mặt đất (GLCM). Những tên
lửa này dùng để biến Biển Đông thành nơi
gây thiệt hại cho các tàu và máy bay của Hoa Kỳ
không có khả năng tàng h́nh hoặc không được
hưởng hệ thống pḥng không nhiều lớp.
Việc lắp đặt SAM, được hỗ
trợ bởi mạng lưới radar, có thể
hạn chế hiệu quả khả năng máy bay địch
xâm nhập vào vùng sát thương mà không cần
hỗ trợ tác chiến điện tử đáng
kể. Các tên lửa hành tŕnh phóng từ mặt đất
(GLCM) có thể thêm một hệ thống bệ phóng khác
vào mạng A2 / AD của Trung cộng, mặc dù không
nhất thiết phải có hiệu quả cao hơncác
tên lửa được phóng từ tàu ngầm, tàu
hoặc máy bay. Nhưng
đó là một câu hỏi bỏ ngỏ làm thế nào
các căn cứ tên lửa có thể tồn tại
trong một cuộc xung đột. Tên lửa trên đất
liền tồn tại sau cuộc tấn công khônglực
v́ chúng có thể ẩn nấp giữa những
ngọn đồi, khu rừng và lớp bao chắn
tự nhiên khác. Không có vỏ bọc thiên nhiên
hiệu quả trên các ḥn đảo mà Trung Cộng
đă tạo ra, và ngay cả các cơ sở pḥng
thủ do con người tạo ra cũng không thể
sống sót sau cuộc tấn công phối hợp. Hơn
nữa, các bệ phóng tên lửa phụ thuộc vào
một mạng lưới hậu cần ít nhất là
mạnh mẽ về nhiên liệu, sức mạnh và khí
tài, mà Trung Cộng có thể không có khả năng
đáng tin cậy cung cấp trong một cuộc
chiến pháo đạn. Sân
bay Bốn
cơ sở quân sự lớn nhất trên Biển Đông
có nhiều phương tiện để vận hành máy
bay quân sự. Điều này bao gồm các máy bay
chiến đấu tiên tiến, nhưng quan trọng hơn
là tuần tra, chiến tranh điện tử và máy bay
cảnh báo sớm tiên tiến. Khả năng sử
dụng các sân bay này giúp mở rộng hiệu quả
phạm vi của tầm bao bọc A2 / AD của Trung
Cộng, cho phép truyền dữ liệu nhắm mục
tiêu đến các bệ phóng tên lửa trên biển và
ở đại lục Trung Cộng. Chính các phi cơ
chiến đấu được dùng để làm cho
bầu trời trên Biển Đông thậm chí c̣n sát
thương nhiều hơn thế nứa, cũng như
đe dọa các tàu Mỹ ở tầm xa bằng tên
lửa hành tŕnh. Nhưng
trong xung đột, độ bền của sân bay
phụ thuộc vào sự sẵn có của vật
liệu và thiết bị để thực hiện
sửa chữa sau một cuộc tấn công. Không
hẳn các đảo mà Trung Cộng đă tạo ra
ở Biển Đông sẽ đủ mạnh để
tiếp tục hoạt động sau các cuộc
tấn công bằng tên lửa và bom của Hoa Kỳ.
Mặc dù các ḥn đảo lớn hơn có nơi trú
ẩn máy bay, nhưng câu hỏi không có trả lời
là liệu những nơi trú ẩn này có thể
tồn tại lâu dài trong một cuộc tấn công
phối hợp của Hoa Kỳ hay không. Pḥng
tuyến Radars
Những
tên lửa SAM, GLCM và máy bay chiến đấu phụ
thuộc vào dữ liệu mục tiêu chính xác để
đạt hiệu quả. Đóng góp quan trọng
nhất mà các đảo Biên Đông có thể cung
cấp cho quân đội Trung Cộng là thông qua
việc lắp đặt radar mà Trung Cộng đă
thiết lập trên nhiều ḥn đảo. Những cài
đặt này, mặc dù dễ bị tổn thương,
vẫn giúp cung cấp một bức tranh đầy
đủ hơn về không gian chiến đấu hơn
là nếu Trung Cộng khôngdùng. Phối hợp với
nhau, chúng tăng cường đáng kể mức độ
sát thương của các mạng pḥng thủ của
Trung Cộng. Tuy
nói vậy, bản thân các radar dễ tổn thất
bởi một loạt các cuộc tấn công của Hoa
Kỳ. Chúng bao gồm các phương pháp động
học như tên lửa (phóng từ tàu ngầm, máy bay
tàng h́nh hoặc các bệ phóng khác), chiến tranh điện
tử, tấn công mạng và thậm chí là các cuộc
tấn công của lực lượng đặc
biệt. Trong một cuộc xung đột, Trung Cộng
có thể nhanh chóng mất quyền truy cập vào
mạng lưới radar mà họ đă thiết
lập. Tuy nhiên, mạng lưới với chi phí tương
đối thấp có thể phức tạp hóa công
việc mà quân đội Hoa Kỳ phải đối
mặt trong việc thâm nhập vào Biển Đông. Hậu
cần Tất
cả các khả năng quân sự của các đảo
ở Biển Đông Trung Cộng chiếm đóng
phụ thuộc vào liên lạc an toàn với đại
lục Trung Cộng. Hầu hết các ḥn đảo
được xây dựng bởi Trung Cộng không
thể hỗ trợ các kho dự trữ hậu cần
rộng lớn, hoặc giữ cho các kho dự trữ
đó an toàn khỏi bị tấn công. Trong một
cuộc giao chiến, sự cần thiết phải
giữ cho các đảo được cung cấp nhiên
liệu, thiết bị và đạn dược sẽ
nhanh chóng trở thành một trách nhiệm đối
với các tài sản vận tải Trung Cộng có
lẽ bị kéo dài. Giả sử rằng KẾ
HOẠCH và PLAAF sẽ ít quan tâm đến việc theo
đuổi những nỗ lực rủi ro, tốn kém
trong việc tiếp tế các ḥn đảo bị
hỏa hoạn, giá trị quân sự của các đảo
Biển Đông sẽ là vốn liếng vô dụng
trong một cuộc xung đột. Thật không may cho
Trung Cộng, bản chất của chiến tranh đảo
và bản chất của các h́nh thức cụ thể
mà Trung Cộng đă xác định để hỗ
trợ, gây trở ngại cho việc vận hành các căn
cứ vừa đủ cho một thời gian rất
ngắn. Tàu chiến
so với pháo đài Như
Lord Horatio Nelson có thể đă châm biếm: “Một
con tàu, chỉ một kẻ ngốc dùng để
chiến đấu với một pháo đài” ("a
ship’s a fool to fight a fort”). Nhưng có những t́nh
huống trong đó tàu có lợi thế lớn hơn
pháo đài. Các đảo Trung Cộng trên Biển
Đông không di động và không đủ lớn
để che giấu những trang bị và vật
liệu quân sự. Hoa Kỳ sẽ có thể lập
bản đồ tỉ mỉ các cơ sở quân
sự trên mỗi ḥn đảo trên Biền Đông, và
có thể sẽ có thể theo dơi các lô thiết bị
quân sự đến các đảo. Điều này
sẽ khiến các đảo cực kỳ dễ
bị tấn công từ tàu chiến, tàu ngầm và máy
bay, đồng thời tên lửa sẽ không cần
đến dữ liệu chuẩn mục đúng theo
thời gian thực. Một
bước tiến tích cực đối với Hoa
Kỳ là đảo ngược quyết định
“cố đấm ăn sôi” (retire in place), dùng hệ
thống súng tiên tiến trên tàu khu trục lớp
Zumwalt. Việc tạo ra một loại đạn cho
khẩu súng này sẽ cho phép Zumwalts tấn công các căn
cứ đảo của Trung Cộng ở tầm xa, có
khả năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng, không
thể cứu chữa với chi phí khá thấp. Nếu
không, các đảo sẽ cuốn hút các tên lửa hành
tŕnh có thể được dùng hiệu quả vào các
mục tiêu ngon ngọt hơn. Các
đảo Biển Đông có một số giá trị
quân sự, nhưng quan trọng hơn chúng được
dùng để làm yêu sách chính trị đối
với đường thủy và tài nguyên dưới
biển. Về mặt quân sự, chúng đại
diện cho một lớp vỏ mỏng trên hệ
thống China A2 A2 / AD. Trong một số điều
kiện nhất định, lớp vỏ này có thể
phá vỡ sự tự do hành động của Hoa
Kỳ, nhưng Không quân và Hải quân Hoa Kỳ không
lấy ǵ làm khó khăn để chọc thủng nó. 2018 Robert
Farley *
Robert Farley, một người đóng góp thường
xuyên cho TNI, là tác giả quyển The
Battleship Book. Ông là Giảng viên cao cấp
tại Trường Ngoại giao và Thương mại
Quốc tế Patterson tại Đại học Kentucky. Công
việc của ông bao gồm học thuyết quân
sự, an ninh quốc gia và các vấn đề hàng
hải. Ông viết blog tại Lawyers,
Guns and Money and Information Dissemination and The
Diplomat. Trọng
Khiêm dịch |