T̀NH H̀NH
SCS SAU 5 NĂM PHÁN QUYẾT CỦA PCA Đại-Dương
|
Ngày
12/07/2012, Toà án Trọng tài Thường trực về
Luật Biển (PCA) đă ra phán quyết trong vụ Phi
Luật Tân kiện Trung Quốc liên quan đến
Đường 9 Đoạn trên Biển Nam Trung Hoa
(SCS): “Yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh không có
giá trị pháp lư”. Đa
số dư luận quốc tế đồng ư. Bắc
Kinh không tham gia vụ kiện, không công nhận thẩm
quyền của PCA, không thi hành phán quyết. Biết
không thể thắng nên Bắc Kinh từ chối
xuất hiện trước Toà. Thực tế, PCA do Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm
1982 (UNCLOS) lập ra để xét xử các vụ án liên
quan đến “quyền-chủ-quyền” quốc gia nên
dù bị đơn không tham dự vẫn xét xử và
đưa ra bản án chung thẩm buộc phải thi hành.
Trái lại, nếu tranh chấp liên quan đến
“chủ quyền” quốc gia th́ chỉ có Toà án Công
lư Quốc tế (ICJ) trực thuộc Liên Hiệp
Quốc mới có thẩm quyền xét xử. ICJ sẽ
không thụ lư vụ án nếu bên bị từ
chối tham gia. Từ
đó, Chủ tịch Tập Cận B́nh ngang nhiên áp
đặt quyền kiểm soát trên SCS bất chấp
mọi quy định trong UNCLOS mà Chính quyền
Obama-Biden cùng nhiều nước Tây Phương
chỉ phản đối yếu ớt v́ kiểu
ngoại giao “phải đạo chính trị”. Thời
kỳ Obama-Biden: Trung Quốc cưỡng đoạt
Scarborough Shoal của Phi Luật Tân năm 2012; chia đôi
Thái B́nh Dương với Hoa Kỳ năm 2013 tại
California; lờ chuyện Giàn khoan nước sâu HD-981
của Bắc Kinh hoạt động trong Vùng Đặc
quyền Kinh tế (EEZ) Việt Nam năm 2014; không ngăn
cản Bắc Kinh xây 7 đảo nhân tạo tại Nhóm
đảo Spratly Islands (Trường Sa, Nam Sa) năm 2014;
Tập hứa với Obama năm 2015 “sẽ không quân-sự-hoá
SCS”, nhưng, đă làm trái ngược. Tại
sao t́nh h́nh trên Biển Nam Trung Hoa không được
cải thiện mà c̣n tồi tệ theo thời gian? Thứ
nhất, UNCLOS có 167 quốc gia tham gia, 14 nước chưa
phê chuẩn, 15 quốc gia chưa kư (kể cả
Mỹ). Hoa Kỳ cho rằng mọi quy định đều
là “tập quán công pháp quốc tế” đă có
từ lâu nên có bổn phận tuân thủ mà không
cần tham gia. Năm 1982, Tổng thống Ronald Reagan
đă không kư vào UNCLOS v́ Chương XI ấn định
đáy biển (seabed) là “di sản chung” của nhân
loại, giả định rằng bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới cũng phải
được hưởng lợi từ việc khai thác
tài nguyên đáy biển sẽ hoàn toàn bất công cho
những quốc gia đầu tư công sức và
tiền của vào việc phát triển, khai thác, thăm
ḍ các khoáng sản lại không được hưởng
lợi đúng với thành quả lao động
của họ. Điều đó trái với Chủ nghĩa
Tư bản Phát triển. Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á và Trung Quốc không
áp dụng chính xác UNCLOS nên rất khó giải quyết
khác biệt. Họ đă thoả thuận tiến hành
đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử trên
Biển Nam Trung Hoa (COC) từ năm 2002 mà tới nay
vẫn như cũ hoặc tệ hơn. Mạnh
được, yếu thua làm cho t́nh h́nh trên SCS thường
xuyên căng thẳng mà không dẫn tới giải pháp
thoả đáng. Điều này chỉ có lợi cho
Trung Quốc với Lực lượng Hải Quân,
Hải Cảnh, Dân Quân Biển vượt trội mà
ngày càng bành trướng và hùng mạnh. Thứ
hai, Trung Quốc và ASEAN đă phê chuẩn UNCLOS,
ngoại trừ Cambodia, mà không nghiêm chỉnh tôn
trọng các quy định liên quan đến Biển,
Vịnh, Vũng tàu, Quần đảo, Đảo,
Đá, Băi Cạn dẫn tới việc gán cho các
thực thể biển những quyền hạn không tương
hợp với UNCLOS. Bắc Kinh yêu sách chủ quyền
trong Đường 9 Đoạn v́ gọi đó là
“vùng nước lịch sử” đă bị PCA bác
bỏ. Trung Quốc đóng vai tṛ khá quan trọng khi
soạn thảo UNCLOS, nhưng, khi sức mạnh Hải
Quân, Hải Cảnh gia tăng th́ dùng Luật Quốc
Gia thay cho Luật Quốc Tế. Trong
Phán quyết ngày 12/07/2016 xác định tất cả
thực thể địa lư trên Biển Nam Trung Hoa không
đủ yếu tố cấu thành Quần đảo
(Archipelago) mà chỉ là Nhóm đảo (Islands) không
được quyền có EEZ và Thềm Lục địa.
Bắc Kinh chống phán quyết để bảo
vệ chủ quyền Tứ Sa: Đông Sa (Pratas do Đài
Loan cai quản), Trung Sa (băi ngầm Macclesfield), Tây Sa
(Paracel Islands, Hoàng Sa), Nam Sa (Spratly Islands, Trường
Sa). V́ thế, khi gọi loạn xạ Quần đảo,
Đảo chỉ giúp Bắc Kinh thêm tham vọng cưỡng
chiếm chủ quyền và quyền-chủ-quyền và
quyền-tài-phán trên SCS. Thứ
ba, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă Lai Á, Brunei, Indonesia không
chịu sử dụng định nghĩa biển, đảo
trong UNCLOS để giải quyết về “chủ
quyền và quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán”
nhằm xác định “vùng chống lấn” nên
bị bất lợi: (a) Lo tranh chấp các “quyền
giả định” nên khó đoàn kết chống
sự bắt nạt từ Bắc Kinh. (b) Có thể
đơn phương thỏa hiệp với Bắc
Kinh về khai thác tài nguyên chung mà từ chối
việc đấu thầu quốc tế công khai. (c) Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á khó đứng chung
chiến tuyến chống lại áp lực từ Trung
Quốc. (d) Myanmar, Lào, Cambodia, Thái Lan không có quyền
lợi cụ thể trên SCS nên khó làm mích ḷng Bắc
Kinh. Thứ
tư, ASEAN tự coi như một lực lượng
quan trọng buộc Trung Quốc phải ve văn bằng
phương tiện kinh tế và Hoa Kỳ có bổn
phận bảo vệ an ninh để SCS biển
lặng sóng yên. Thực tế, Biển Nam Trung Hoa như
một môi trường cạnh tranh chiến lược
giữa một siêu cường duy nhất và một
thế lực đang lên đầy tham vọng. Không
quốc gia duyên hải Đông Nam Á nào được
b́nh an, vô sự khi có cuộc đụng độ
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa.
Thế chiến Thứ hai cũng cho các dân tộc Đông
Nam Á một bài học cụ thể về “trâu ḅ húc
nhau, ruồi muỗi chết” nên chọn bên là bài toán
khó, nhưng, tối cần thiết. Các quốc gia duyên hải Đông Nam Á giữ ḿnh
bằng cách nào? Thứ
nhất, ASEAN đừng hùa với Trung Quốc khi xác
định chủ quyền và quyền-chủ-quyền
và quyền-tài-phán trái với quy định trong UNCLOS
v́ thiếu khả năng đối phó. Bắc Kinh thường
đe dọa các chuyến tự do hàng hải (FONOP)
của chiến hạm Mỹ. Mới nhất, khi Khu
trục hạm USS Benfold thực hiện tự do hàng
hải qua Paracel Islands (Hoàng Sa, Tây Sa) không cần xin phép
hoặc thông báo cho Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan
v́ quyền hạn phù hợp công pháp quốc tế. Thứ
hai, các Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á (Việt Nam,
Phi Luật Tân, Mă Lai Á, Brunei, Indonesia, Tân Gia Ba) cùng nhau
đ̣i Trung Quốc tôn trọng Phán quyết ngày
12/07/2016 của PCA v́ cần dựa vào đó mà bảo
vệ lợi ích dân tộc. Đừng lôi kéo tất
cả ASEAN vào mà phải chịu thất bại v́ Thái
Lan, Lào, Cambodia, Myanmar có rất ít lợi ích trên SCS. Thứ
ba, Hoa Kỳ có nhiệm vụ pháp định bảo
vệ cho các đồng minh hiệp ước và các
đối tác đáng tin cậy. Không thể sử
dụng lời lẽ khích bác hoặc ve văn để
buộc Hoa Kỳ phải bảo vệ bằng xương
máu công dân và tài sản quốc gia. Hăy
nh́n kỹ, Thủ tướng Tân Gia Ba, Lư Hiển Long
tuyên bố không chọn bên. Nhưng, Tân Gia Ba là nơi
đồn trú chiến hạm, phi cơ Mỹ hoạt
động trên Biển Nam Trung Hoa. Hải quân hai nước
thường xuyên tập trận chung, đôi khi cùng
với quốc gia khác. Trong khi đó, Cộng sản
Việt Nam cao giọng “ba không” rồi “bốn không”
mà triển vọng đứng ngoài cuộc là “con
số không”. Chuyên
gia Collin Koh lưu ư Hoa Kỳ không nên đánh đổi
vấn đề gây tranh căi với Trung Quốc ở
SCS để được Trung Quốc hợp tác
về Biến đổi Khí hậu. Coi
chừng Tổng thống Joe Biden lại bị Tập
Cận B́nh lừa như từng xảy ra trong thời
Chính quyền Obama-Biden khi Phó tổng thống phụ trách
lĩnh vực ngoại giao. Thứ
tư, các quốc gia Châu Á rất nghi ngờ lời
hứa bảo vệ của Tổng thống Joe Biden nên
tự nâng cao khả năng quốc pḥng và ngoại
giao. Nhật Bản đang cố gắng giúp các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á tăng cường
khả năng quốc pḥng, kinh tế để
chống lại tham vọng bành trướng của
Trung Quốc. Phi Luật Tân đă phái phi cơ,
chiến hạm bảo vệ Đảo nhỏ Thị
Tứ khi hàng trăm tàu Dân Quân Biển Trung Quốc neo
gần Băi Cỏ Rong (Reed Bank) và Băi Cỏ Mây (Second
Thomas Shoal). Trong ṿng 18 tháng qua, Tàu Khảo sát Địa
chất HD-8 đă 3 lần quấy phá hoạt động
thăm ḍ dầu khí của Mă Lai Á. Thời kỳ
Tổng thống Trump đă phái Thủy bộ hạm
USS America tập trận chung với một chiến
hạm của Úc Đại Lợi. Tiếp theo, phái
Cận duyên hạm Tác chiến USS Gabrielle Giffords (LCS 10)
đi song song với tàu thăm ḍ của Mă Lai Á
buộc HD-8 chuyển tới nơi khác. Các Hải
Cảnh Trung Quốc đang quấy rối việc khai
thác dầu hoả của Mă Lai Á. Kuala Lumpur phái phi lên
giám sát đội h́nh Trung Quốc. Các
Quốc gia Duyên hải Đông Nam Á không đủ
sức đối đầu với Trung Quốc.
Hợp tác với Hoa Kỳ là con đường duy
nhất để bảo vệ hữu hiệu nền
độc lập tự chủ và phát triển. Đại-Dương |