Bài Viết của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng gửi cho bà Đặng Thi Tuyết Mai và Nguyễn Cao Kỳ Duyên nhân dịp 30 tháng 4 / 2010 |
"Sao
chúng ta không noi-gương oanh-liệt của Tổ-Tiên,
Cha-Ông, nối tiếp ư-chí bất-khuất của
Tiền-Nhân để trang-trải món ân-t́nh đó ( Quê-hương,
Tổ-quốc Việt-Nam Muôn Năm). Sao chúng ta cứ
lo CHÊ-BAI, CÔNG-KÍCH,HĂM-HẠI, CHÀ-ĐẠP nhau
để rồi vô-t́nh làm lợi cho BỌN CƯỚP
NƯỚC CỘNG-SẢN." Phạm-thị
Kim-Hoàng Bài
Viết của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng
gửi cho bà Đặng Thi Tuyết Mai và Nguyễn Cao
Kỳ Duyên nhân dịp 30 tháng 4 / 2010 Tôi
chuyển đến cô bài
viết này nhân dịp 30 tháng 4, 2010. Cô hăy đọc và
xin cô chuyển đến ba cô, cựu Thiếu Tướng
Nguyễn cao Kỳ Phó TT VNCH như là một lời
trần t́nh của một công dân VNCH gửi đến
vị cựu Phó TT VNCH qua lời phát biểu của ông
rằng:
"Từ TT Nguyễn văn Thiệu trở xuống
đều ham sống sợ chết". Nếu
nhận được hồi âm của cô hay ba cô th́
tốt quá. V́ không có địa chỉ email của ba cô,
mong cô giúp tôi. Cám
ơn cô. ***
Lá
Thư Trần T́nh của bà quả phụ Lê Văn Hưng
Ngày
21/4/1975, khi Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao
quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi
c̣n nhớ rơ lời ông Thiệu nói: Ôi
tiếng súng nổ rền vang trên khắp lănh thổ.
Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đă
mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè
cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng
vực thẳm. C̣n mùa hè 30/4/1975 bi thương thê
thảm ngần nào? Chúng ta c̣n đủ ngôn từ
để diễn tả tận cùng nỗi thương
tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống
cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng
1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa
đánh đă bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi
quyết liều tử chiến. Thảm thương
thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa
từng có trong lịch sử và quân sử. Đài
VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng
nề về phía QLVNCH khiến ḷng dân càng thêm
khiếp đảm. Những đoàn quân thất
trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ
huy, cuống quưt chạy như đàn vịt bị săn
đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang
mang tột độ. Họ th́ thào bảo nhau: -
“Tổng
Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng
Viên đă cao bay xa chạy, c̣n đánh đấm ǵ
nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đă
trốn đi ngoại quốc, chúng ta c̣n đánh làm ǵ”.
Họ c̣n hỏi nhau: -
“Bao nhiêu năm chúng ta
chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu
cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai
đây?” Mất
người chỉ huy, những quân nhân như rắn
không đầu, rối rít, tan ră. Lại có những câu
hỏi: -
“Quân không Tướng chỉ huy th́ sao?” Có những
kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê
bai: -
“Có những ông Tướng mà biết đánh
giặc cái ǵ! Chỉ có lính đánh để các ông
Tướng hưởng”. Lời
phê b́nh của những kẻ bất măn hay những
kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng
khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho
dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân
đội bị nhục, th́ cũng có những vị
Tướng trong sạch đức độ, lỗi
lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục.
Những phần tử bất măn ấy đă vô t́nh
hay cố ư không thấy việc tối quan hệ
của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa
các Tướng Lănh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật
cần thiết cho quân đội và quốc gia như
thế nào. Đối với những vị cao minh,
hiểu biết giá trị hy sinh của những người
tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm
tạ, tri ân. Có nhiều người đă nêu lên câu
hỏi với tôi: -
“Tại
sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho
uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không
tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không
trốn sang ngoại quốc?” Lại
có người nghiêm khắc trách tôi: -
“Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt
can ngăn không để cho các ông ấy chết.
Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành
bỏ vợ con lại sao?” Ngay
cả vài vị phu nhân của các Tướng Lănh,
hoặc c̣n ở trong tù, hoặc đă an nhàn nơi
xứ người, cũng thốt ra những lời
chỉ trích tôi. Nghe những lời phê b́nh ấy, tim tôi
đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo
tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm
không trả lời, chỉ mỉm cười lắc
đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên
tiếng để tạ ân những người đang
âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để
tạ ân những người hùng can đảm đă,
đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi
Cộng Sản cứu quê hương, để trả
lời những người đă nêu lên nhiều câu
hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào
đă có những lời chỉ trích nên b́nh tâm suy nghĩ
lại, trước khi phán đoán v́… những vị
Tướng Lănh bách chiến bách thắng lại
lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhă trước
nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những
vị Tướng đă từng xông pha trong mưa
đạn, bao lần thử thách với tử
thần, với nhiều chiến công từ cấp
bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lănh, đă
từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế
cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp
mặt trận, lẽ nào những vị Tướng
ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi
giản dị xuôi tay tự sát hay sao? Viết
đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa
toàn thể quư vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quư vị
nhận lănh chiếc mũ sĩ quan của trường
Vơ Bị, quư vị c̣n nhớ sáu chữ ǵ trên
chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quư vị
trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ
Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày măn khóa
sĩ quan với những lời tuyên thệ, quư vị
hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm
niệm ai lại chẳng thuộc ḷng? Những vị
bỏ nước ra đi trước binh biến,
những vị ở lại bị sắp hàng vào
trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, v́
thật t́nh tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi
chỉ muốn nói lên tất cả sự thật
về cái chết của hai vị Tướng
Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng . Hai vị Tướng
này đă ba lần từ chối lời mời di
tản sang ngoại quốc của viên cố vấn
Mỹ, cương quyết ở lại tử
chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên
cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không
được, sau cùng chán nản và buồn bă bỏ
đi. Trước
đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ
Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát
thanh Sàig̣n ra lệnh tất cả người Mỹ
phải rời Việt Nam trong ṿng 24 tiếng đồng
hồ, th́ chính là lúc “kế hoạch hành quân mật
của hai Tướng Nam Hưng đă hoàn tất.” Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng
Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới
tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông
Hạnh đă dùng t́nh cảm chiến hữu, dùng nghĩa
đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng
Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và
Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc
đó muốn ḍ xét thái độ của hai Tướng
Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc
điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, Tướng Hưng đă luôn khẳng định: -
“Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không
đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến
cùng”. Khi
Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền
lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi v́
hoàn cảnh đắm ch́m của vận mệnh đất
nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương
đă trao quyền lại cho Dương Văn Minh,
để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ
nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ ḿnh
kư tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.”
Vị Tướng Lănh trấn thủ một vùng, tùy
hoàn cảnh đất nước, và t́nh h́nh chiến
sự địa phương, trọn quyền quyết
định, xoay chuyển thế cờ, không cần
phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp
chỉ huy đầu năo đă trốn hết, th́ c̣n
chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc
đó lệnh đầu hàng của Dương Văn
Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu
Hạnh đă không được Tướng Nam và Tướng
Hưng đáp ứng. Viết
đến đây, tôi xúc động lạ thường.
Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một
số sĩ quan binh sĩ đă bật khóc khi nghe
lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh
em đă ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào
ḷng nức nở. Có những chi khu trưởng và
những đồn trưởng nhất định không
chịu đầu hàng. Họ đă tử thủ đến
viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để
kết liễu đời ḿnh. Cấp bậc của
những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu
nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh
thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng
thế đấy. Trong
khi Sàig̣n bỏ ngỏ đầu hàng th́ Cần Thơ
vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân
đă thảo xong. Vũ khí lương thực đạn
dược sẵn sàng. Tất cả đều
chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ
đưa về các tuyến chiến đấu. Kế
hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong
lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa
thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc
chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho
đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một
đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh
ở Vùng 4 đă lọt vào tay giặc Cộng. Nhưng,
Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo
hoang mang. Đă có một số binh sĩ bỏ ngũ.
Tại thị xă, cảnh náo loạn đáng buồn chưa
từng có đă xảy ra. Từng nhóm đông đảo
bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu
đă ra tay cướp giật tài sản ở các cơ
sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đă
bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can
thiệp của cảnh sát duy tŕ an ninh trật tự công
cộng. Chúng cướp giật, đập phá, ḥ hét
như lũ điên. Chắc chắn trong số này có
bọn Cộng Sản nằm vùng có ư đồ gây
rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ. Lúc
ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn c̣n
liên lạc với các cánh quân chạm địch.
Nhiều cánh quân nồng cốt được
đưa về thị xă Cần Thơ để
bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung
quanh ṿng đai Alpha.
Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng
4, giờ đă điểm. Đúng theo kế hoạch
lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi,
khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các
đơn vị th́ mới hay họ chưa biết tư
ǵ về kế hoạch, chưa rục rịch chi
hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí
từ sáng đến giờ phút này. T́m
kiếm Đại Tá an ninh, người đă lănh
nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành
quân mật đến các đơn vị, th́ mới
vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đă đưa
vợ con t́m đường tẩu thoát sau khi ném
tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy
dưới quyền. Ông
này cũng đă cuốn gói trốn theo ông Đại
Tá đàn anh, cho có thầy, có tṛ. Các phóng đồ và
lệnh hành quân mật cũng đă biến mất. Thiếu
Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức
uất không sao tả nổi. Tôi
không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi
hồi tưởng lại vẻ bối rối của
Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất
vọng của Hưng. Những đường gân trán
nổi ṿng lên, răng cắn chặt, biểu lộ
sự đau đớn và chịu đựng kinh
hồn. Người đập tay đánh ầm
xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp
thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm găy
đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nh́n
tôi như muốn hỏi: -
“Có đồng ư đem con lánh nạn không?” Tôi
cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích
kỷ, t́m sống riêng, bỏ mặc người trong
cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định
ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều
chết. Hưng hỏi tôi: -
“Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng
rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?”
Tôi đáp: -
“Th́ cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không
muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng
Sản”. Và
để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi
b́nh tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho
mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng
của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng
rời bỏ văn pḥng ở Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi
tạm trú. Hưng
không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục
sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên
Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch.
Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn
Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là
lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng
Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi
đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh
Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ
Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi
đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc
với các đơn vị đang tiếp tục
chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng
mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các
đơn vị trưởng ở chung quanh ṿng đai
thị xă Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các
vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một
toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ
đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người.
Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách
đại diện dân chúng thị xă, yêu cầu: -
“Chúng
tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu
khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng
phản công. Chỉ một tiếng lệnh của
Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng
sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xă. Cần Thơ
sẽ nát tan, thành b́nh địa như An Lộc. Dù
sao, vận nước đă như thế này rồi,
xin Thiếu Tướng hăy v́ dân chúng, bảo toàn
mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái,
can cường…”. Nghe
họ nói, tôi cảm thấy đau ḷng lẫn khó
chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu
cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước,
Việt Cộng đă pháo kích nặng nề vào khu
Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây
thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản
của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ c̣n
khiếp đảm. Hưng như đứng chết
lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát
sau, Hưng cố gượng nở nụ cười
trả lời: -
“Xin các ông yên ḷng. Tôi sẽ cố gắng hết
sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”. Toán
người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: -
“Em c̣n nhớ tấm gương cụ Phan Thanh
Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông,
rồi cũng v́ dân chúng mà cụ Phan đă nhún ḿnh
nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp.
Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng
không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm
nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành
nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên
sinh”. Trầm
ngâm vài giây, Hưng tiếp: -
“Thà
chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nh́n
Việt Cộng tràn vào”. 6g45
chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện
thoại cho Hưng, hỏi t́nh h́nh các nơi. Hưng báo
với Tướng Nam về việc đại diện
dân chúng thị xă đến yêu cầu thẳng
với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết
đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ
giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng
Nam cho Hưng hay là ông đă cho thu băng lời kêu
gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài
Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa,
sự gây đổ đau ḷng. Đài Cần Thơ
bị nội ứng trước đó, khoảng
một giờ, viên giám đốc đài bị uy
hiếp, thay v́ phát thanh cuốn băng của Thiếu
Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có
lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng
Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài
mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam.
Muộn màng rồi. Không c̣n níu kéo được
sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ
được nữa. Hàng ngũ các đơn vị
đă thưa thớt lại càng thêm thưa thớt. 7g30
tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn pḥng làm
việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không
có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe
hết sự đổ vỡ từ trưa đến
giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: -
“Hoàng, em đă hiểu sự thất bại do các nguyên
nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên
giờ chót không điều động quân về các
vị trí chiến lược, trù liệu theo kế
hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân
chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng
của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như
lời yêu cầu của dân chúng thị xă Cần Thơ”. Quắc
đôi mắt sáng, Hưng nh́n tôi dằn giọng: -
“Em phải sống ở lại nuôi con”. Tôi
hoảng hốt: -
“Ḱa ḿnh, sao ḿnh đổi ư?” -
“Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”-
“Nhưng không thể để con sống với
Cộng Sản. Em sẽ thay ḿnh làm chuyện đó.
Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho
con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”. -
“Nếu v́ con, ḿnh thương con, sao ḿnh không đi
ngoại quốc?” Hưng
đanh mặt lại, nghiêm khắc nh́n tôi trách móc: -
“Em là vợ anh. Em có thể nói được câu
ấy sao?” Biết
ḿnh vụng về, lỡ lời xúc phạm đến
người, tôi vội vàng tạ lỗi: Giọng
Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: -
“Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy
được. Chớ anh không bao giờ trốn
chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào
sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ t́m
sống riêng ḿnh sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây
giờ th́ rút cũng không kịp nữa, v́ vào mật
khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn
dược, lương thực th́ không cầm cự
được lâu. Đă muộn rồi. Việt
Cộng đang kéo vào đừng để anh không
dằn được nổ súng vào đầu chúng, th́
gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không
muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”. Tôi
phát run lên hỏi: -
“Nhưng ḿnh ơi, c̣n em? em phải làm ǵ trong lúc này?” Nắm
chặt tay tôi, Hưng nói: -
“Vợ chồng t́nh nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em
và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng
biết mang ư chí ḱnh ngư. Gắng chịu nhục. Dù
phải chịu trăm ngàn sự nhục nhă để
nuôi con, để phục hận cho quê hương.
Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin
em. V́ anh, v́ con, v́ nợ nước, t́nh nhà, em có
thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi.
Anh van ḿnh, anh van ḿnh”. Tôi
không sao từ chối được trước ánh
mắt van nài, trước những lời tha thiết
ấy: Hưng
sợ tôi đổi ư, tiếp lời thúc giục: -
“Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”. -
“Em xin hứa. Em xin hứa ḿnh ơi. Nhưng xin cho em
hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em
phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm
nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo ḿnh
chứ?” Hưng
suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ư, và
ra lệnh cho tôi: -
“Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”. Tôi
quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá
cờ vẫn dựng ở góc pḥng. Tôi vội vàng
đem cờ đến bên người. Tôi nói: -
“Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo
vệ tổ quốc. Bây giờ ḿnh hăy giữ nó”. Chúng
tôi nh́n nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào
mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng
Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: -
“Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”. Khi
mẹ tôi và các con lên văn pḥng, Hưng nói rơ cho
mẹ tôi hiểu v́ sao người phải chết và
tôi phải sống. Vâng
lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ
c̣n tụ họp dưới nhà lên văn pḥng. Mọi
người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng
cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly
giữa những người từng bao ngày sống
chết bên nhau. Hưng dơng dạc nói: -
“Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn
sang ngoại quốc. Như các anh đă biết,
cuộc hành quân chưa chi đă bị gẫy đổ
nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là v́
dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích
bừa băi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ
hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các
anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các
anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa
là ghét bỏ. Rầy la để mến thương
nhau, để xây dựng nhau. Mặc
dầu đất nước ta bị bán đứng,
bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không
trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính
những người trực tiếp nắm vận
mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng
tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi
lầm, nếu có. Tôi bằng ḷng chọn cái chết.
Tướng mà không giữ được nước,
không bảo vệ được thành, th́ phải
chết theo thành, theo nước, chớ không thể
bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu
an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh,
vợ con. Nhớ rơ lời tôi căn dặn: Đừng
bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các
anh, dù tập trung dưới bất cứ h́nh thức
nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”. Tướng
Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người
một. Mọi người đều khóc. Đến bên
Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi
gấm: -
“Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt
tất cả”. Mọi
người đều đứng yên không ai nói lên
được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm
chầm lấy người, xin được chết
theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi
cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra
lệnh cho tất cả mọi người phải ra
ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người
ra cửa. Tôi van xin: -
“Ḿnh cho em ở lại chứng kiến ḿnh
chết”. Người
từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng
quay vào văn pḥng đóng chật cửa lại. Tôi
gọi giật Nghĩa: -
“Nghĩa trở lại với tôi”. Tôi
bảo Giêng t́m dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như
bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa
chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi
đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng
4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời
của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đă chết. Giêng
run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa
lách ḿnh nhường tôi chạy vào pḥng trước.
Hưng ngả người nằm trên, nửa người
nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật
mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi
mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há
ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng
hỏi: -
“Ḿnh, ḿnh ơi! Ḿnh c̣n lời ǵ dặn ḍ em nữa
không?” Hưng
không c̣n trả lời được tiếng nào. Nghĩa
gào lên nức nở: -
“Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!” Giêng
chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi
đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay
ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo
trận, ướt đỏ cả tấm drap
trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người.
Nghĩa vẫn gào khóc: -
“Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!” Tôi
bảo Giêng: -
“Nói Ḥa đưa Hải, Hà, Quốc lên nh́n xác ba
lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng
giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng
phải ngăn chận Việt Cộng”. Tôi
đi t́m đầu đạn và đuôi đạn. C̣n
khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu.
Đến lúc tắm rửa người, thay drap
dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià
xác, với ư chí cuối cùng, người c̣n b́nh tĩnh
nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người
sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự
sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân
ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai
tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên
bụng ba, bé mở tṛn đôi mắt to, ngạc nhiên
không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi. Nghĩa
điện thoại khắp nơi t́m Thiếu Tướng
Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vă mở
đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên
lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh
tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói
rặc mùi Cộng Sản trên các tần số
thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt
cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương
quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi,
30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: -
“Alô, Alô, ai đây?” -
“Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn
đây”. Tôi bàng hoàng: -
“Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?” Tôi
cố gắng giữ giọng nói cho b́nh thường,
để Cẩn không nhận biết sự việc
xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi
có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm
ầm. Cẩn hỏi: -
“Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông
một chút”. Tôi lúng túng vài giây: -
“Chị chạy ra tŕnh Thiếu Tướng, tôi
cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?” Tôi
áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi,
nh́n xác Hưng rồi nh́n sang Nghĩa tôi hỏi: -
“Đại Tá Cẩn đ̣i gặp Thiếu Tướng,
làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng: -
“Không thể nói như vậy được. Đại
Tá Cẩn đang cự chiến với Việt
Cộng”. Trí
óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn
Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng.
Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết
liệt: -
“Thiếu Tướng không thể vào được.
Cẩn cần ǵ cứ nói. T́nh h́nh ở Chương
Thiện ra sao? Anh c̣n đủ sức chiến đấu
không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra
sao?” -
“Cẩn vui ḷng chờ chút”. Tôi
lại áp chặt ống điện thoại vào
ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu
lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó
cứu văn t́nh thế. Nhưng tôi muốn Hồ
Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi
quyết định: -
“Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng.
Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?” Cẩn
đáp thật nhanh: -
“Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!” -
“Tốt lắm, vậy th́ y lịnh”. -
“Dạ, cám ơn chị”. Tôi
buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước
mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: “Anh
Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu
đay, khi tôi ngồi viết lại những ḍng này, nước
mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng
trả lời điện thoại với anh rồi, tôi
đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại
Tá Hồ Ngọc Cẩn đă chiến đấu đến
viên đạn cuối cùng, anh đă hiên ngang hào hùng
đến giờ phút chót của cuộc đời.
Hiểu rơ Hưng, hiểu rơ tôi, bên kia thế giới
không thù hận, chắc anh hiểu rơ tâm trạng
của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi? Kính
thưa toàn thể quư vị thuộc thân bằng
quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa
quư vị đă đọc những gịng chữ này. Xin
quư vị chớ trách tôi sao dám quyết định.
Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đă
chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên
lạc được. Vợ người lính nghĩa
quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn
công, chồng chị bị tử thương, chị
đă thay chồng phản công ác liệt. Tôi không
thể để một người như Hồ
Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ ḿnh
trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng
Chương Thiện. 11
giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại
lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam: Tôi
vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng: Giọng
Tướng Nam buồn bă u uất: Tôi
vẫn nức nở: -
“Hưng đă nói với chị hết rồi hả?
Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát
hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu văn
được v́ lệnh hành quân không được
Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không
tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu
cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá
muộn màng, không hiệu quả, khó cứu văn nổi
t́nh h́nh”. Nói
đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi: -
“Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như
Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng
định liệu lẽ nào, có định phản công
không?” -
“Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đă tràn đầy
dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng
bị Giêng cương quyết đuổi xuống.
Hiện chúng đang thu dọn tài sản”. -
“Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở
lại. C̣n tất cả đă bỏ đi hết. Hưng
đă chết rồi, tôi không màng đến tài
sản. Miễn là chúng đừng đụng đến
xác Hưng” -
“Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo
xong th́ Thiếu Tướng gọi tới”. -
“Thiếu Tướng c̣n dạy thêm điều ǵ không?
Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu
hàng thật sao?” Người
chép miệng thở dài: Bỗng
giọng người trầm xuống, ngậm ngùi: Giọng
người b́nh tĩnh và rắn rỏi: -
“Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”. Nói
chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước
ra lan can nh́n xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính
tráng đă đi hết. Trừ có Nghĩa c̣n ở
lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong
đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo
kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm
lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương
như xót thương cho số phận Việt Nam
Cộng Ḥa, cho tṛ đời bể dâu hưng phế. Viết
đến đây, tôi nhớ lại từng lời
của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của
Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương
thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm
sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh
Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam. 7
giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng
dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi
thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng
nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ
trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ.
Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho
biết phải trở lại Quân Y Viện ngay v́
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tự sát, xác
c̣n nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đă
bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng
5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam
vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng
người há hốc, đớn đau. Sau cuộc
điện đàm với người, tôi đă linh
cảm, biết trước chuyện ǵ sẽ xảy
ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động
vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y
Viện, nơi Tướng Nam c̣n nằm đó, cầu
nguyện: -
Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác
Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng
và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây
giờ linh hồn của Thiếu Tướng đă
gặp Hưng, xin linh thiêng pḥ hộ cho mẹ con tôi
thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê
hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho
toàn thể anh em binh sĩ. Trung
Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người.
Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc
biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan
đó. Thành đă mời được Trung Tá Bia
đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân
nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời
tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5,
1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường
phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm
thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ,
trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nh́n lên. Và
từ trong đôi mắt người chết, có hai gịng
lệ chảy. Mặt người chợt đỏ
bừng lên. Người
khóc cho quê hương đất nước bắt
đầu đắm ch́m trong điêu linh. Người
khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc
chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách
nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch
của hai người chớ không ai lên tiếng
nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin
quư vị hiểu rơ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự
của hai ông, vợ con và gia đ́nh hai ông. Trong hoàn
cảnh căng thẳng của đất nước,
khi ḷng người mất niềm tin, hai ông cũng như
nhiều người khác, thật sự đáng thương
hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát,
hay bị bắt ở lại. Vận
nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người
dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không
nâng đỡ nổi ṭa nhà Việt Nam đang sụp
đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta c̣n
mang trong người ḍng máu của dân tộc Lạc
Hồng, c̣n hít thở được khí trời, là
một ngày chúng ta c̣n nợ nần quê hương.
Đó là món nợ thiêng liêng và cao quư mà ngôn từ loài
người chưa thể diễn tả được
sát nghĩa, và thật đúng ư. Sao chúng ta không noi gương
oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối
tiếp ư chí bất khuất của tiền nhân, để
trang trải món nợ ân t́nh đó? Sao chúng ta cứ lo
chê bai, công kích, hăm hại, đạp chà nhau, để
rồi vô t́nh làm lợi cho bọn cướp nước
Cộng Sản? Đọc
những ǵ tôi kể ở đoạn trên, những
vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đă hiểu
tất cả sự thật v́ sao Tướng Nam và Tướng
Hưng đă phải tự sát để bảo
tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại
luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm
địa tiểu nhân để đo ḷng người
quân tử. Chúng ta, những người c̣n sống,
những người Việt Nam ở trong nước
hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng
ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đă làm
được ǵ cho đừng hổ thẹn với
những người đă nằm xuống?. Họ
đă nằm xuống không phải là v́ họ hèn nhát!
Họ đă nằm xuống là v́ muốn bảo toàn Sáu
Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ
Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu
chưa làm được ǵ cho quê hương, xin hăy
thận trọng lời phê phán vô ư thức. Đừng
vô t́nh, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người
dám chết cho Tổ Quốc. Phạm
Thị Kim Hoàng |