Làm thế nào để duy tŕ tinh thần trọng pháp trong việc phân chia trên Biển Đông Mira Rapp-Hooper, Foreign Affairs Đỗ Kim Thêm dịch |
Ngày
12 tháng 7 năm 2016 đă đánh dấu một bước
ngoặt trong các cuộc tranh chấp dai dẳng về
Biển Đông. Sau hơn ba năm tiến hành thủ
tục tố tụng tại Ṭa án Trọng tài Thường
trực, cơ quan quốc tế ở The Hague, một
ṭa án được thành lập theo Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đă
đưa ra phán quyết được khắp nơi
chờ đợi về vụ kiện mà Philippines
khởi tố vào năm 2013 để chống lại
các khiếu nại về hàng hải của Trung
Quốc[ii] đối với hầu hết các
hải lộ c̣n tranh tụng[iii]. Một
phần của đường băng Subi Reef © CSIS
Asia Maritime Transparency Initiative/Digital Globe/Handout via Reuters
Nhiều
nhà quan sát đă kỳ vọng rằng ṭa phán
quyết thuận lợi cho Manila. Họ cũng đă
đoán được là Trung Quốc bác bỏ phán
quyết của ṭa, bởi v́ là bên đă kư vào Công
ước, Bắc Kinh từ lâu đă phản đối
các thủ tục tố tụng và cảnh báo
rằng Trung Quốc sẽ không tuân thủ phán
quyết. Nhưng có một thiểu số dự đoán
phán quyết sẽ là chung quyết khi cuối cùng phán
quyết chính thức thông báo. Ṭa phán quyết có
lợi cho Philippines trên hầu như tất cả
luận điểm, toà tuyên bố gần như
tất cả các yêu sách về hàng hải của
Trung Quốc trong khu vực là không có giá trị theo
luật quốc tế. Khi
quyết định như vậy, ṭa đă mang
lại một số các điều minh bạch
mới cho một số vấn đề gây tranh
tụng pháp lư và đă đặt ra các tiền
lệ sẽ ảnh hưởng đến luật
biển trong những năm tới. Nhưng phán
quyết cũng đă tạo ra một vấn đề
trước mắt: thất bại của Trung
Quốc đang đè bẹp đến độ
tạo cho Bắc Kinh có ít cách để giữ
thể diện. Các quan chức Trung Quốc có thể
cảm thấy rằng ṭa đă đẩy họ vào
một góc tường và họ phản ứng
lại bằng cách đả kích thậm tệ. Đó
là chuyện đặc biệt bởi v́ luật
quốc tế không có cơ chế chấp pháp
đơn giản, v́ vậy nếu Trung Quốc
quyết định phản bác ṭa án, không phải là
Trung Quốc, cũng không phải là Philippines và cũng
không phải là bất kỳ quốc gia nào khác có
quan tâm, tất cả sẽ không có thể làm
được ǵ nhiều để tạo cho Trung
Quốc hợp tác. Washington và các đối tác địa
phương[iv] vẫn có thể tránh một sự leo
thang nguy hiểm, nhưng chỉ nếu khi họ khích
lệ cho Trung Quốc tuân thủ phán quyết trong khi
làm cho Bắc Kinh biết rơ là họ đă không
bị mắc bẩy trong phán quyết này. Bị
vây hăm Phán
quyết của ṭa gây ấn tượng v́ một
số lư do quan trọng. Đầu tiên, trong một
động thái đáng ngạc nhiên, ṭa cho rằng
tất cả các vùng lănh thổ ở quần đảo
Trường Sa đang tranh chấp là các rặng san hô
hoặc các loại đá, không phải là các đảo.
Sự phân biệt này tạo thành vấn đề, v́
theo Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) th́
các rặng san hô không thể tạo ra một yêu sách
về các lănh hải xung quanh hoặc không phận, và
các đất đá có thể dùng như là cơ
sở cho việc khiếu nại nhỏ về hàng
hải trong 12 hải lư. Mặt khác, các đảo
tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế
với 200 hải lư; các quốc gia cũng có thể
khẳng định các quyền bổ sung này dựa
trên sự mở rộng của thềm lục địa
tạo nền tảng cho các quyền này. Trung
Quốc kiên quyết rằng họ có chủ quyền
tối thượng đối với quần đảo
Trường Sa, và ṭa đă không quy định
về quyền sở hữu hợp pháp của
họ. Nhưng bằng cách tuyên bố là tất
cả các đặc điểm của quần đảo
Trường Sa là các rặng san hô hoặc các
loại đá, toà đă hạn chế một cách
đáng kể về những yêu sách của Trung
Quốc mà họ có thể đ̣i hỏi đối
với các vùng hải phận bao quanh và không phận.
Theo luật quốc tế, các tiền đồn
của Trung Quốc (nay đặt tên sai) là Quần
đảo Trường Sa, nên được coi là các
ốc đảo nổi cô lập vây quanh trong một
phần của đại dương, mà nó thuộc vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines, v́ chúng
nằm trong phạm vi 200 hải lư của lănh thổ
của quốc gia đó. Và Bắc Kinh không thể
sử dụng quần đảo Trường Sa để
biện minh cho bất kỳ khiếu nại nào
thuộc các vùng biển xung quanh. Tiếp
theo, ṭa thấy rằng Trung Quốc đă tiến hành
các hoạt động bất hợp pháp bên trong vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines. Ṭa phán
quyết rằng các tàu thuyền của Trung Quốc
đă đánh cá mà họ không nên làm, các tàu này
đă tiến gần tới một số tàu
thuyền Philippines một cách nguy hiểm, và đă ngăn
chặn những tàu khác trong việc đánh cá và khai
thác dầu trong vùng. Đó cũng không phải là
hết tất cả vấn đề: ṭa cũng
chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng các đảo
nhân tạo[v] trong khu vực, mà nó xác định là
đă gây ra thiệt hại nghiêm trọng về môi
trường và những căng thẳng cao độ
về mặt địa chính trị Cuối
cùng, ṭa tuyên bố vô hiệu hoá hoàn toàn các yêu sách
của Trung Quốc khi họ giữ các quyền
lịch sử đối với biển Đông thông
qua “Đường chín đoạn”, một phóng
chiếu bản đồ bao gồm gần như chín
chục phần trăm của các hải lộ. Các
đường này được Trung Hoa Dân Quốc
công bố lần đầu tiên vào năm 1947 và
đă được nhà cầm quyền Cộng
sản Trung Quốc thông qua sau khi họ nắm
quyền vào năm 1949. Các quan chức Trung Quốc chưa
bao giờ giải thích chính xác về ư nghĩa pháp lư
của “Đường chín đoạn“, nhưng
họ đă nhiều lần cho rằng nó vạch ra
một khu vực mà từ đó Trung Quốc có
thể khai thác tài nguyên. Ṭa thấy rằng không có cơ
sở cho các quyền mà Bắc Kinh dựa để làm
cơ sở, và ngay cả khi nếu có được
một số điểm, th́ Công ước LHQ về
Luật Biển (UNCLOS) cũng thay thế những
quyền này khi Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS vào năm
1996. Phán
quyết của ṭa hủy bỏ các khiếu nại
về hàng hải của Trung Quốc ở Biển
Đông và mang lại một thắng lợi to lớn
cho Philippines trong vụ kiện. Nhưng chiến
thắng này có thể chứng minh một công dă tràng
nếu Trung Quốc phản ứng lại bằng cách
gia tăng hiếu chiến. Không
lối thoát? Theo
như đă ghi nhận, hầu hết các nhà quan sát
kỳ vọng là ṭa đưa ra phán quyết nói chung
là ủng hộ Philippines. Nhưng phần đông cũng
nghĩ rằng toà sẽ cho Trung Quốc một
phạm vi để tùy nghi huy động. Một cách
mà ṭa có thể thực hiện là mặc nhiên vô
hiệu các đường chín đoạn mà không
dứt khoát bác bỏ lập luận của Trung
Quốc, khi toà nói rằng Trung Quốc có quyền
thuộc về lịch sử trong khu vực, lấy ví
dụ như khi chỉ ra rằng sự mơ hồ
của đường chín đoạn và tất
cả các khiếu nại về hàng hải của
Bắc Kinh phải tuân theo Công ước LHQ về
Luật Biển (UNCLOS). Nếu
ṭa đă lựa chọn cách từ chối “mềm
dẻo” như vậy, th́ toà sẽ cho Trung Quốc
một cơ hội quư báu để giữ thể
diện. Theo sau phán quyết này, Bắc Kinh có thể
định nghĩa về mặt h́nh thức trong
lần đầu tiên về đường chín đoạn,
định lại khuôn khổ cho đường này
như là một sự khẳng định thu hẹp
của vùng lănh thổ bị vây bọc và các
quyền có yêu sách về hàng hải của họ,
chứ không phải là một loại khiếu nại
cho toàn bộ Biển Đông mà họ không phân
biệt. Điều đó đă làm cho quan điểm
của Trung Quốc phù hợp với Công ước
LHQ về Luật Biển (UNCLOS), trong khi cho phép Bắc
Kinh tỏ ra cho công luận trong nước biết là
Trung Quốc không chịu thất bại. Nhưng
kể từ khi ṭa hoàn toàn bác bỏ yêu sách của
Trung Quốc đối với các quyền thuộc
về lịch sử trong các thủy lộ, hiện
nay Bắc Kinh phải hoặc là tiếp tục bác
bỏ toàn bộ phán quyết của ṭa, hoặc là
phải giải thích cho công chúng Trung Quốc về lư
do mới là tại sao các quyền này vẫn c̣n, –
một phương cách khó khăn, v́ các nhà lănh
đạo Trung Quốc đă bị kẹt vào trong
chuyện là toà đă phủ quyết. Phán
quyết của ṭa về quần đảo Trường
Sa không cấu tạo các đảo đúng theo Công
ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) khép lại
một cơ hội cho Bắc Kinh để giữ
thể diện. Trước khi quyết định
được đưa ra, dường như ṭa
từ bỏ việc đề ra bất kỳ
loại quy định nào về đảo Ba B́nh,
một đảo được cho là thuộc Đài
Loan, mà dường như là một bằng chứng
cho quy chế pháp lư của ḥn đảo có thuận
lợi hơn so với bất kỳ một phần nào
khác của quần đảo Trường Sa. Thực
vây, nếu toà đă tránh được vấn đề
này, toà sẽ cho Trung Quốc một cách thoát khác: khi
Trung Quốc duy tŕ yêu sách về Ba B́nh thông qua
chủ quyền mà Trung Quốc tự nhận là
của ḿnh đối với Đài Loan, ít nhất là
đối với công chúng Trung Quốc, Bắc Kinh có
thể lập luận là sự thống nhất
của Trung Quốc với Đài Loan cuối cùng cũng
sẽ cho phép Trung Quốc có chủ quyền về
Bảo B́nh và do đó họ mở rộng đến
đến một vùng rộng lớn của biển
Đông. Thật vậy, vùng đặc quyền kinh
tế mở rộng từ Ba B́nh theo một kịch
bản như vậy là sẽ bao gồm đặc
điểm c̣n đang tranh chấp khác của quần
đảo Trường Sa. Khi phán quyết rằng Ba B́nh,
giống như tất cả các vùng khác trong quần
đảo Trường Sa, không phải là một ḥn
đảo, ṭa loại trừ xác suất và làm cho
Trung Quốc mất khả năng để biện
minh về mặt pháp lư cho các yêu sách mở rộng
đến vùng Biển Đông. Không
tuân thủ Trung
Quốc đă bác bỏ tính chính thống của
vụ kiện của Philippines và thẩm quyền tài
phán của ṭa để phân xử kể từ khi
Manila đầu tiên khởi tố vào tháng Giêng năm
2013. Bắc Kinh đă chỉ trích quyết định
của ṭa là bất hợp pháp, và chắc chắn
sẽ không bỏ các tiền đồn tại
quần đảo Trường Sa hoặc trả
lại cát được sử dụng để
tạo đáy biển. Trong thực tế, ngay sau khi có
phán quyết, Trung Quốc đă cho máy bay dân sự
hạ cánh[i] trên một số những tiền đồn
này, có lẽ là để họ chứng minh quyền
sở hữu hợp pháp đó là chín phần mười.
Căng
thẳng tranh chấp Biển Đông tiếp tục
diễn ra trong thời gian cuộc gặp mặt
bổ sung của các Bộ trưởng Quốc pḥng
ASEAN được tổ chức tại Kuala Lumpur vào
tháng Mười Một năm 2015 với sự có
mặt của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc.Cuộc
gặp này đă thất bại trong việc đưa
ra những lời tuyên bố chung về vấn đề. Hiện
nay, Trung Quốc có thể chọn việc miệt
thị phán quyết một cách minh thị hơn
bằng cách đi sâu trong quyền kiểm soát trên
thực tế trong khu vực. Ví dụ như Trung
Quốc có thể tuyên bố về một khu vực
nhận dạng pḥng không ở Biển Đông (Hoa
Nam), như Trung Quốc đă làm vào năm 2013 ở
Biển Hoa Đông, làm xáo trộn các nước láng
giềng trong Đông Nam Á. Trung Quốc cũng có
thể bắt đầu đ̣i lại đất
ở băi cạn Scarborough, cố dành lại của
Philippines vào năm 2012. (Cựu quan chức Mỹ cho
rằng Trung Quốc có thể đang tiếp tục
chuẩn bị để làm một cách cụ thể
việc này vào cuối năm nay.) Quân lực Trung
Quốc có thể cố gắng để đánh
chặn một tàu hoặc máy bay của Mỹ khi
Mỹ tiến hành hoạt động thuộc về
tự do hàng hải[ii], làm tăng căng thẳng giữa Bắc
Kinh và Washington. Hoặc Trung Quốc có thể có
những hành động ít nguy kịch nhưng vẫn
gây bất ổn. Trung Quốc có thể cố
gắng để áp dụng luật mới trong nước
cho các khu vực mà họ kiểm soát. Hoặc Trung
Quốc có thể tuyên bố về các đường
lối căn bản[iii], những điểm h́nh thức mà
từ đó xác định các vùng hàng hải xung
quanh quần đảo Trường Sa, đề ra
một nỗ lực khác để quản lư các vùng
biển xung quanh. Bất kỳ những hành động
nào cũng sẽ gây lo ngại sâu xa đối
với các nước láng giềng của Trung
Quốc và sẽ chứng minh rằng Bắc Kinh không
quan tâm đến việc tuân thủ các luật
lệ của trật tự quốc tế. Tuy nhiên, xáo
trộn hơn cả là nếu Trung Quốc bị thách
thức và đánh bại, họ đă chọn cách hoàn
toàn rút ra khỏi UNCLOS. Việc này là khả dĩ cho
một nước, không phải là cho một bên tham
gia công ước để tuân thủ các quy định
– Hoa Kỳ là ví dụ điển h́nh. Nhưng
nếu Trung Quốc rút lui, sẽ gần như
chắc chắn là báo trước Bắc Kinh từ
bỏ về một trật tự hàng hải hiện
hành, đặt khung cảnh cho sự leo thang hơn
nữa của nhiều tranh chấp liên quan đến
Biển Đông. Trung Quốc rút khỏi công ước
sẽ không những chỉ ra rằng Bắc Kinh có ư
định xem thường phán quyết của ṭa mà
c̣n không muốn bị ràng buộc bởi các
quyền về hàng hải khác và các điều
khoản mà UNCLOS qui định và điều chỉnh
việc sử dụng tự do các tài sản chung trên
toàn cầu. Có
nhiều lư do chính đáng cho Trung Quốc không theo
một cách như vậy. Thứ nhất, mặc dù ṭa
đă gián một đ̣n mạnh cho các yêu sách về
hàng hải của Trung Quốc, – chủ quyền
đối với hải phận và không phận và
quyền để tiến hành các hoạt động
ở đó – toà đă không quy định về các
yêu sách của Trung Quốc về quyền tối thượng
trên lănh thổ ở Biển Đông, v́ nằm ngoài
phạm vi của UNCLOS. V́ lư do đó, Bắc Kinh có
thể tranh luận một cách đúng đắn
rằng chủ quyền của Trung Quốc trên các
rặng san hô và đá mà họ chiếm c̣n đang
tranh chấp không bị ảnh hưởng. Về
mặt pháp lư Trung Quốc có thể không tiếp
tục tuyên bố về các khu quân sự trong hải
phận và không phận xung quanh các rặng san hô mà
họ chiếm, và Trung Quốc cũng không có thể
hoạt động hơn 12 hải lư tính từ các vùng
đá mà họ kiểm soát. Nhưng nếu Bắc
Kinh nhấn mạnh về chủ quyền tối
thuợng thay v́ chủ quyền về hàng hải,
Trung Quốc có thể thu hút sự chú ư của công
chúng quên đi về sự thất bại pháp lư. Thứ
hai, sau nhiều năm xây dựng đảo hùng
hậu, Bắc Kinh có các lư do chính đáng để
tránh tiếp tục thúc đẩy việc xa lánh hơn
các nước láng giềng. Nhiều nước trong
số này – đáng chú ư nhất là các thành viên
của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) – họ ngày càng trở nên cảnh giác hơn
đối với Bắc Kinh trong những năm
gần đây và họ đă hỗ trợ rơ ràng
để giải quyết tranh chấp trong khu vực
thông qua các cơ chế của luật pháp quốc
tế. Nếu Trung Quốc c̣n làm các động thái
tấn công mới, Trung Quốc sẽ đào sâu các
ư nghĩa của họ về sự xa lánh, khuyến
khích các quốc gia Đông Nam Á tăng cường
lực lượng quân đội để gia tăng
t́nh trạng cân bằng chống lại Bắc Kinh. Một
cách khác có thể giảm thiểu các tổn thương
trong thất bại của Trung Quốc. Tân Tổng
thống Philippines, Rodrigo Duterte[iv], đă cảnh báo rằng ông quan tâm theo
đuổi về một cách hoà giải hơn đối
với Bắc Kinh và đă tạo ra các khả năng
nối lại các đàm phán với Trung Quốc
về việc chia sẻ tài nguyên trong vùng biển
Đông. Nếu Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận B́nh chấp nhận đề nghị của
Duterte, có thể ông đạt được một
thỏa thuận với Manila để cho phép Trung
Quốc tiếp tục tạo yêu sách về một
số quyền đối với các tài nguyên từ
trong các góc khuất của Biển Đông. Làm
thế nào để xoa dịu Đối
với Manila, đáp ứng theo như phán quyết
của ṭa là có thể được, hiện nay,
tất cả các bên tranh tụng có phần liên quan trách
nhiệm chủ yếu trong việc đảm bảo
cho t́nh h́nh không được leo thang. Bản án
đặt ra một tiền lệ pháp lư quan
trọng: các nguyên tắc hướng dẫn trong phán
quyết của ṭa hiện nay là một phần
của luật quốc tế, và các quốc gia
phải nắm lấy và cũng cố luật pháp
nếu họ muốn các quốc gia khác duy tŕ
luật pháp trong tương lai. Vụ kiện chỉ
liên quan một số ít trong nhiều vụ tranh
chấp hàng hải ở Châu Á. Các nước khác,
từ Nhật Bản đến Việt Nam, đang xem
xét trường hợp của riêng ḿnh, và bản án
của ṭa phải đem lại một số thay
đổi tích cực nếu họ muốn theo đuổi
cách trọng tài cho riêng ḿnh với sự tự tin. Và
mặc dù các tranh chấp ở Biển Đông có
nguồn gốc lịch sử xa xưa, trong những năm
gần đây nó đă bùng lên, v́ sức mạnh quân
sự của Trung Quốc ngày càng tăng, nó đă
cải thiện khả năng của Bắc Kinh
một cách đáng kể trong việc tạo áp
lực về các yêu sách. Nếu Trung Quốc đi xa
hơn bằng cách cố t́nh coi thường phán
quyết hoặc rút khỏi UNCLOS, Trung Quốc có
thể phá hủy trật tự hàng hải mà nó
vốn dĩ đă bị thiệt hại. Có
một vài biện pháp mà Hoa Kỳ và các đối tác
có thể hỗ trợ các phán quyết gần đây
mà không cần có Trung Quốc tiếp tay. Để
bắt đầu, Hoa Kỳ và các nước khắp
thế giới có cùng quan điểm cần tiếp
tục tuyên bố ủng hộ đối với các
thủ tục luật pháp, kêu gọi Trung Quốc và
Philippines tuân thủ pháp luật mà không dựa theo
quan điểm nào trong các tranh tụng về chủ
quyền. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên làm việc
âm thầm nhưng chặt chẽ với các bên khác có
yêu sách mà họ đang xem xét đưa trường
hợp của riêng ḿnh, để giúp họ xác định
xem phán quyết này có thể có ảnh hưởng như
thế nào cho các nỗ lực của họ. Và Hoa
Kỳ cần phải làm rơ là Hoa Kỳ sẽ điều
tra về các hiệu ứng của phán quyết tác
động cho các yêu sách về ḥn đảo này. Về
phần ḿnh, Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ nên tiếp
tục đảm nhiệm các hoạt động trong
quyền tự do về hàng hải[v]mà Hoa Kỳ hỗ trợ phán quyết sau
khi tạm dừng trong vài tuần để để
làm xoa dịu các căng thẳng. Bộ Quốc pḥng
Hoa Kỳ phải tiến hành những hoạt động
mà không cần phô trương ồn ào: Thông điệp
của họ nên nặng về mặt pháp luật hơn
là quân sự, và giới dự khán của họ
phải là Bắc Kinh. Cuối
cùng, các quan chức Hoa Kỳ nên làm việc chặt
chẽ với các đối tác Trung Quốc,
khuyến khích họ đàm phán với các bên khác có
yêu sách về Biển Đông, đặc biệt là
Philippines[vi], và để làm cho các quy luật ứng
xử với ASEAN có tiến bộ trong các hiệu
lực ràng buộc, một thỏa ước đa phương
mà họ t́m kiếm từ bấy lâu nay sẽ
tạo ra một quy cách hướng dẫn nghiêm
ngặt về các hành vi trong vùng biển Đông.
Một quy tắc ứng xử có thể sẽ c̣n làm
tê liệt nguyên trạng về lănh thổ và chính
trị của các hải đạo, giúp cho Trung
Quốc tái trấn an các nước láng giềng
về ư định lâu dài của Trung Quốc không
phải là đe dọa. Các quan chức Mỹ nên
nhắc nhở các đối tác ở Bắc Kinh
rằng những lộ tŕnh c̣n lại để đàm
phán sẽ khép kín, nếu Trung Quốc có một động
thái quyết đoán mới, chẳng hạn như
bắt đầu xây dựng ở Scarborough Shoal, nhưng
nếu Trung Quốc không làm như vậy, sẽ có
nhiều phạm vi mở ra cho sự hợp tác
giữa Trung Quốc và các nước láng giềng và
giữa Bắc Kinh và Washington. Hoa
Kỳ và Trung Quốc cũng nên thúc bách tiếp
tục với các biện pháp tạo tín nhiệm[vii] mà họ đă đồng ư vào tháng
Sáu tại trong phiên họp Đối thoại Kinh
tế và Chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc để giảm nguy cơ về một va
chạm t́nh cờ giữa hai phiá. Điều đó
sẽ giúp cho mỗi bên chứng minh cho phiá bên kia và
trong khu vực thấy rằng họ không muốn nh́n
thấy một cuộc xung đột lớn trên
Biển Đông hay bất kỳ vấn đề hàng
hải khác và cả hai đều kết ước hành
động một cách có trách nhiệm. Tổng quát hơn,
các quan chức Hoa Kỳ nên làm rơ là các quyết
định trọng tài đă đưa Trung Quốc
đến một bước ngoặt về mặt pháp
luật, nhưng Bắc Kinh vẫn có một cách
lựa chọn hợp lư và khả dụng cho riêng ḿnh.
Giải quyết các cuộc tranh chấp trong hiện
tại để cho hạ màn một cách êm thắm và
hợp pháp sẽ mang lợi ích cho tất cả
mọi người, đặc biệt là bao gồm
cả lợi ích của Trung Quốc. ________ Mira
Rapp-Hooper là
Chuyên gia cao cấp tại the Asia-Pacific Security Program, the
Center for a New American Security. Nguyên
tác: Parting the South China Sea – How to Uphold the Rule of Law,
FOREIGN AFFAIRS Friday, July 22, 2016. [i] http://uk.reuters.com/article/uk-southchinasea-ruling-airport-idUKKCN0ZT0Z4 [ii] https://www.foreignaffairs.com/articles/2015-11-25/make-no-mistake [iii]http://cil.nus.edu.sg/wp/wp-content/uploads/2013/04/Session-2-Schofield-Baselines-Issues-in-the-South-China-Sea.pdf [iv]
http://www.nytimes.com/2016/05/12/world/asia/philippines-election-rodrigo-duterte.html [v] https://www.foreignaffairs.com/articles/united-states/2015-10-12/all-good-fon [vi] https://www.foreignaffairs.com/regions/philippines [vii] http://www.state.gov/r/pa/prs/ps/2016/06/258157.htm |