Cải thiện mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và Phật Giáo Hoà Hảo: Hiện trạng và Triển vọng (Phần cuối) Đỗ
Kim Thêm |
Lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai
đạo tại An Hoà Tự. Hiện
trạng Ngày
16/6/2022 (nhằm ngày 18/5 âm lịch năm Nhâm Dần),
toàn thể tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo (PGHH),
lại một lần nữa, hân hoan chào mừng lễ
kỷ niệm 83 năm ngày khai đạo 18/5 năm
Kỷ Măo (4/7/1939 dương lịch). Vào
đúng ngày thiêng liêng này, đồng đạo
khắp các nơi nô nức tràn về Tổ đ́nh và
An Hoà Tự tại làng Hoà Hảo để tưởng
niệm ông Huỳnh Phú Sổ, một thanh niên chỉ
mới 19 tuổi, đă tuyên bố: “Ta thừa vâng
sắc lệnh Thế Tôn. Khắp thế giới
truyền khai đạo pháp” sau khi cảm
nhận được một sứ mạng thiêng liêng
do Đức Phật Thích Ca giao phó. Không
đầy một năm sau ngày khai đạo, với tài
năng trị bịnh phi thường và diễn
thuyết không mệt mỏi, ông đă thu hút được
hàng triệu đồng bào b́nh dân nông thôn, hầu
hết nhiệt t́nh quy y và tôn sùng ông là Đức
Huỳnh Giáo Chủ, gia đ́nh nơi ông sinh trưởng
trở thành tổ đ́nh, An Hoà Tự nơi ông đầu
tiên trị bịnh và giảng đạo trở thành
chùa Thầy, và làng Hoà Hảo được mệnh
danh là Thánh địa. Từ
đó, tại miền Tây, PGHH trỗi dậy thành
một tôn giáo quan trọng và là một lực lượng
đấu tranh vũ trang kiên cường chống
thực dân Pháp. Trong
thời Thực dân Pháp và Đệ Nhất Cộng Hoà,
sinh hoạt của PGHH phải trải qua bao sóng gió, nhưng
đến thời Đệ Nhị Cộng Hoà,
những phát triển khởi sắc bắt đầu. PGHH
được chính quyền chính thức công nhận tư
cách pháp nhân và các cơ sở đại học và
bệnh viện đi vào hoạt động. Nhờ t́nh
đoàn kết đồng đạo mà t́nh h́nh an ninh
các địa phương ổn định và không
bị chiến tranh tàn phá. Ngược
lại, sau 1975, mối quan hệ PGHH với nhà cầm
quyền cách mạng bước vào một giai đoạn
mới mà bài viết sau đây sẽ giới thiệu
các đặc điểm chính. Sinh
hoạt Giáo hội Khác
với những biện pháp khắt khe ngay sau ngày
30/4/1975, kể từ năm 1999, nhà cầm quyền
bắt đầu thực hiện nhiều chính sách
đổi mới đối với PGHH. Về sinh
hoạt của Giáo hội, chuyển biến đầu
tiên là Đại hội PGHH lần thứ I được
tổ chức ngày 26/5/1999 tại An Giang mà kết
quả là các đại biểu đă thông qua quy
chế tổ chức, chương tŕnh đạo
sự, hoạt động và bầu Ban Đại
diện. Ngày 11/6/1999, Ban Tôn giáo chính phủ quyết
định cấp tư cách pháp nhân cho giáo hội. Phát
huy thành quả này, các Đại hội tiếp theo
đă lần lượt tu chỉnh Hiến chương,
nên sinh hoạt Giáo hội đă có những
tiến bộ đáng kể. Về mặt giáo lư,
Hiến chương năm 2009 đă đề cao
việc học Phật, tu Nhân là đă giữ ǵn giáo
lư chơn truyền, phát huy giá trị đạo đức
và tinh hoa văn hóa dân tộc. Về mặt tổ
chức, Giáo hội có văn pḥng và các ban chuyên môn,
trụ sở đặt tại An Hoà Tự, thị
trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Cơ
cấu hoạt động gồm có hai cấp, Ban
Trị sự Trung ương và Cơ sở (bao gồm
các xă, phường, thị trấn). Nhiệm vụ
của cấp Trung ương là tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về tôn giáo và truyền bá giáo
lư và giáo luật. Cụ thể là sấm giảng và băng
giảng được phép phát hành rộng răi,
tạp chí Hương Sen, cơ quan ngôn luận chính
thức của Giáo hội, ra đời và Ban Hoằng
pháp liên tục đào tạo nhiều thành viên
mới. Sinh
hoạt tín đồ Nhờ
bối cảnh mở cửa sau năm 1989 mà đa
số tín đồ được yên tâm trong việc
làm ăn và tu tập tại gia. Trong một chừng
mực nhất định, các ngày lễ quan trọng
hằng năm như Khai đạo (18/5 âm lịch) và
Đản sinh Đức Hùynh Giáo chủ (25/11 âm
lịch) được tổ chức tự do. Nhưng
hoạt động nổi bật nhất của tín
đồ là các công tác từ thiện như tổ
chức khám bệnh và cấp thuốc miễn phí,
hỗ trợ chi phí cho các tang gia, cứu trợ thiên
tai, làm cầu đường và nhà t́nh thương.
Thể hiện gần đây nhất là việc
chống dịch bệnh COVID-19. Trong năm 2011, tín đồ
đă quyên góp được 264 tỷ đồng (riêng
tỉnh An Giang trên 179 tỷ đồng). Từ đầu
năm 2022 cho đến nay, mức đóng góp lên đến
530 tỷ đồng (riêng tỉnh An Giang hơn 185
tỷ đồng), một thành tích quan trọng mà nhà
cầm quyền đă nhiệt liệt tuyên dương. Lư
giải cho những thành tựu đạt được
là người dân đă chứng minh trách nhiệm
công dân và cùng lúc t́nh đồng đạo tương
trợ trong thôn xóm. Khi những cư sĩ vận
dụng giáo lư vào đời sống hằng ngày, th́
nhờ thế, mà một nền đạo đức
địa phương h́nh thành. Nh́n chung, đó là
một giá trị gương mẫu mà các địa
phương khác cần lan toả. Nhưng
hơn thế nữa, nếu trước mắt, nhà
cầm quyền nhận thức và kết hợp
được cả hai lợi điểm về
mặt đạo đức và chính trị, th́ hận
thù của tín đồ do lịch sử để
lại may ra sẽ xoá dần và niềm tin về
sự lănh đạo v́ thế sẽ được phát
huy thuận lợi trong lâu dài. Để
từng bước cải thiện mối quan
hệ theo chiều hướng này, cả hai phía
cần thảo luận về các việc hoà giải,
vinh danh công nghiệp của Đức Thầy, đánh
giá lại nội dung giáo lư PGHH và Bản Tuyên ngôn
Việt Nam Dân Chủ Xă Hội Đảng (VNDCXHĐ). Hoà
giải Cho
dù thời gian làm lắng đọng các hận thù
trong máu lửa, nhưng các vụ sát hại Huỳnh
Thạnh Mậu, biến cố đường Miche và
thọ nạn Đốc Vàng đă để lại
trong ḷng các tín đồ trung kiên của Đức
Thầy một kư ức cực kỳ sâu đậm. Có
phải v́ thế mà họ không thể xoá bỏ
hận thù? Không
hẳn như vậy. Hiện nay, các thế hệ tham
chiến chống Pháp đă ra đi, vấn đề
hoà giải với người nằm xuống không c̣n
ai đặt ra. May mắn hơn là các tín đồ
hậu thế hầu như không c̣n có thái độ
“không đội trời chung” như trước
đây, v́ họ không liên quan trực tiếp và cũng
đă có hai lư giải khác. Một
là, tín đồ tin rằng thế gian là vô
thường và con người lại luôn bị
cuốn hút trong ṿng lẩn quẩn từ vô thường
này sang vô thường khác. Nguyên nhân của hận thù
xuất phát từ tính tham lam, ganh ghét và t́nh trạng vô
minh. Cuối cùng, tất cả các thói xấu này làm
cho hận thù ngày càng gia tăng. Giáo
lư của PGHH là kết tụ từ tinh thần từ
bi hỷ xả. Để giải quyết các xung đột
cá nhân, Đức Thầy từng khuyên tín đồ nên
áp dụng t́nh thần hoà giải, mà trong một bài
kệ viết năm Nhâm Ngũ tại Bạc Liêu đă
chứng minh: Đạo
Pháp thường hay dung với hoà Xét
người cho tột xét thân ta Nếu
người rơ phận vui ḷng thứ Ta
thứ được người, người thứ
ta. Hoặc: Rèn
dân bằng giáo thuyết B́nh Hoà Giống
Bác Ái gieo sâu vô tận. (Khuyến
Thiện) Ngay
trong lĩnh vực chính trị, chính Ngài cũng áp
dụng lư tưởng Hoà b́nh và Bác ái này. Bằng
chứng là sau khi Hoàng đế Bảo Đại tuyên
bố Việt Nam giành được độc
lập, Ngài thiết tha kêu gọi các tín đồ nên
xoá bỏ hận thù và cùng nhau chung tâm lo xây dựng
đất nước. Một
trích đoạn trong lời kêu gọi của Đức
Thầy trong năm 1945 sau đây cho thấy tinh thần
này: “… Đạo
Phật là đạo từ-bi bác-ái, dĩ đức háo
sanh khoan hồng đại độ; tuy t́nh thế có
đổi thay chớ tấm ḷng nhơn chăng đổi. Vậy
hăy coi toàn dân cũng như anh em một nhà, mong họ
liên kết với chúng ta để kiến thiết
lại quê hương cùng nền Đạo nghĩa. Những
kẻ bạo tàn từ trước đến giờ,
nay đă ăn năn giác ngộ th́ hăy dĩ đức
nhiêu dung tội trạng của họ, để sau này
quốc gia định đoạt, c̣n ḿnh chỉ khuyên
họ trở lại đường lành, chớ
chẳng nên làm điều ǵ thái quá mà động
đến từ tâm của chư Phật …” “…
Lo trả thù riêng, đốt phá nhà cửa , hoặc
trộm cướp sát nhân, làm rối trật tự, có
hại cho sự kiến thiết quốc gia: Kẻ yêu
nước chẳng nên làm. B́nh
tĩnh hiệp tác chặt chẽ với nhà
đương cuộc, giữ sự an ninh cho dân chúng,
có lợi cho sự kiến thiết quốc gia: Kẻ yêu nước
nên làm…” Cho
dù hiện nay tín đồ vẫn c̣n tuân thủ các
lời khuyên này của Đức Thầy, nhưng áp
dụng việc tha thứ trong mức độ nào là
một vấn đề mới và có những lập
luận dị biệt. Nếu
tín đồ đơn phương xoá bỏ hận thù,
th́ việc hoà giải không đương nhiên sẽ
thành tựu; đó chỉ là một yếu tố
cần nhưng chưa đủ, v́ nhà cầm quyền
cũng phải tỏ ra là đối đăi với tín
đồ trong tinh thần xây dựng một nền
tảng chính trị và luân lư chung khả tín và tôn
trọng sự thật lịch sử. Chính
xác hơn là điều tương phản lại
xảy ra trong thực tế. Nhiều tín đồ trung
kiên chứng minh, nhà cầm quyền chủ trương
kiểm soát chặt chẽ nội bộ giáo hội và
ngăn chận “các thế lực thù địch” thâm
nhập; do khép lại quá khứ một cách có chọn
lọc nên cố ư sử dụng một số người
v́ các lư do thầm kín khác nhau mà chấp nhận làm công
cụ trong các sinh hoạt đạo sự. Lo
hướng về tương lai, có nghĩa là, Ban Tôn
giáo chính phủ không quan tâm đến các gánh nặng
trong quá khứ c̣n tồn đọng, nhất là
thiếu can đảm nh́n ra sự thật trong việc
sát hại Đức Thầy, mà lại cho là do “không
khí chiến tranh thế giới lần thứ hai đă
ảnh hưởng đến cá nhân ông Huỳnh Phú
Sổ…” Hai
là, nhiều tín đồ có niềm tin là
“Đức Thầy sẽ trở lại để
cứu độ chúng sinh”. Theo quan điểm “thiên
cơ bất khả lậu”, Đức Thầy là
vị Phật hoá thân xuống trần để
dựng Đạo cứu Đời. Việc “ra đi”
của Ngài là chấm dứt một sứ mạng thiêng
và bằng chứng là Ngài tiên đoán việc từ
giả bổn đạo: Rán
nghe lời dạy của Thầy, Để
chừng đến việc kiếm Thầy khó ra. (Q.3
– Sấm Giảng) Hoặc: Ra
đi dặn lại ít lời, Khuyên
trong bổn đạo vậy thời rán nghe. (Dặn-Ḍ
Bổn-Đạo) Hoặc: Từ
nay cách biệt xa ngàn, Ai
người tâm đạo đừng toan phụ
Thầy. Giữa
chừng đờn nỡ đứt dây, Chưa
vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa. (Dặn-Ḍ
Bổn-Đạo) Đức
Thầy là bậc siêu phàm th́ người phàm không
thể hại được; do đó, tín đồ cũng
không có lư do hay đối tượng để
hận thù. Như
trong bất cứ cuộc thảo luận nào khác,
niềm tin tôn giáo và ḷng suy tôn đấng giáo chủ
là các nhận định khó gặp gỡ tinh thần
lư trí khách quan trong thế gian. Ở đây cũng
vậy. Biến cố Đốc Vàng là sự việc
đă rồi. Nếu cuộc tranh luận này c̣n kéo dài
cho đến đâu đi nữa, th́ cũng không
thể đem lại một giải pháp nào tốt
đẹp hơn. V́ không thể thay đổi
được quá khứ, nên tín đồ hậu
thế cũng phải đành ḷng gác lại việc
“vắng mặt” của Đức Thầy mà lo
chuyện hiện tại và tương lai. Hiện nay, tín
đồ hy vọng là cả hai phía sẽ cùng nh́n
về một hướng để chung sống hài hoà,
hợp tác và xây dựng. Nhưng
do hiểu biết về quá khứ lịch sử c̣n khác
nhau, nên sự dị biệt về quan điểm
vẫn c̣n tồn tại. Khởi điểm cụ
thể cho hai phía là cần phải đánh giá lại
toàn bộ các công nghiệp của Đức Thầy,
nội dung giáo lư PGHH và Bản Tuyên ngôn VNDCXHĐ. Vinh
danh công nghiệp của Đức Thầy Đức
Thầy tự xác định ḿnh là một nhà lănh
đạo tôn giáo với ước mơ cao cả:
Biết
làm sao gieo Đạo khắp đại đồng, Đưa
nhơn loại đi vào ṿng hạnh phúc. Để
đạt mục tiêu này, Đức Thầy đă tham
gia đấu tranh chính trị và trở thành một
biểu tượng hoà hợp cho dân tộc mà
nhiệt huyết này đă thể hiện qua: Tăng
sĩ quyết chùa, am bế cửa, Tuốt
gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền
xong nợ nước thù nhà, Thiền
môn trở gót Phật Đà nam mô. Dù
bị thực dân Pháp gây bao áp lực trong lúc hoằng
pháp, Ngài đă tỏ ra kiên cường để theo
đuổi hai chủ trương dựng Đạo
cứu Đời. Trong
việc cứu Đời, Ngài tỏ ra nhiệt t́nh
hợp tác với Việt Minh để tranh đấu.
Chính Tổng Bộ Việt Minh ủy nhiệm cho Ngài
trong chức vụ Đại diện tại Nam Bộ,
và sau đó là Uỷ viên Đặc biệt của
Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ. Do Việt
Minh yêu cầu, Ngài đến Đốc Vàng để
dàn xếp các xung đột. Trong thực tế, Ngài
đă thể hiện thiện chí hợp tác trong ba
lần. Lần
thứt nhất,
ngay sau khi bào đệ Huỳnh Thạnh Mậu bị
Việt Minh sát hại tại Cần Thơ, v́ nợ nước
mà Ngài không nghĩ đến việc nhà. Ngược
lại, tháng 2 năm 1946, tại miền Đông, Ngài c̣n
khuyên tín đồ nên chấm dứt mọi cuộc
xung đột với Việt Minh qua bài Tiếng chuông
cảnh tỉnh: Lúc
bây giờ muôn binh xâm-lược, Đang
đạp giày non nước Việt-Nam. Thù
riêng muôn vạn cho cam, Cũng
nên gác bỏ để làm nghĩa công. Lần
thứ hai, dù là
một Uỷ viên của Việt Minh, nhưng lại
bị chính Việt Minh tổ chức vây bắt Ngài
tại văn pḥng. Nhờ tiên liệu được t́nh
huống, nên Ngài đă may mắn thoát nạn. Trong lúc
giả làm người Thượng ẩn trú tại
Rừng Chà Là (Bà Rịa), Ngài cũng kiên nhẫn
chờ đợi Việt Minh t́m một giải pháp cho
Ngài tiếp tục hợp tác. Trong bài thơ Tiếng súng
bên lầu, Ngài tâm sự tha thiết: Từ
ấy lao ḿnh vượt khổn nguy, Băng
rừng lội suối giả man di, Ngày
mong ải Bắc oan này giải Đem
sức ra nâng lá quốc kỳ Nhưng
khổ càng mong càng vắng bặt Trời
Nam tràn ngập lũ Tây di Biết
bao đồng chí phơi xương máu Thức
giả nh́n nhau hỏi tội ǵ? Trong
năm 1946, dù đang mang tâm trạng chờ đợi,
Ngài cũng không quên kêu gọi tinh thần đoàn
kết qua bài Tiếng chuông cảnh tỉnh: Khắp
Nam Bắc Lạc Hồng một giống Tha
thứ nhau để sống cùng nhau Quí nhau
từng giọt máu đào Để
đem máu ấy tưới vào địch quân… Không
chỉ kêu gọi đoàn kết đấu tranh, mà
Đức Thầy c̣n kết án Việt Minh nhẫn tâm
thủ tiêu những người đồng đảng
của họ qua bài Đồng Đảng tương
tàn: Người
đồng đảng giết người đồng
đảng Ai
Việt Minh, Cộng Sản là ai? Đương
cơn quyền lợi đắm say Anh
hùng, chí sĩ râu mày thế ư? Lần
thứ ba và
cũng là lần cuối, tại Đốc Vàng, Ngài
tham gia một cuộc họp hoà giải và v́ không lường
được sự phản bội của Việt
Minh, tại đây, Ngài thọ nạn vào năm 27
tuổi. Cho
đến nay, nhà cầm quyền không nhận ra
rằng, trong lịch sử truyền bá Phật giáo
tại các nước Á Đông, chỉ trong một
thời gian hành đạo bảy năm ngắn
ngủi (1939-47), Đức Thầy đă tạo ra
một trào lưu phát huy tín ngưỡng và tranh đấu
giành độc lập cho dân tộc rộng khắp
tại miền Tây. Nếu kể cả sau này, khi
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm về nước
chấp chính năm 1954, th́ cũng chưa có một tinh
thần đạo pháp và dân tộc nào trỗi dậy
đầy phấn khởi như đă xảy ra tương
tự. Bằng
một sự hiện diện thân thiết, một nhân
cách cao quư và một gương mẫu sống động,
các câu chuyện kể về h́nh ảnh Đức
Thầy tôn kính vẫn c̣n sống măi trong ḷng người
tín đồ hiền hoà. Trong đại cuộc dân
tộc, đó là một sự nghiệp to lớn mà không
có một vị lănh đạo tinh thần hay chính
trị nào có thể so sánh được. Đó
là lư do tại sao các tín đồ mong muốn nhà
cầm quyền nên công khai vinh danh công nghiệp và tưởng
niệm Đức Thầy; nếu khả thi, th́ đây
là một cơ sở thuận lợi cho việc hoà
giải. Nhưng trong sự dị biệt về mức
độ hoà giải, tín đồ c̣n phải kể
đến vấn đề nhà cầm quyền chưa
nhận ra nội dung cao đẹp của giáo lư. Giáo
lư PGHH Nói
chung, toàn bộ lời giáo huấn của Đức
Thầy là ca ngợi ḷng ái quốc và tấm gương
hy sinh của các bậc anh hùng dân tộc, tinh thần
đoàn kết xă hội của đồng bào và nhân
loại. Để thực hiện lư tưởng này,
Ngài kêu gọi mọi người nên thể hiện ḷng
yêu chuộng hoà b́nh và bác ái, ư thức về
quyền b́nh đẳng, giúp đỡ người lao
động, đề cao giá trị giáo dục và
bản sắc văn hóa. Hai
việc cụ thể nhất của Đức Thầy
là chữa bịnh và hoằng pháp. Ngài làm việc không
mệt mỏi khi 107 lần đi khắp miền Tây
để trực tiếp hô hào khuyến tu, khuyến
thiện và khuyến nông. Ngài được dân chúng
nhiệt liệt hưởng ứng, mà đáng kể
nhất là việc phổ thông gíao lư. Trọng
tâm giáo lư của Đức Thầy là chuyển mê khai
ngộ, có nghĩa là, giúp cho mọi người trong
một thế giới vô thường tỉnh thức
để hướng về việc tu tập. Thành
tựu đặc sắc của Đức Thầy là
đă hiểu đúng căn cơ, tŕnh độ và hoàn
cảnh của dân chúng địa phương và
biến Phật giáo trở thành là của người
Việt từ h́nh thức cho đến nội dung và có
các mục tiêu cải tạo tôn giáo, tâm lư và xă
hội. Cách
mạng tôn giáo Năm
1945, khoảng 95% dân Việt c̣n mù chữ và tŕnh độ
dân trí của nông dân miền Tây cũng không thể khá
hơn. Trong bối cảnh xă hội đen tối này,
Ngài đă đem lại một ánh sáng mới. Các giáo
pháp của Phật giáo như Trung đạo, Tứ
diệu đế, Tứ ân, Ngũ giới, Lục
độ, Bát chánh đạo vả Thập nhị nhân
duyên có một h́nh thức và nội dung mới, hoàn toàn
Việt hoá, dễ học, dễ hiểu, dễ
nhớ, và gần gũi với tâm tư của người
nông dân chất phác. Dù
theo pháp môn Tịnh Độ, Đức Thầy
chỉ nhất tâm hướng về nông dân để
cứu độ, như trong Giác Mê Tâm Kệ, Ngài
đă chứng minh: Muốn
niệm Phật chẳng cần sớm tối Ghi
vào ḷng sáu chữ Di Đà Ở
ruộng đồng cũng niệm vậy mà Phật
chẳng chấp, chẳng nài thời khắc. Ngược
lại, có nhiều lập luận chống phá cho
rằng giáo lư PGHH là b́nh dân và nông cạn. Nhưng khi
nh́n lại vấn đề trong toàn cảnh, sẽ có
những nhận thức khác hơn. Đức Thầy
không đề cập đến các khía cạnh uyên thâm
của giáo lư và cũng không nhắm đào tạo các
chư tăng ni theo như tŕnh độ tại các
Phật học viện hay lo thu phục các bậc trí
thức khoa bảng mà là khai hoá cơ bản cho nông dân.
Ngài chỉ mong sao đáp ứng được nhu
cầu cá nhân của nông dân như là một nhu
cầu tâm linh của thời đại. Dù
học vấn khiêm nhường, nhưng nhờ tài năng
thiên phú, Đức Thầy giản dị hoá giáo lư
để đa số có thể hiểu được
và tu tập; do đó, công đức khai hoá là khác
biệt và vô lượng. Điều đáng ngạc
nhiên là ngay cả các bậc trí thức Nho học,
thoạt đầu, v́ ṭ ṃ mà t́m đến Ngài, qua các
vần thơ đối đáp và thảo luận
về hiện t́nh đất nước, họ cũng
thán phục Ngài; một số ngộ đạo và quy
y; một số khác cũng hợp tác với Ngài trong
đấu tranh chính trị, điển h́nh là các danh sĩ
đương thời như Nguyễn Văn Sâm,
Nguyễn Bảo Toàn và Trần Văn Ân. Cách
mạng tâm lư Thời
Pháp thuộc, t́nh trạng Phật giáo suy đồi
nghiêm trọng làm sai lạc ư nghĩa Chánh Tín mà trong
sinh hoạt các chùa chiền hay giới chư tăng ni
và tín đồ là các thí dụ. Đa số tín đồ
c̣n sống trong mê tín dị đoan, chỉ hiểu
việc dâng cúng lễ vật bạc tiền cho chùa
để mong được phước. Các thứ vàng
mă, thầy bùa, thầy pháp và chay đàn làm mê
hoặc ḷng người, nhưng thực ra chưa
hiểu được cốt tượng và chuông mơ
chỉ là h́nh ảnh tượng trưng. Thay
đổi tâm lư là một khởi điểm mà Đức
Thầy nêu lên các điển h́nh: Xá
với phướn là tṛ kỳ quái, Làm
chay đàn che miệng thế gian. Hoặc: Những
giấy tiền vàng bạc cũng thôi, Chớ
có đốt tốn tiền vô lư. Hoặc: Trong
sáu tỉnh nhiều điều tà mị, Tu
hành mà vị kỷ quá chừng. (Kệ
Dân của Người Khùng) Hoặc: Ghét
những kẻ tu hành bốc xước, Miệng
kêu gào chuyện phước bề ngoài. Bước
vào chùa thấy Phật lạy dài, Lui
khỏi cửa ra tay cấu xé. (Giác
Mê Tâm Kệ) Hoặc: Thấy
dương gian lường gạt Thánh thần, Mà
chua xót cho đời Ngươn hạ. (Giác
Mê Tâm Kệ) Đức
Thầy chủ trương thay đổi h́nh thức
tu tập, cụ thể là trên bàn thờ Phật không
có tượng Phật và chuông mơ, chỉ có một
tấm trần dà, tượng trưng cho sự ḥa
hợp nhân loại. Dưới bàn thờ Phật là bàn
thờ Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ
đă khuất. Trước nhà có một bàn thờ bàn
Thông Thiên để bày tỏ sự cảm thông
với Trời Đất. Các biểu tượng
thờ cúng rất đơn sơ, chỉ dùng nước
lạnh để tỏ ḷng trong sạch, bông hoa cho
sự tinh khiết và nhang là khử mùi uế trược. V́
ḷng thành là quan trọng nhất, nên theo Đức
Thầy, mục tiêu cao cả của việc tu hành là
chú trọng nơi tŕnh độ giác ngộ và
niềm tin kính nơi bản thân, cố giữ sao cho tâm
linh được luôn thanh tịnh và không để
cho tham sân si sai khiến. Nh́n
chung, giáo lư đem lại một lối hành đạo
gần gũi với nông dân, bài trừ mọi h́nh
thức mê tín và đơn giản hóa mọi nghi
lễ. Do đó, Đức Thầy kết luận tu tâm
là chính: Phật
tại tâm chớ ở đâu xa Cách
mạng xă hội V́
sinh trưởng ở nông thôn, nên Đức Thầy
đă khởi tâm chuyên lo khai hoá cho nông dân. Thực ra,
qua giáo lư, Ngài cũng có thiện tâm xây dựng toàn
diện xă hội khi đề cập đến các
giới trí thức mới cũ, trẻ cũng như
già. Nh́n trong xă hội, Đức Thầy phải than: Chẳng
có người nào tu niệm hiền lương (Khuyên
người đời tu niệm) Nh́n
giới Nho học, Đức Thầy cũng nêu lên
sự thật: Thấy
đời ta cũng héo von, Học
Nho mà chẳng làm tṛn nghĩa nhơn. Khoe
ḿnh chẳng có ai hơn, Nhờ
làm thuốc Bắc đỡ cơn túng nghèo. Hiền
nhơn chẳng chịu làm theo, Đợi
ai có bịnh túng nghèo chẳng tha. Hốt
thời cắc bảy, cắc ba, Nó
đ̣i năm cắc người ta hoảng hồn. (Kệ
Dân của Người Khùng) Nh́n
thành phần theo Tây học, Đức Thầy cũng
không lạc quan: Mấy
anh thầy thuốc Lang Sa, Cũng
là mổ mật người ta lấy tiền. Đức
Thầy đề cao đạo lư Khổng Mạnh là
một nền tảng đạo đức cho xă
hội: Khuyên
trai gái học theo Khổng Mạnh, Sách
Thánh hiền dạy đạo làm người. Hoặc: Lời
Thánh hiền để lại biết bao, Sao
trai gái chẳng coi mà sửa. Trong
một cuộc phỏng vấn của kư giả Hồn
Quyên báo Nam Kỳ ngày 29/11/1946, Đức Thầy đă
đúc kết lư tưởng hành đạo như sau: “Cái
hành đạo đúng theo ư tưởng xác thực
của nó là làm thế nào phát hiện được
những đức tánh cao cả và thực hành trên
thiệt tế bằng mọi biện pháp để
đem lại cái phước lợi cho toàn thể chúng
sanh, th́ đó là sự thỏa măn trong đời hành
đạo của ḿnh”. Bản
Tuyên Ngôn VNDCXHĐ Trong
tinh thần dựng Đạo cứu Đời, Đức
Thầy chủ trương rất thực tế: “Đời
không đạo, đời vô liêm sỉ, Đạo
không đời, đạo biết dạy ai? Đức
Thầy lập VNDCXHĐ với mục tiêu là tạo môi
trường hợp tác giữa các phong trào đấu
tranh để tăng cường hiệu năng trong công
cuộc giành độc lập, đối kháng trước
âm mưu Cộng sản hóa đất nước và
tạo điều kiện cho các tín đồ tham gia
sinh hoạt chính trị. Việc
thành lập Đảng cho thấy ư chí của Đức
Thầy trong việc xây dựng một nước
Việt Nam tự do, dân chủ, công bằng và nhân
bản. Về
phương diện chính trị, VNDCXHĐ chủ trương: “Thực
thi triệt để nguyên tác chính trị của
chủ nghĩa dân chủ, chủ quyền ở nơi
toàn thể nhân dân. Đă chủ trương toàn dân
chính trị, thế tất đảng chống độc
tài bất cứ h́nh thức nào.” Về
phương diện kinh tế, VNDCXHĐ tuyên bố: “là
một đảng cách mạng xă hội, chủ trương
tổ chức nền kinh tế theo nguyên tắc chủ
nghĩa xă hội: không để giai cấp mạnh cướp
công quả của kẻ yếu, làm cho mọi người
đều được hưởng phúc lợi cân
xứng với tài năng và việc làm của ḿnh,
những người tàn tật th́ được nuôi
dưỡng đầy đủ. Việt
Nam không chủ trương giai cấp đấu tranh
giữa dân tộc Việt Nam v́ lẽ ở xă hội
Việt Nam hiện thời trên 80 năm bị trị
chỉ có một giai cấp bị “tư bản
thực dân bóc lột”. Triết
lư chính trị của VNDCXHĐ có hàm chứa một
nội dung Phật giáo: là người dân, ai cũng có
ít nhiều đóng góp trong việc phát triển chung
của đất nước. Do tŕnh độ không
đồng đều nên mỗi cá nhân có phần khác
nhau. Nhưng điểm chung là mọi người đều
có là Phật tánh và tinh thần từ bi hỷ xả,
nhờ thế nên không ai vi phạm các quyền tự
do, dân chủ và b́nh đẳng. VNDCXHĐ
chủ trương xây dựng kinh tế trên nguyên
tắc chủ nghĩa xă hội, nhưng ở đây có
sự khác biệt chính, không phải là đấu tranh
giai cấp sắt máu và hủy diệt quyền tư
hữu, v́ bạo lực cách mạng luôn luôn là trái ngược
với tinh thần hiếu sinh và bất bạo động
của Phật giáo. V́
vậy, ư nguyện “đem lại cái phước
lợi cho toàn thể chúng sanh”, như Đức
Thầy tuyên bố, là mục tiêu cũng vừa là
động lực của PGHH và VNDCXHĐ. Tóm
lại, Bản Tuyên ngôn đă đưa ra một khái
niệm mới về xây dựng và phát triển đất
nước, không những thích hợp cho bối
cảnh trong năm 1946, mà c̣n cho năm 2022, nội dung
đóng góp nhằm mang lại cho dân giàu, nước
mạnh, thế giới an b́nh. Triển
vọng Trước
hiện t́nh này, liệu nhà cầm quyền có can đảm
cải thiện mối quan hệ với PGHH không. Cho
đến nay, câu trả lời là không hay đúng hơn
là vẫn c̣n né tránh. Lư do chính cho thái độ này
bắt nguồn từ quan điểm cố hữu
của Đảng là lănh đạo triệt để,
toàn diện và tuyệt đối, tôn giáo chỉ là công
cụ để cho Đảng kiểm soát toàn bộ
sinh hoạt xă hội. Trong
thực tế, Đảng đă tự quyền
giới hạn các ư nghĩa hiến định của
tự do tôn giáo, mà vụ tu viện Bát Nhă vào năm
2009 là điển h́nh. Đảng
đưa ra các giới hạn cụ thể là Phật
giáo không được sinh hoạt độc lập;
chính xác hơn là phải làm theo ư của nhà cầm
quyền th́ mới được phép. Việc Phật
tử đi chùa chỉ trong nghi lễ cầu an, cầu
siêu và cúng lễ vật bạc tiền, c̣n việc nâng
cao trí tuệ để phá mê khai ngộ bị hạn
chế. Hiện
nay, chính quyền và Phật giáo chỉ nhiệt t́nh
hợp tác trong lĩnh vực kinh doanh tâm linh để
trục lợi, một mục tiêu xa rời ư nghĩa
nguyên thuỷ của hai phía. Dĩ nhiên, PGHH không bị
ảnh hưởng bởi vụ Bát Nhă, v́ nằm trong
hai bối cảnh khác hơn. Một
là, sau ngày 16/4/1947, tín đồ phải
chấp nhận cảnh xa vắng Đức Thầy. Dù
xa vắng, nhưng họ vẫn c̣n một tấm ḷng
son sắt giử Đạo chờ Thầy. Hai
là, sau ngày 30/4/1975, tín đồ phải thích
nghi trong bối cảnh mới và hy vọng được
nhà cầm quyền bảo vệ quyền tự do tín
ngưỡng, một quyền hiến định. Nhưng
các hy vọng này cần được đặt
lại trong một viễn cảnh rộng lớn hơn:
một tinh thần đồng thuận về mọi giá
trị chính trị sẽ làm cho đất nước
an b́nh và thịnh vượng. Sự chung sống trong
hoà hợp, một ư nghiă cao đẹp, trở thành là
điều kiện tiên quyết, niềm tin cho toàn dân trong
việc tạo lập một cộng đồng xă
hội tương lai. Sự đồng t́nh trong
bối cảnh mới sẽ là một khuôn khổ
để xây dựng lại các mối quan hệ trong
toàn xă hội. Trong
khuôn khổ mới này, vai tṛ của luật pháp là
quyết định. Nhà cầm quyền phải tạo
điều kiện cho tất cả các thành phần dân
tộc, các xu hướng chính trị, các tôn giáo
được b́nh đẳng trước pháp
luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân
quyền và dân quyền. Dù là hướng về tương
lai, nhưng nh́n lại quá khứ cũng là cần
thiết. Trong thời đại văn minh, mọi
nhận thức về quá khứ vinh quang của một
đất nước anh hùng cần được xét
lại nghiêm chỉnh, và sự thật lịch sử
sẽ là tiếng nói của lương tri và đạo
đức. Một
thực tế không thể tranh căi là khi chiến tranh
kết thúc, nhà cầm quyền đă không soi sáng các
khuất tất lịch sử; ngược lại,
độc quyền ban phát chân lư và giải thích
lịch sử vẫn c̣n tiếp diễn. Trong triển
vọng này, nhà cầm quyền phải phản tỉnh
để t́m lại nguyện vọng trung thực
của toàn dân và trong đó có các tín đồ PGHH. Ư
thức mới này, nếu nhận ra được,
trở thành một giải pháp mới cần thực
thi. Một
là, ḷng yêu nước của toàn dân trong công
cuộc đấu tranh chống Pháp là mănh liệt, mà
trong đó có khối PGHH. Các xung đột nội
tại và địa phương đă gây ra những
ngộ nhận tai hại mà PGHH là một thành phần
có liên quan trực tiếp. Do đó, nhà cầm
quyền phải có trách nhiệm làm sáng tỏ
những bí ẩn lịch sử, trong đó có vụ sát
hại Đức Thầy. Hai
là, PGHH
đă, đang và sẽ đóng góp nhiều giá trị
to lớn trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và
đạo đức địa phương. Do đó,
trong việc hàn gắn những chấn thương tâm
lư cho toàn dân, nhà cầm quyền phải quan tâm đến
những thương tổn mà khối PGHH phải gánh
chịu cho đến ngày nay. Ba
là, hiện nay, đất nước đang
chuyển ḿnh, nhà cầm quyền phải nâng cao vai tṛ
của các tôn giáo, trong đó có PGHH, là có khả năng
xây dựng một nền văn hóa đạo đức
cho quốc dân, điển h́nh là giáo lư Tứ Ân. Các
nội dung về ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất
nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào và
nhân loại là một nền tảng tốt đẹp
hơn cho việc xây dựng đạo đức dân
tộc trong tương lai. Bốn
là, Bản
Tuyên ngôn VNDCXHĐ mang lại các giá trị tổng
hợp sinh động và dung hoà từ nhiều
nguồn tư tưởng và văn hoá khác nhau. Do đó,
dù cũng là thực thi đường lối XHCN trong
việc xây dựng đất nước, chấn hưng
kinh tế và cải tạo xă hội, nhưng chủ trương
của VNDCXHĐ là không dùng bạo lực sắt máu và
độc tôn đảng quyền để bảo
vệ tư bản thân tộc; ngược lại,
đem lại dân chủ, b́nh đẳng, luật pháp và
phúc lợi cho toàn dân, đó là một mô h́nh mà các nước
Bắc Âu đă áp dụng thành công. Kết
luận Thời
gian lắng đọng và t́nh thế đổi thay, phe
thắng cuộc cần có ư thức phản tỉnh, không
c̣n là lúc để kiêu hănh phân biệt thắng và
thua, trong khi thế hệ hậu chiến đang vươn
ḿnh và bắt đầu đảm nhận vai tṛ
mới cho lịch sử. Tất cả cần chung
sống trong hài hoà và có trách nhiệm để lo xây
dựng đất nước mà tinh thần đoàn
kết và niềm tin về tương lai là có một
giá trị cao cả. Riêng
đối với PGHH, nhà cầm quyền chỉ
muốn tín đồ lo thờ cúng để dễ
bề phân hoá và kiểm soát mà không nhận ra vai tṛ lănh
đạo cao đẹp của PGHH trong việc xây
dựng đạo đức dân tộc; do đó,
vẫn chưa can đảm đối thoại để
thành tâm hợp tác và c̣n né tránh các sự thật
lịch sử. Nếu
nhà cầm quyền thành công trong các nỗ lực soi sáng
lịch sử và thành tâm khép lại quá khứ, th́ may
ra, tương lai của mối quan hệ hết mờ
mịt và một mạng lưới quang minh chính đại
với toàn xă hội sẽ dần dà thành h́nh. Đỗ
Kim Thêm
|