Chiến
Tranh Thử Thách và Cơ Hội Để Lấy
Lại Ḥang Sa Nguyễn Quang Duy |
Ngày
19-1-1974, lợi dụng Hoa Kỳ rút khỏi miền
Nam, Trung cộng cho tàu chiến tấn công và đổ
bộ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Từ đó, càng ngày họ càng trở nên hiếu
chiến, từng bước lấn chiếm các nơi
khác và đơn phương xem Biển Đông là ao
nhà. Thái độ hiếu chiến đang dẫn
đến chiến tranh. Nhân
40 năm tưởng niệm các chiến sỹ Quân
Đội Việt Nam Cộng Ḥa anh dũng chống
trả quân Tàu. Bài viết này b́nh luận chiến
tranh là thử thách và cơ hội để chúng ta
lấy lại Ḥang Sa và có được tự do. Vị
Thế Chiến Lược Việt
Nam nằm trên ngă ba đường giao thông quốc
tế. Bờ biển Việt Nam một phía, phía bên
kia là Ḥang Sa và Trường Sa, bao phủ biển
Đông. Kiểm sóat được hai quần đảo
là kiểm sóat được biển Đông, và là
kiểm sóat được tuyến đường hàng
hải quốc tế đang càng ngày càng trở nên
quan trọng. Chính
v́ thế, từ ngàn xưa ông bà chúng ta đă cho
hải quân ra vào canh giữ hai quần đảo
chiến lược này. Đến thời kỳ Pháp
Thuộc, người Pháp tiếp tục kiểm sóat
trục lộ giao thông này. Ngày
7.9.1951, tại hội nghị San Francisco Hoa Kỳ trước
sự hiện diện của phái đoàn gồm 51
quốc gia tham dự, Thủ tướng kiêm Ngoại
trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ
Bảo Đại đă long trọng tuyên bố: “Chúng
tôi xác nhận chủ quyền đă có từ lâu
đời của chúng tôi trên quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa”. Trước
năm 1975, Việt Nam Cộng Ḥa là quốc gia nhỏ
đang chiến tranh, v́ vậy miền Nam phải
phụ thuộc vào chiến lược của Hoa
Kỳ. Năm 1972, họ thay đổi chiến lược
bắt tay với Tàu. Năm 1973, họ kư Hiệp
Định Đ́nh Chiến Ba Lê, rút quân khỏi
miền Nam, cắt giảm viện trợ và gián
tiếp bàn giao miền Nam cho Khối Cộng sản. Trong
thế nước nhỏ đang chiến tranh, khi quân
Tàu xâm chiếm Ḥang Sa, các binh sỹ Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa đă nổ súng chiến đấu
nhằm xác định chủ quyền của Việt
Nam Cộng Ḥa trên những phần đất này. Khi
trận Hải chiến Hoàng Sa c̣n đang diễn ra,
ngày 19-1-1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Ḥa
đă ra tuyên cáo lên án Trung Cộng xâm lược và
khẳng định chủ quyền trên quần đảo
này: “… Các hành động quân sự của Trung
Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lănh
thổ Việt Nam Cộng Ḥa, và một lần
nữa vạch trần chánh sách bành trướng
đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi,...” Tuyên
Cáo đưa ra nhận định:“Việc Trung
Cộng ngày nay xâm phạm lănh thổ Việt Nam
Cộng Ḥa không những chỉ đe dọa chủ
quyền và an ninh của Việt Nam Cộng Ḥa, mà c̣n
là một hiểm họa đối với nền ḥa
b́nh và ổn cố của Đông Nam Á và toàn
thế giới.” Nhận định này ngày nay
đă trở thành sự thực. Chiến
Lược Biển của Trung Cộng Ba
thập niên vừa qua, Trung cộng áp dụng mô h́nh
phát triển kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên
và lực lượng lao động rẻ, sản
xuất các mặt hàng giản đơn phục
vụ xuất khẩu. Nền kinh tế từ đó
bị lệ thuộc vào thị trường xuất
khẩu hàng hóa sang Âu Mỹ và nhập khẩu nguyên
nhiên vật liệu từ khắp nơi trên thế
giới. Hải
tŕnh xuyên qua Biển Đông trở thành con đường
xuất nhập chủ yếu. Ước tính có trên
80 phần trăm số hàng hóa xuất nhập đều
đi qua tuyến đường này. Chính v́ thế
họ càng ngày càng lộ rơ tham vọng chiếm đóng
biển Đông. Năm
1988 và 1989, khi Liên Sô sửa sọan rời khỏi
Đông Dương, họ đă tấn công và
chiếm đóng một số nơi trên quần đảo
Trường Sa của Việt Nam. Năm
1995, khi Hoa Kỳ rút khỏi những căn cứ
tại Phi Luật Tân, Trung cộng bắt đầu
sử dụng quân sự tranh chấp băi cạn
Scarborough phía Tây Bắc nước này. Tháng
11-2003, Hồ Cẩm Đào lên tiếng cảnh cáo mưu
đồ của những cường quốc nhằm
kiểm soát và phong tỏa quyền đi lại
của tàu bè Trung cộng qua lại eo biển Malacca
nối liền Ấn Độ Dương và Biển
Đông. Hồ tuyên bố chủ quyền và
“lợi ích cốt lơi” Trung cộng tại Biển
Đông, và đưa ra bản đồ có h́nh
chữ U xác định biên giới bao gồm tới
80 phần trăm Biển Đông. Gần 2000 cây
số bờ biển Việt Nam bị nó che phủ và
chữ U kéo dài xuống tận Nam Dương, Mă Lai.. Với
lập luận: “Trung Quốc có chủ quyền không
thể tranh căi với các đảo ở Biển
Đông và vùng nước xung quanh, và được
hưởng chủ quyền, quyền tài phán với các
vùng nước liên quan cũng như đáy biển
của nó”, họ tự cho phép quyền bảo
vệ an ninh quốc gia trên Biển Đông, quyền
kiểm soát và khai thác tài nguyên tự nhiên gồm
nguồn lợi thủy sản, dầu, khí và khoáng
sản ở trên hoặc nằm dưới đáy
biển. Họ
tuyên bố có “toàn quyền” trên các quần đảo
Ḥang Sa và Trường Sa, và thành lập Thành phố
Tam Sa làm trung tâm kiểm sóat biển Đông. Họ
tự đóng tiềm thủy đỉnh nguyên
tử, tầu đổ quân, xây dựng hàng không
mẫu hạm, thử nghiệm phản lực cơ tàng
h́nh, cũng như cho xây dựng phi trường quân
sự trên quần đảo Ḥang Sa và Trường
Sa. Từng
bước Trung cộng biến khu vực Biển
Đông thành một khu vực do họ chiếm đóng.
Họ cắt dây cáp và gây hấn với các tàu thăm
ḍ dầu khí trên thềm lục địa Việt
Nam. Ngày 22/7/2011, trong khi chiến hạm ISN Airavat
của Ấn Độ đang trên đường vào
cảng Hải Pḥng chỉ cách bờ biển
Việt Nam 45 hải lý (83km) th́ bị cảnh cáo
là “vi phạm hải phận Trung Quốc”. Họ
cho Tàu chiến xâm phạm hải phận các quốc
gia trong vùng. Họ cấm ngư dân đánh cá,
bắn vào tàu đánh cá và bắt bớ ngư
phủ Phi Luật Tân và Việt Nam. Và đặc
biệt họ cho sử dụng hằng chục ngàn các
đ̣an tàu đánh cá dàn trải khắp biển
Đông như một cách tuyên bố chủ quyền. Sửa
Sọan Chiến Tranh Ngay
sau khi nắm quyền vào tháng 11-2012 Tập Cận B́nh
cho tăng cường quốc pḥng sửa sọan
đương đầu với Hoa Kỳ và các nước
Đồng Minh. Hội nghị Trung ương tháng
11-2013 quyết định thành lập Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia do Tập Cận B́nh làm chủ
tịch. Hội Đồng này bao gồm tất
cả các lực lượng vũ trang và tuyên
truyền nhằm tham mưu cho đảng Cộng
sản sửa sọan chiến tranh. Một
số nguồn tin cho biết Bộ Quốc pḥng Trung
cộng đang thiết lập một cơ cấu
chỉ huy tác chiến tổng hợp sẵn sàng đáp
ứng khi có chiến tranh. Họ xây dựng các kho vũ
khí công nghệ cao, vũ khí hạt nhân, tầu đổ
bộ, ưu tiên cho chiến tranh di động
tổng hợp và tác chiến tấn công trên biển
và trên không. Ngày
23-11-2013, Trung cộng ra thông báo thiết lập
một vùng nhận dạng pḥng không trên biển Hoa
Đông ở khu vực quần đảo Senkaku mà
Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Khu vực này
thuộc Nhật Bản. Thông báo này ngay lập
tức đă bị Nhật bản, Hoa Kỳ, Hàn
Quốc và Phi Luật Tân lên tiếng phản đối.
Cùng
lúc Trung cộng đơn phương quy định
tàu cá và tàu khảo sát nước
ngoài khi đi vào vùng biển do tỉnh
Hải Nam quản lý đều phải xin
phép. Khu vực này bao gồm Ḥang Sa và Trường
sa với diện tích lên đến 2 triệu cây
số vuông, với nhiều tuyến đường
hàng hải, với nguồn hải sản nuôi
sống hằng triệu cư dân và một nguồn
trữ lượng dầu khí vô cùng to lớn. Đây
là một thách thức cho ṭan thế giới v́ quy
định này đă vi phạm quyền tự do và
luật quốc tế về biển. Việt Nam, Phi
Luật Tân, Nhật bản và Hoa Kỳ đă lên
tiếng phản đối quy định này. Cũng
cần nhắc Phi Luật Tân đă chính thức
thách thức tuyên bố chủ quyền
của Trung cộng bằng cách kiện ra
tòa án quốc tế. Hôm
nay 16-01-2014, Trung cộng xác nhận đă cho bay
thử thành công thiết bị mang hỏa tiễn siêu
tốc với đầu đạn hạt nhân có
khả năng xuyên thủng mọi hệ thống pḥng
thủ hiện thời. Như vậy họ là
quốc gia thứ hai chỉ sau Hoa Kỳ đă thử
nghiệm thành công lọai vũ khí siêu tốc. Trên lư
thuyết lọai vũ khí này nếu được
mang ra sử dụng có thể chỉ mất 45 phút bay
từ Bắc Kinh tới thủ đô Washington. Đồng
thời, Hải Quân Trung cộng không chỉ giới
hạn tầm họat động trong ṿng Biển
Đông, càng ngày họ càng gia tăng xuất hiện
tại Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương.
Cách hành xử thô bạo và bành trướng cả
quân sự lẫn khu vực chiếm đóng của
Trung cộng đang gây quan tâm đến an ninh và
nền ḥa b́nh thế giới. Chiến
Lược Biển của Hoa Kỳ. Từ
thời lập quốc Hoa Kỳ vẫn chủ trương
tự do thương măi và tự do hàng hải. Để
bảo vệ quyền lợi và mở rộng tầm
ảnh hưởng hàng hải, Hoa kỳ cho xây
dựng một lực lượng Hải Quân mạnh
nhất thế giới về cả lượng
lẫn phẩm. Khả
năng của Hải Quân Hoa Kỳ hơn khả năng
Hải Quân của tất cả các quốc gia Âu Châu
cộng lại và vượt xa khả năng của
Hải Quân Trung cộng. Hải quân Hoa kỳ không
chỉ có khả năng chiến đấu trên
biển c̣n khả năng và nhiều kinh nghiệm
tấn công từ biển vào lục địa. Hoa
Kỳ có tất cả 11 Hạm Đội với hàng
không mẫu hạm. Đệ Tam và Đệ Thất
Hạm Đội họat động trong khu vực Thái
B́nh Dương. Đệ Thất Hạm Đội c̣n
được gọi là Hạm Đội Thái B́nh Dương.
Lẽ đương nhiên Hoa Kỳ không thể để
Trung Cộng gia tăng vi phạm lợi ích quân
sự, kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ
tại biển Đông. Chiến
Lược Quay Lại Á Châu Tháng
2/2009, trong chuyến công du châu Á Ngọai trưởng
Hoa Kỳ Hillary Clinton nhấn mạnh lợi ích Hoa
Kỳ đối với tự do hàng hải và đến
việc mọi quốc gia cần tôn trọng luật
biển quốc tế. Bà cho biết chính phủ Hoa
Kỳ sẵn sàng hợp tác với các quốc gia
Đông Nam Châu Á để thuyết phục Trung
cộng theo đường lối đa phương và
ḥa b́nh trong tranh chấp tại Biển Đông. Như
thế các quốc gia trong vùng sẽ tạo được
tiếng nói chung đối thọai trong ḥa b́nh
với Trung cộng. Ngày
24-10-2010 tại Hội nghị Diễn đàn Khu
vực Đông Nam Châu Á ở Hà Nội, Ngoại trưởng
Hillary Clinton tái xác định quyền lợi Hoa
Kỳ tại Biển Đông, phủ nhận tuyên
bố chủ quyền của Trung cộng và cho
biết Hoa Kỳ đă chuẩn bị thúc đẩy
các đàm phán đa phương nhằm giải
quyết các tranh chấp chủ quyền các quần
đảo tại Biển Đông. Ngày
22-7-2011, tại Hà Nội Ngoại trưởng Hoa
Kỳ Hillary Clinton kêu gọi các bên tranh chấp ở
Biển Đông đưa ra chứng cớ pháp lư cho
tuyên bố chủ quyền của ḿnh. Bà Clinton cho
rằng những tuyên bố chủ quyền của
Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Châu
Á phải phù hợp với Công ước Liên
hiệp quốc về Luật Biển năm 1982. Bà c̣n
cho biết giải quyết tranh chấp bằng
đường lối ḥa b́nh là phù hợp với
quyền lợi của Hoa Kỳ. Trong
nhiệm kỳ 1 của Tổng Thống Obama, đóng
góp lớn nhất Ngọai trưởng Hillary Clinton là
chiến lược quay lại Á Châu. Một chiến
lược bao gồm cả kinh tế, giáo dục,
ngọai giao, chính trị và quân sự. Sang
đến nhiệm kỳ 2, mặc dầu chính
phủ Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn trong
việc thông qua ngân sách quốc gia, nhưng chiến lược
quay lại Á Châu của Ngọai Trưởng Hillary
Clinton đă được lưỡng đảng Hoa
Kỳ đồng thuận thông qua. Chính
phủ Hoa Kỳ đă cho điều quân khỏi A Phú
Hăn và Iraq, dành ưu tiên cho các họat động quân
sự tại Biển Đông. Họ khuyến khích các
quốc gia trong vùng gia nhập Hiệp Định Xuyên
Thái B́nh Dương (TTP) xây dựng một khu vực
kinh tế tự do bao trùm khu vực Thái B́nh Dương.
Họ cho tăng cường ngọai giao và viện
trợ. Và đặc biệt khuyến khích các
quốc gia giải quyết các tranh chấp bằng phương
cách ḥa b́nh như đàm phán đa phương, qua các
diễn đàn quốc tế hay đưa ra ṭa án
quốc tế phân xử. Chiến
lược của Hoa Kỳ đă và đang bị thách
thức bởi các hành động leo thang bạo
lực của nhà cầm quyền Bắc Kinh, các hành
động dễ dàng dẫn đến chiến tranh. Bắc
Kinh Tứ Bề Thọ Địch Giao
Thương Quốc Tế càng phát triển th́
tuyến đường hàng hải qua Biển Đông
càng trở nên quan trọng cho việc phát triển
kinh tế của các quốc gia có bờ biển
dọc theo biển Đông. Ngọai trừ Việt Nam
và Bắc Hàn, các quốc gia khác đều là các nước
đồng minh với Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia luôn
sát cánh với Hoa Kỳ trong mọi cuộc chiến và
đều có những cam kết quân sự với Hoa
Kỳ. Việc Trung cộng gia tăng quân sự
trực tiếp đe dọa và gây hấn các quốc
gia này chính là trực tiếp đe dọa đến
quyền lợi của Hoa Kỳ. Quan
sát phương cách hành xử hiếu chiến
của Trung cộng, thế giới đang nhận ra
Trung cộng là mối đe dọa cho nền ḥa b́nh
biển Đông và Thế giới. Nhiều quốc gia
trên thế giới t́m cách gia tăng khả năng quân
sự hay t́m cách liên kết với Hoa Kỳ vừa
để bảo vệ chính ḿnh, vừa để cô
lập Trung cộng. Trung
Hoa không phải là một quốc gia thuần nhất.
Nó bao gồm nhiều lănh thổ đang bị
chiếm đóng, người dân các quốc gia Tây
Tạng, Tân Cương, Mông Cổ… đang đứng
lên giành lại độc lập. Người dân các
sắc tộc khác cũng đang đứng lên đ̣i
hỏi một thể chế tự do, dân chủ và công
bằng xă hội. Nh́n chung nhà cầm quyền Bắc
Kinh đang tứ bề thọ địch. Khi
nhà cầm quyền Bắc Kinh gặp khó khăn thay v́
t́m các giải pháp ôn ḥa giải quyết, họ
lại trở nên hung tợn hơn, trở nên
hiếu chiến hơn và dễ dàng trở thành
kẻ khai chiến. Chiến
Tranh! Chiến Tranh! Chiến Tranh! Khi
các giải pháp chính trị, giải pháp ngọai giao
bất thành th́ giải pháp quân sự ắt sẽ
xẩy ra. Trong
một cuộc họp báo ngày 9-1-2014, Phát ngôn
Viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jennifer Psaki cho
biết: "Việc đưa ra các hạn chế
đối với hoạt động ngư nghiệp
của các quốc gia khác tại các khu vực
tranh chấp của Biển Đông là hành
động khiêu khích và có khả năng
nguy hiểm. … tất cả các bên liên quan cần
tránh có các hành động đơn
phương có thể làm gia tăng căng thằng
và cản trở khả năng giải quyết
các khác biệt thông qua con đường
ngoại giao hay bằng các biện pháp
hòa bình khác". Tính
hiếu chiến của Trung cộng đă tăng thêm
mức độ nghiêm trọng: khiêu chiến.
Giữa tháng 12-2013 một tàu chiến Trung cộng
đă tách khỏi nhóm tàu hộ tống hàng không
mẫu hạm Liêu Ninh. Chiếc tàu này cố t́nh
tiến thẳng đến đâm vào tuần dương
hạm Hoa Kỳ USS Cowpens (CG-63). Buộc tuần dương
hạm Hoa Kỳ phải bẻ lái chuyển hướng
nhằm tránh va chạm dễ dàng dẫn đến
chiến tranh. Hành động này đă bị Bộ
trưởng Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ Chuck Hagel cho
là: “nguy cơ đụng độ hoàn toàn có
thể xẩy ra trong vùng Thái B́nh Dương.” Khi
Trung cộng loan báo nới rộng khu vực pḥng không
trong vùng lănh hải đang tranh chấp tại
biển Hoa Đông, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Joe
Biden tuyên bố: “Thay mặt Tổng Thống Hoa
Kỳ, tôi muốn khẳng định rơ ràng
rằng chúng tôi không công nhận khu pḥng không này.
Việc Trung Quốc tuyên bố khu pḥng không sẽ không
mảy may ảnh hưởng đến các hoạt
động của chúng tôi. Chúng tôi cũng nhấn
mạnh rơ ràng rằng Hoa Kỳ trông đợi Trung
Cộng sẽ không có hành động có thể làm tăng
căng thẳng và làm nguy cơ căng thẳng leo
thang.” Trong
phiên điều trần về biển Đông hôm thứ
ba 14-1-2014, các nghị sỹ và dân biểu đă
chính thức lên tiếng Hoa Kỳ nhất định
không để yên nếu Trung Cộng sử
dụng biện pháp áp đặt bằng
sức mạnh để đòi hỏi
chủ quyền trên biển Đông. Trên
là các dấu hiệu gần và rơ nhất chiến
tranh sớm muộn sẽ xảy ra. Chiến tranh
sẽ không trực tiếp xẩy ra trên lănh thổ
Hoa Kỳ. Chiến tranh sẽ giúp Hoa Kỳ xây
dựng lại uy tín và giữ vững danh hiệu cường
quốc số 1 thế giới. Chiến tranh sẽ giúp
Hoa Kỳ bán vũ khí cho các quốc gia trong vùng.
Chiến tranh sẽ giúp nhân dân Hoa Kỳ đ̣an
kết quên đi những khó khăn, những bất
đồng nội trị. Nhà cầm quyền Bắc
Kinh là chủ nợ của Hoa Kỳ, các khỏan
nợ này sẽ được khấu trừ vào
khỏan bồi ḥan chiến phí tương lai. Bắc
Hàn là một quốc gia cộng sản khác. Mới hôm
qua thứ Tư 15-1-2014, phát ngôn viên Bắc Hàn
cảnh cáo bất kỳ cuộc tập trận quân
sự Hoa Kỳ và Nam Hàn có thể sẽ dẫn đến
chiến tranh hạt nhân gây thiên tai và thảm họa
ngoài sức tưởng tượng. Như
vậy chiến tranh trong vùng cũng sẽ là cơ
hội để Hoa Kỳ xóa bỏ các thể
chế cộng sản cuối cùng. Đây chính là
điều quan trọng nhất để Hoa Kỳ
thực hiện chiến lược ṭan cầu mà
họ luôn đeo đuổi: mang tự do dân chủ
đến cho mọi người trên khắp thế
giới. Nh́n
chung v́ lợi ích ngắn hạn và dài hạn Hoa
Kỳ sẽ không gây chiến, nhưng sẽ chủ
động trong chiến tranh. Thái độ nhường
nhịn của Hoa Kỳ hiện này là để
được chính danh và được sự
ủng hộ của các cường quốc Tây phương. “Việt
Nam không hai ḷng với Trung Quốc.” Trở
lại Việt Nam, ngày 17/12/2013 vừa qua, báo chí trong
nước loan tin ông Nguyễn Văn Thơ, đại
sứ Việt Nam tại Trung Cộng, khi về nước
tham dự Hội nghị Ngọai Giao, đă tuyên
bố: “Việt Nam không hai ḷng với Trung
Quốc.” Một tuyên bố đă nói lên thực
trạng Việt Nam. Gần
đây, Hà Nội có 1 số phản ứng với
Trung cộng là v́ nguồn dầu thô hằng năm
mang về hằng chục tỷ Mỹ Kim đă
bị Trung cộng ngăn chận khai thác. Thiếu
ngọai tệ thâu được từ dầu thô là
thiếu tiền nuôi dưỡng các bộ máy“Đảng”,
bộ máy nhà nước, bộ máy công an,… Trên
thực tế đảng Cộng sản Việt Nam luôn
lệ thuộc vào tư tưởng, vào chính trị,
vào kinh tế Trung cộng, bởi thế họ khó có
thể thay ḷng đổi dạ. Chả thế bà con
ta mới có câu :”theo Tàu mất nước, theo
Mỹ mất đảng”. Thật
vậy, họ đă công khai cho phép quân đội, công
an Tầu lập đồn xây lũy khắp nơi,
ngày 20-12-2013, Đài Á Châu Tự Do phải lên
tiếng báo động: “…ngay trên hai con đường
có tên Hoàng Sa và Trường Sa chạy dọc theo
bờ biển Đà Nẵng, các biệt khu của người
Tàu cùng với hàng trăm quán sá mang biển hiệu
Tàu mọc lên dày đặc.” Mặc
cho Trung cộng đơn phương ra lệnh
cấm đánh cá trên biển Đông, ảnh hưởng
đến đời sống của hằng triệu
người sống ven biển. Mặc cho hải quân
Tầu bắn giết, bắt bớ ngư dân
Việt Nam. Nhà cầm quyền cộng sản chỉ
lên tiếng cho có, chưa bao giờ có phản ứng
để bảo vệ ngư dân. Họ đă để
mất nhiều cơ hội Quốc tế hoá
Biển Đông và t́nh trạng Việt Nam mất
Biển Đông càng ngày trở nên trầm trọng hơn.
Việt
Nam vẫn là một quốc gia cộng sản và
vẫn là một mối đe doạ cho nền hoà b́nh
thế giới. Các tài liệu công khai và chính
thức của đảng Cộng sản Việt Nam
luôn một cách vu vơ coi các quốc gia cổ vũ
tự do là các thế lực thù địch và ngược
lại Trung cộng là nước đồng chí anh
em. Khi
chưa có một Hiến Pháp Tự Do, một Quốc
Hội Độc Lập, chưa có tự do bầu
cử, chưa có người cầm quyền chính
danh, th́ Trung cộng vẫn đứng trong hậu trường
thu xếp lèo lái giới cầm quyền cộng
sản Việt Nam, để giới này thực thi
chiến lược bành trướng và bá quyền
cho Trung Cộng. Trong
t́nh h́nh hiện nay nếu chiến tranh xẩy đến
đảng Cộng sản sẽ đứng về phía
Trung cộng. Họ không đứng về phía Hoa
Kỳ, Đồng Minh và dân tộc Việt, v́
nếu thế họ sẽ phải thực tâm tôn
trọng nhân quyền, thực thi dân chủ và trao
trả các quyền tự quyết cho dân tộc.
Một chính phủ muốn được sự
ủng hộ và trở thành Đồng Minh với Hoa
Kỳ th́ chính phủ đó cần chính danh qua các
cuộc bầu cử tự do. Ngược
lại, đại đa số dân Việt đang
vận động để Việt Nam thoát khỏi
kiếp chư hầu Trung cộng. Giới luật gia
trí thức vận động quốc tế hóa
Biển Đông. Giới báo chí mang thông tin, tạo
quan tâm đến quần chúng đồng bào.
Giới quân đội đ̣i chuyên môn hóa, hiện
đại hoá quân đội, để giữ nước,
để bảo vệ ngư dân không bị quân
đội Trung cộng áp bức. Giới trí thức,
sinh viên thanh niên, xuống đường đ̣i
trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam. Phong
Trào đấu tranh giữ nước đă liên
kết với Phong Trào đấu tranh chính trị
đ̣i tự do dân chủ. Nếu có chiến tranh chính
nghĩa dân tộc sẽ là vũ khí sắc bén
nhất cho những người đấu tranh vận
động ṭan dân đứng lên vừa giữ nước,
vừa giành lại tự do dân chủ cho dân tộc
Việt Nam. Chiến
tranh sẽ kết thúc. Lực lượng Đồng
Minh sẽ chiếm Ḥang Sa và Trường Sa. Và theo
luật quốc tế sẽ trao trả cho chính
phủ tự do đại diện cho ṭan dân. Không
ai muốn chiến tranh. Nhưng rơ ràng chiến tranh
vừa là một thách thức vừa là một cơ
hội để Việt Nam giành lại lănh thổ
đă bị hai đảng Cộng sản Việt Tàu
sử dụng quân sự chiếm đóng. Thách
thức của các lực lượng đấu tranh
dân chủ là làm sao chúng ta có thể thực hiện
được cả hai mục tiêu trong điều
kiện và t́nh h́nh chuyển biến của đất
nước và quốc tế. Muốn
thực hiện được cả hai mục tiêu chúng
ta phải chủ động liên kết hành động.
Năm 2014 là năm của hành động. Nguyễn
Quang Duy Melbourne,
Úc Đại Lợi 16/1/2014
|