CHÍNH
NGHĨA TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG |
Muốn xâydựng
Đệ Tam Cộng Ḥa Việt Nam Dân Chủ Pháp
Trị, chúng ta phải tuyên dương, phổ
biến và thực thi nhân quyền và những
quyền tự do dân chủ của người dân. Bài thuyết tŕnh
gồm 2 đề mục: 1.
Công bố
bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Việt Nam. 2.
B́nh
giải và khai triền Luật Quốc Tế Nhân
Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành. I.
TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAM Năm 1986, khi nhận Giải Nobel Ḥa B́nh, nhà văn
Elie Wiesel đă minh thị cam kết: “Tôi thề
sẽ không bao giờ im tiếng nếu ở đâu và
khi nào con người c̣n bị đau khổ và đầy
đọa. Chúng ta phải nhập cuộc. Trung
lập chỉ có lợi cho kẻ đàn áp. Im
lặng là khuyến khích kẻ áp bức. Do đó chúng
ta phải can thiệp. Khi đời sống con người
bị đe dọa, phẩm giá con người bị
chà đạp, các biên thùy quốc gia không c̣n quan
trọng nữa. Nơi nào con người bị hành
hạ v́ lư do tôn giáo, chính trị hay chủng
tộc, nơi đó lập tức trở thành trung tâm
của vũ trụ.” Từ 4 thập niên Việt Nam là địa bàn
hoạt động mà cũng là môi trường sinh
động của những cuộc tranh luận và lên
tiếng về nhân quyền. Ở đây nhân phẩm
bị chà đạp, đời sống của người
dân bị đe dọa, con người bị đàn
áp v́ lư do tôn giáo, chính trị hay thành phần xă
hội. Đặc
biệt là, sau cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại
Đông Âu và Liên Xô, từ năm 1991 có hàng trăm tù
nhân chính trị và tù nhân tôn giáo đă bị
bắt giữ, truy tố và kết án về những
tội danh giả tạo lố bịch như phá
hoại chính sách đoàn kết quốc gia, tuyên
truyền chống nhà nước, lợi dụng
quyền tự do dân chủ v...v... Không tháng nào không
thấy những vụ đàn áp khủng bố, hăm
dọa sách nhiễu, điều tra giam giữ hay
kết án oan ức các công dân lương thiện có
ḷng với đất nước và có dũng cảm
đứng lên đ̣i Tự Do, Công Lư, Dân Chủ và
Nhân Quyền. Để
phản ứng lại, các Chính Phủ và Quốc
Hội các nước dân chủ tiên tiến, Các
Hội Bảo Vệ Nhân Quyền trên thế giới,
các Nghiệp Đoàn Kư Giả Không Biên Cương và
các Tổ Chức Văn Bút Quốc Tế đồng
thanh phản kháng và đ̣i nhà cầm quyền
phải tôn trọng nhân quyền bằng cách trả
tự do cho các tù nhân lương tâm. Nếu
nhân quyền có tính toàn cầu, bất khả phân, liên
lập và liên quan với nhau th́ sự can thiệp và
nhập cuộc của nhân loại văn minh cũng có
tính toàn cầu, thường xuyên, tức thời và
đồng bộ. Ngày
nay, theo quan niệm nhà văn Elie Wiesel, Việt Nam đă
làm thức tỉnh lương tâm nhân loại và
trở thành trung tâm của vũ trụ. Tŕnh
bầy về những vấn đề nhân quyền
tại Việt Nam nhằm đề xướng, phát
huy, tôn trọng và thực thi quyền con người
tại Việt Nam. Đồng thời để góp
phần vào việc t́m kiếm các phương
thức nhằm loại trừ hữu hiệu
những vi phạm nhân quyền trên thế giới.
Đây là một công tŕnh nặng về t́nh tự dân
tộc và t́nh thương nhân loại. Trong
chiều hướng đó, soạn thảo và công
bốTuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Việt Nam không
phải chỉ để dành riêng cho người
Việt, mà c̣n để thúc đẩy các dân
tộc và các quốc gia đang trên đường phát
triển tại Á Phi và Châu Mỹ La Tinh hội
nhập vào trào lưu dân chủ hóa và toàn cầu hóa. Có
như vậy nhân quyền mới được
thực sự tôn trọng và thực thi đem lại
tự do hạnh phúc cho con người, ḥa giải thân
thiện cho các quốc gia, thông cảm bao dung cho các dân
tộc, tiến tới một Thế Giới Đại
Ḥa trong tinh thần b́nh đẳng, hợp tác và
hữu nghị. Đây là giấc mơ ngàn đời
của nhân loại theo đó người trong bốn
biển đều là anh chị em. Muốn xây dựng tự do dân chủ cho
Việt Nam đường lối hữu hiệu
nhất là đấu tranh cho nhân quyền. V́ nhân
quyền là mục tiêu chung của những người
Việt Nam yêu nước, là mẫu số chung để
kết hợp ḷng người. Mặt Trận Nhân Quyền chủ trương
truyền bá nhân quyền, đấu tranh đ̣i
thực thi nhân quyền và phản kháng những vi
phạm nhân quyền. Muốn phát động phong trào
phải nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí đồng
thời phát động Phong Trào Truyền Bá Nhân
Quyền để phổ biến những kiến
thức nhân quyền cho quảng đại quần chúng
nhất là giới học sinh sinh viên là những người
thiết tha với tiền đồ dân tộc. Có
kiến thức nhân quyền người dân sẽ có
ư thức nhân quyền. Có ư thức nhân quyền người
dân sẽ biết rơ họ có quyền đ̣i nhà nước
thực thi những quyền ǵ, và những quyền này
đă bị tước đoạt ra sao? Từ đó
họ sẽ công phẫn và cảm thấy tủi
hổ phải sống dưới một chế độ
phi nhân, độc tài, tham nhũng, bất công và
bất lực. Từ chỗ phẫn tâm đó mới
nẩy ra ư chí đấu tranh. Nhân Quyền Từ Đâu Mà Có? Từ khi con người biết sống hợp
quần trong xă hội để thành lập quốc
gia, giữa người dân và quốc gia có những
nghĩa vụ hỗ tương phát sinh từ một
khế ước mặc nhiên mệnh danh là Khế
Ước Xă Hội. Chiếu khế ước này người
dân có nghĩa vụ phải đóng thuế để
nuôi dưỡng quốc gia, phải đi lính để
bảo vệ bờ cơi của quốc gia. Chiếu
nguyên tắc quân b́nh giữa quyền lợi và nghĩa
vụ, để đáp lại những hy sinh về
sinh mạng và tài sản của người dân,
quốc gia cũng có nghĩa vụ phải bảo
đảm cho người dân những quyền căn
bản như quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những dân
quyền xuất phát từ tư cách công dân. Nhân quyền
bao quát hơn và có trước dân quyền. Nhân
quyền áp dụng cho tất cả mọi người,
từ đứa trẻ hài nhi đến các trú dân.
Nhân quyền xuất phát từ nhân phẩm, từ giá
trị bẩm sinh của con người. Đây là
những quyền của con người (human rights) như
những quyền dân sự chính trị, mà cũng là
những nhu cầu của con người (human needs) như
những quyền kinh tế xă hội và văn hóa giáo
dục. Những quyền này xuất phát từ tư
cách con người và tư cách công dân. Theo quan điểm của các nhà lập
quốc Hoa Kỳ những vấn đề kinh tế
xă hội chỉ có thể được giải
quyết thỏa đáng trong chế độ tự
do kinh doanh, tự do cạnh tranh với sự trọng
tài của một chính quyền dân chủ do người
dân tự do bầu lên. V́ nếu không có một chính
phủ dân chủ th́ những lợi ích kinh tế
đạt được rồi cũng sẽ bị
phe cầm quyền tước đoạt bằng tham
nhũng và lạm quyền. Từ thế kỷ 13 Anh Quốc ban hành Đại
Hiến Chương (Magna Carta), đề xướng
và bảo vệ quyền tự do nhân thân của
người dân, không bị bắt bớ, giam giữ,
lưu đầy hay hành quyết nếu không có
bản án hợp pháp của hội thẩm đoàn nhân
dân xác nhận tội trạng chiếu theo luật pháp
quốc gia. Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ (1776) nh́n nhận quyền b́nh đẳng
của con người là một chân lư hiển nhiên,
và đề xướng những nhân quyền căn
bản như quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên “khi
chính quyền vi phạm thô bạo nhân quyền, người
dân có quyền lật đổ chính quyền để
thiết lập một chính quyền mới đặt
căn bản trên những nguyên tắc và thể
chế thuận lợi nhất cho việc bảo đảm
an ninh và hạnh phúc của con người. Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp
(1789) nêu lên 3 mục tiêu tự do, b́nh đẳng, bác
ái, quan niệm nhân quyền là những quyền
tự nhiên, thiêng liêng, bất khả chuyển nhượng.
Tuyên Ngôn cảnh giác rằng: “Sự phủ
nhận, khinh miệt hay lăng quên nhân quyền là
những nguyên nhân đem lại đại bất
hạnh cho người dân và sa đọa cho chính
quyền. Mục đích của mọi tập
hợp chính trị là để bảo toàn những
quyền tự nhiên và bất khả chuyển nhượng
của con người như quyền tự do,
quyền tư hữu, quyền an ninh và quyền đối
kháng bạo quyền”. Từ
thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên
một số Nho Gia tiến bộ cũng chủ trương
người dân có quyền đứng lên lật
đổ bạo quyền: “Giết vua tàn bạo cũng
như giết kẻ độc phu” (Tuân Tử); “Ta
chỉ nghe nói giết tên Trụ chứ không nghe nói
giết vua” (Mạnh Tử). Đó là quan niệm quư
dân khinh vua (dân vi quư, quân vi khinh) mở đường
cho chế độ dân chủ với một “chính
quyền bởi dân, của dân và v́ dân” (Abraham
Lincoln). Chiếu Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc các quốc gia hội viên cam kết cộng tác
với Liên Hiệp Quốc trong việc tôn trọng
và thực thi nhân quyền trên toàn cầu. V́ nhân quyền có tính toàn cầu, bất
khả phân, liên lập và liên quan với nhau, quốc
gia có trách nhiệm tiên khởi phải thực thi
đầy đủ nhân quyền và những quyền
tự do căn bản cho tất cả mọi người,
không phân biệt chủng tộc, mầu da, nam nữ,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc
quốc gia, thành phần xă hội, tài sản, ḍng dơi,
hay bất cứ thân trạng nào khác. Với Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc, vấn đề
nhân quyền đă được quốc tế hóa.
Từ nay các quốc gia hội viên Liên Hiệp
Quốc không thể chủ trương rằng
việc họ thủ tiêu, tàn sát hay đàn áp các công
dân của họ chỉ là vấn đề nội
bộ! Để kỷ niệm ngày ban hành Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền, ngày 10 tháng 12 mỗi năm
được gọi là Ngày Quốc Tế Nhân
Quyền. Năm 1994, Lưỡng Viện Quốc Hội
Hoa Kỳ thông qua Nghị Quyết Chung lấy ngày 11 tháng
5 mỗi năm là Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam.
Nghị Quyết này đă được Tổng
Thống Hoa Kỳ phê chuẩn và ban hành để
trở thành Luật Công Pháp ngày 25-5-1994 (số 103.
258), với nội dung chủ yếu như sau: “Quốc Hội Hoa Kỳ yêu cầu Chính
Phủ Hà Nội: a.
Phóng thích
tất cả các tù nhân chính trị. b.
Bảo
đảm cho nhân dân Việt Nam quyền b́nh đẳng
trước pháp luật, không phân biệt tín ngưỡng,
chính kiến, hay đoàn thể trong quá khứ. c.
Phục
hồi các nhân quyền căn bản như tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do di
chuyển và tự do lập hội. d.
Băi bỏ
chế độ độc đảng. e.
Công bố
một phương án và lịch tŕnh tổ chức
tổng tuyển cử tự do và công bằng dưới
sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để nhân
dân Việt Nam được hành sử quyền dân
tộc tự quyết”. Lập trường chung thủy của nhân dân
và Quốc Hội Hoa Kỳ gây cảm hứng cho nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh đ̣i
Tự Do, Công Lư, Dân Chủ và Nhân Quyền. II.
LUẬT QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN Nhân quyền và những quyền tự do căn
bản được quy định thành văn trong
Luật Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp
Quốc ban hành sau Thế Chiến II. Mục đích
để đề cao nhân phẩm, đem lại
tự do hạnh phúc cho con người, ḥa giải thân
thiện cho các quốc gia, thông cảm bao dung cho các dân
tộc, tiến tới một Thế Giới Đại
Ḥa trong tinh thần b́nh đẳng, hợp tác và
hữu nghị. Luật Quốc Tế Nhân Quyền bao gồm
những điều khoản nhân quyền trong Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc (1945), Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền (1948) và Phụ Đính Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1998), Công Ước
Quốc Tế về những Quyền Dân Sự và Chính
Trị (1966) và Công Ước Quốc Tế về
những Quyền Kinh Tế Xă Hội và Văn Hóa
(1966). Ngoài ra c̣n có khoảng 50 công ước bổ túc
và khai triển như Công Ước Chống Diệt
Chủng, Công Ước về Quy Chế Tỵ
Nạn , Công Ước Chống Kỳ Thị
Chủng Tộc, Công Ước Chống Kỳ Thị
Phụ Nữ, Công Ước Chống Tra Tấn Hành
Hạ, Công Ước về Quyền của Thiếu
Nhi v...v... Năm 1976, với sự phê chuẩn 2 Công Ước
Quốc Tế về những Quyền Dân Sự Chính
Trị và về Những Quyền Kinh Tế Xă Hội
Văn Hóa, Liên Hiệp Quốc ban hành Luật Quốc
Tế Nhân Quyền (International Bill of Human Rights). Luật Quốc Tế Nhân Quyền là văn
kiện pháp lư quan trọng nhất trong thời đại
chúng ta. Hai Công Ước Quốc Tế Nhân Quyền
là hai hiệp ước quốc tế quan trọng
nhất trong lịch sử loài người. Bước sang kỷ nguyên mới, chúng ta
kỳ vọng rằng, rồi đây bạo lực
sẽ nhường chỗ cho thuyết phục,
chiến trường sẽ nhường chỗ cho
hội trường và chiến tranh thế giới
sẽ bị thay thế bởi luật pháp quốc
tế. Luật Quốc Tế Nhân Quyền đề xướng
Quyền Dân Tộc Tự Quyết và 26 Nhân Quyền căn
bản. A.
QUYỀN DÂN TỘC TỰ QUYẾT Quyền thiết yếu trong chế độ dân
chủ là quyền dân tộc tự quyết. Về
mặt quốc nội,
dân tộc tự quyết là quyền của người
dân được tự do lựa chọn chế
độ của quốc gia như Quân Chủ Lập
Hiến (Anh, Nhật, Thái Lan ...), Cộng Ḥa Dân
Chủ (Hoa Kỳ, Pháp, Ấn Độ ...) hay Dân
Chủ Xă Hội (Thụy Điển, Na Uy, Đan
Mạch, Canada, Úc, Tân Tây Lan ...). Chế độ
Cộng Sản mệnh danh là Xă Hội Chủ Nghĩa
Mác-Lê Nin không do nhân dân lựa chọn mà do Đảng
Cộng Sản áp đặt sau khi cướp
được chính quyền bằng bạo lực.
Đây hiển nhiên là sự vi phạm quyền dân
tộc tự quyết. Về mặt quốc tế dân tộc tự quyết là quyền của các
quốc gia được có chủ quyền độc
lập và quy chế b́nh đẳng trong cộng đồng
thế giới. Muốn xây dựng Thế Giới
Đại Ḥa trên căn bản b́nh đẳng,
hợp tác và hữu nghị các cường quốc
phải thực thi quyền dân tộc tự quyết. Điều
Thứ Nhất của hai Công Ước Quốc
Tế về những Quyền Dân Sự Chính Trị và
về những Quyền Kinh Tế Xă Hội Văn Hóa
khuyến cáo các đế quốc có trách nhiệm cai
trị, bảo hộ hay giám hộ các quốc gia khác
phải thực thi quyền dân tộc tự quyết
chiếu Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng
kêu gọi các quốc gia hội viên hợp tác
nhằm loại trừ những vi phạm quyền
tự quyết của các dân tộc do chế độ
bá quyền, cũng như vi phạm sự toàn vẹn
lănh thổ và quyền của các dân tộc được
hưởng dụng các tài nguyên và nguồn lợi
thiên nhiên của đất nước do sự cưỡng
chiếm lănh thổ, các hải đảo và hải
phận. Sau Thế Chiến 1, năm 1919 tại Hội
Quốc Liên (League of Nations), tổ chức tiền
thân của Liên Hiệp Quốc, Tổng Thống Hoa
Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền dân
tộc tự quyết, khuyến cáo các đế
quốc Tây Phương từng bước trả
tự trị và độc lập cho các thuộc
địa Á Phi. Hưởng ứng đề nghị
này Anh Quốc trả độc lập cho Canada
tại Mỹ Châu và A Phú Hăn tại Á Châu. Cũng trong năm này tại Paris Luật Sư
Phan Văn Trường, Chủ Tịch Hội
Những Người Việt Nam Yêu Nước hướng
dẫn một phái bộ đến yết kiến
Tổng Thống Wilson để đệ tŕnh Thỉnh
Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam, trong
đó có đoạn như sau: “Từ
sau chiến thắng của Đồng Minh kỷ nguyên
của Luật Pháp và Công Lư sẽ khai mở do
sự thừa nhận Quyền Dân Tộc Tự
Quyết, đem lại hy vọng cho các dân tộc
bị trị. Trong khi chờ đợi sự thực
thi quyền dân tộc tự quyết, dân tộc
Việt Nam xin đệ tŕnh các Chính Phủ Đồng
Minh những thỉnh nguyện khiêm tốn như sau: 1.
Ban hành
đại xá cho các chính trị phạm Việt Nam. 2.
Ban hành
quyền b́nh đẳng trước pháp luật, băi
bỏ hệ thống ṭa án đặc biệt. 3.
Ban
hành tự do báo chí và tự do ngôn luận. 4.
Ban
hành tự do lập hội và tự do hội họp. 5.
Ban
hành tự do di trú và tự do xuất ngoại. 6.
Ban
hành tự do giáo dục. 7.
Thiết
lập chế độ pháp trị. 8.
Thành
lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử
Việt Nam cạnh Quốc Hội Pháp để đạo
đạt những thỉnh nguyện của quốc dân
Việt Nam tới Quốc Hội Pháp”... Khi Thế Chiến 2 c̣n
đang tiếp diễn, Hoa Kỳ và Đồng Minh công
bố Hiến Chương Đại Tây Dương
(1941) cam kết sẽ thực thi quyền dân tộc
tự quyết và trả độc lập cho các
thuộc địa khi chiến tranh kết thúc. Mùa Xuân 1945, 50 quốc gia
Đồng Minh họp Hội Nghị San Francisco để
thành lập Liên Hiệp Quốc. Điều
Thứ Nhất Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc đề xướng quyền dân tộc
tự quyết, chủ trương tôn trọng
chủ quyền độc lập của các quốc
gia, chấm dứt chế độ thuộc địa.
Chấp hành những cam kết ghi trong
Hiến Chương Đại Tây Dương (1941), và
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (1945),
trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, tất
cả các đế quốc Tây Phương như Anh,
Pháp, Mỹ, Ḥa Lan đă lần lượt tự
giải thể để trả độc lập cho
12 thuộc địa Á Châu chiếu nguyên tắc dân
tộc tự quyết: ·
5 nước thuộc Anh là
Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện,
Tích Lan và Palestine. ·
5 nước thuộc Pháp là
Syrie, Liban, Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao. ·
Cùng với Phi Luật Tân
thuộc Hoa Kỳ, và Nam Dương thuộc Ḥa Lan. Năm 1947 Anh Quốc
trả độc lập cho Ấn Độ, Đại
Hồi và đăng kư hai quốc gia này là những nước
độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Cũng
trong năm này, Cao Ủy Pháp tại Đông Dương
và Quốc Trưởng Bảo Đại kư Hiệp
Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long theo đó Pháp
cam kết thừa nhận chủ quyền độc
lập của Việt Nam sau những cuộc thương
thuyết chính thức. Năm 1947 Pháp đă
đăng kư Việt Nam là quốc gia độc
lập tại Liên Hiệp Quốc (Everyone’s United
Nations trang 332, ấn bản 1986). Và
ngày 8-3-1949 tại Điện Elysée Paris, Tổng
Thống Pháp Vincent Auriol kư với Quốc Trưởng
Bảo Đại Hiệp Định Elysée để
trả độc lập cho Việt Nam. Qua tháng
sau, ngày 23-4-1949, chiếu nguyên tắc dân tộc
tự quyết, Quốc Hội Nam Kỳ biểu
quyết sát nhập lănh thổ Nam Kỳ vào Quốc
Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Một tháng rưỡi sau, ngày 6-6-1949, Quốc
Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Élysée
về việc tái thống nhất Việt Nam, chấm
dứt chế độ thuộc địa tại Nam
Phần. Và ngày 2-2-1950, Quốc
Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định
Élysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước.
Đồng thời Quốc Hội Pháp cũng phê
chuẩn các Hiệp Định trao trả độc
lập cho Ai Lao kư ngày 20-7-1949, và cho Cao Miên kư ngày
8-11-1949. Như vậy về mặt quốc tế công
pháp, từ 1949, cùng với 9 quốc gia khác tại Á
Châu, 3 nước Đông Dương Việt Miên Lào
đă giành được độc lập thống
nhất bằng đường lối đấu tranh
chính trị và ngoại giao. Mặc dầu vậy
Đảng Cộng Sản Đông Dương đă
phủ nhận 3 Hiệp Định Đông Dương
kư kết tại Điện Elysée năm 1949, v́ các
Hiệp Định này không cho Đảng Cộng
Sản Đông Dương độc quyền lănh
đạo quốc gia. Và họ tiếp tục phát
động chiến tranh vơ trang trong suốt 40 năm,
từ 1949 đến 1989, để cướp chính
quyền và bành trướng chủ nghĩa bá
quyền. Như vậy Đảng Cộng Sản
đă vi phạm quyền tự quyết của dân
tộc Việt Nam muốn sống trong một
chế độ tự do dân chủ và không bị áp
đặt chế độ độc tài vô sản,
hay đúng hơn, chế độ độc tài
của Đảng Cộng Sản để thống
trị vô sản và nhân dân. B.
26 NHÂN QUYỀN CĂN BẢN Ngoài quyền Dân Tộc Tự Quyết,
Luật Quốc Tế Nhân Quyền đề xướng
26 Nhân Quyền Căn Bản chia thành 4 loại như
sau: 1.
Những
quyền dân sự cho bản thân con người (hay
Quyền Tự Do Nhân Thân). 2.
Những
quyền dân sự của con người trong đời
sống xă hội (hay Quyền An Cư) 3.
Những
quyền kinh tế xă hội và văn hóa giáo dục
(hay Quyền Lạc Nghiệp) 4.
Những
quyền tự do tinh thần và tự do chính trị
(hay Quyền Tự Do Dân Chủ) Tự Do Nhân Thân thuộc về Thân Tự Do Tinh Thần và Tự Do Chính
Trị thuộc về Tâm. Cùng với những Quyền
An Cư và Lạc Nghiệp, mục tiêu tối hậu
củaNhân Quyền là tạo điều kiện cho
con người được Thân Tâm An Lạc. Trước
hết là: A.
8 QUYỀN TỰ DO NHÂN THÂN Để
kết nối 8 Quyền Tự Do Nhân Thân chúng ta
vận dụng luồng tư tưởng: 1.
Con người
có nhân quyền từ khi mới sinh. Cha mẹ sinh ra ta
và cho ta Quyền Sống. 2.
Muốn
sống cho ra sống phải có tự do thân thể và
an ninh thân thể. Có tự do thân thể th́ Không
Bị Nô Lệ hay Nô Dịch. 3.
Có an ninh thân
thể th́ Không Bị Tra Tấn Hành Hạ. 4.
Có an ninh thân
thể th́ Không Bị Giam Giữ Độc
Đoán. 5.
Nếu
bị bắt giam và bị truy tố ra ṭa th́ Được
Xét Xử Công Bằng. 6.
Nếu
bị tuyên phạt oan ức th́ Được Ṭa
Án Bảo Vệ bằng cách buộc nhà nước
phải bồi thường thiệt hại. 7.
Ṭa Án
bảo vệ con người căn cứ vào luật
pháp. Luật Pháp cũng Bảo Vệ Con Người.
Luật Pháp không công nhận các tội giả
tạo như “tuyên truyền chống nhà nước”
hay “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. 8.
Luật
pháp bảo vệ con người một cách đồng
đều không phân biệt kỳ thị. Mọi người
đều có tư cách pháp nhân để được
Quyền B́nh Đẳng Trước Pháp Luật. Đó là 8 Quyền Tự Do Nhân Thân. B. 6 QUYỀN AN CƯ Muốn
kết nối các Quyền Tự Do Nhân thân với
Quyền An Cư, chúng ta hăy vận dụng luồng tư
tưởng: Con người
không sống lẻ loi một ḿnh trong hang động
mà phải sống hợp quần trong xă hội. Do
đó, ngoài những quyền dân sự cho bản thân
con người, quốc gia c̣n phải bảo đảm
cho con người một số quyền dân sự khác
để con người được sống an b́nh
trong xă hội: Đó là Quyền An Cư. 1.
Quyền An
Cư trước hết là quyền tự do cư trú
và đi lại. 2.
Muốn có
một đời sống an cư trong xă hội, đời
tư và danh dự của con người phải
được tôn trọng. Đó là quyền riêng tư. 3.
Quyền riêng
tư áp dụng cho bản thân và gia đ́nh v́ con người
có quyền kết hôn và lập gia đ́nh. 4.
Gia đ́nh
là một đơn vị của xă hội. Con người
sống trong quốc gia xă hội và được
quốc gia ban cho quyền quốc tịch để
trở thành công dân. 5.
Nếu
bị quốc gia đàn áp v́ lư do chính trị, tôn giáo
hay chủng tộc, con người có quyền rời
bỏ quốc gia để đi tỵ nạn tại
các quốc gia khác. 6.
Muốn
bảo đảm cho bản thân và gia đ́nh một
đời sống an lạc, con người phải có
quyền tư hữu. C.
8 QUYỀN LẠC NGHIỆP Để
kết nối các Quyền An Cư và Quyền Lạc
Nghiệp chúng ta hăy trở lại quyền tư
hữu. Quyền tư hữu có tác dụng an cư như
có các đồ đạc, xe cộ, nhà cửa để
cư trú. Quyền tư hữu cũng có tác dụng
lạc nghiệp (để hành nghề) như có
vốn kinh tế để kinh doanh buôn bán, vốn
kỹ thuật, vốn văn hóa, vốn trí thức
để hành nghề chuyên môn. Từ đó chúng ta bước
sang những Quyền Lạc Nghiệp. 1.
Muốn
lạc nghiệp phải có cơ hội hành nghề và
được quyền làm việc. 2.
Khi làm
việc phải được trả lương tương
xứng và công bằng. Để có b́nh đẳng
giao ước phải cho công nhân tự do thành
lập nghiệp đoàn và hành sử quyền đ́nh
công. 3.
Làm việc
để có một mức sống khả quan cho
bản thân và gia đ́nh. 4.
Nếu không
thể làm việc được, không thể tự
lực mưu sinh được, th́ được
quyền hưởng an sinh xă hội. 5.
Quyền an
sinh xă hội c̣n áp dụng cho các sản phụ, hài
nhi và thiếu nhi trong chính sách bảo trợ gia đ́nh.
Các gia đ́nh có con nhỏ và có lợi tức
yếu kém được hưởng trợ cấp y
tế, giáo dục và văn hóa. 6.
Quyền y
tế miễn phí được phổ cập cho
tất cả mọi người trong các nước dân
chủ xă hội. 7.
Giáo dục
tiểu học phải được cưỡng bách
và miễn phí. Giáo dục trung học và đại
học cũng phải tiến dần đến
miễn phí. 8.
Có giáo
dục mới có văn hóa. Về mặt kinh tế tác
quyền của văn nghệ sĩ và các sáng chế
phát minh của nhà khoa học phải được
quốc gia bảo vệ. Về mặt tinh thần
tự do sáng tác của văn nghệ sĩ và tự
do nghiên cứu của nhà khoa học phải được
quốc gia tôn trọng. Để kết nối những Quyền
Lạc Nghiệp với những Quyền Tự Do Tinh
Thần và Tự Do Chính Trị, chúng ta hăy trở
lại quyền văn hóa. Như đă tŕnh bày,
quyền văn hóa là một quyền kinh tế và cũng
là một quyền tinh thần. Từ đó chúng ta bước
sang những Quyền Tự Do Tinh Thần và Tự Do
Chính Trị mệnh danh là Quyền Tự Do Dân
Chủ. D.
4
QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ. Trước hết là
những quyền tự do lương tâm và tự do tôn
giáo (quyền thứ nhất) Kế tiếp là
những quyền tự do tư tưởng và tự
do phát biểu quan điểm (quyền thứ hai) Có tư tưởng, có
quan điểm, phải có cơ hội trao đổi
tư tưởng, trao đổi quan điểm
bằng tự do hội họp, tự do lập
hội và tự do lập đảng (quyền thứ
ba). Các cá nhân và chính đảng
có những chủ trương đường lối
ích quốc lợi dân phải có cơ hội thực
thi chủ trương này bằng cách tham gia chính
quyền (quyền thứ tư) Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền nhấn mạnh về nghĩa vụ
của mọi người phải “bảo vệ dân
chủ, đề xướng và phát huy các xă hội
dân chủ, các định chế dân chủ và các
thủ tục sinh hoạt dân chủ”. 1.
Tự Do Lương Tâm và Tự Do Tôn Giáo
(Freedom of Conscience and Religion). Quyền
tự do tôn giáo bao gồm quyền thờ phụng,
quyền truyền giáo và hành đạo. Đ̣i
tự do tôn giáo cũng là đ̣i phóng thích các tù nhân
tôn giáo đă bị giam giữ hay quản thúc độc
đoán, đ̣i cho các giáo hội được sinh
họat tự trị và đ̣i lại các tài sản
cơ sở văn hóa giáo dục và xă hội từ
thiện để hoằng dương đạo pháp. 2. Tự Do Tư Tưởng và
Tự Do Phát Biểu (Freedom of Thought and Expression) Tại Việt Nam ngày nay
Đảng Cộng Sản vi phạm quyền tự
do tư tưởng bằng cách nắm giữ
độc quyền tư tưởng để
truyền bá học thuyết Mác-Lê tại các trường
công lập. Trong chương tŕnh giáo dục tương
lai, chúng ta sẽ không giảng dạy các học
thuyết chính trị tại các trường phổ
thông công lập. Thay vào đó, tại
cấp tiểu học, chúng ta sẽ giảng dạy
cho các em về 10 t́nh cảm tự nhiên trong Đạo
Làm Người như t́nh gia đ́nh, t́nh thầy
tṛ, t́nh bạn bè, t́nh lối xóm, t́nh yêu quê hương,
yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân
loại, yêu thiên nhiên, yêu súc vật ... Đến bậc trung
học chúng ta sẽ giảng dạy cho các học sinh
những quyền lợi và nghĩa vụ công dân,
đặc biệt nhấn mạnh đến nhân
quyền và dân quyền. Từ hai thiên niên kỷ nay,
người dân chỉ nghe nói về bổn phận và
nghĩa vụ chứ chưa từng nghe nói về
quyền con người và quyền công đân. Đề
cao nhân quyền và dân quyền để chấn hưng
dân khí, cho người dân đứng lên giành lại
quyền làm chủ xă hội, cho con người
được phát triển toàn diện, có phần
con là những nhu cầu, mà cũng có phần người
là những quyền tự do dân chủ. Tại bậc đại
học Luật Quốc Tế Nhân Quyền sẽ
được giảng dạy v́ luật này c̣n quan
trọng hơn cả luật hiến pháp. Luật
Quốc Tế Nhân Quyền đề cao nhân phẩm,
đem lại tự do hạnh phúc cho con người,
ḥa giải thân thiện cho các quốc gia, thông
cảm bao dung cho các dân tộc, tiến tới một
Thế Giới Đại Ḥa trong tinh thần b́nh
đẳng, and hợp tác và hữu nghị. Đây là
giấc mơ ngàn đời của nhân lọai theo
đó người trong bốn biển đều là
anh chị em. Nhà cầm quyền Hà
Nội thường vi phạm thô bạo quyền
tự do phát biểu bằng cách cấm tư nhân
ra báo. Mọi bài viết có tính đối kháng
sẽ bị ghép vào tội phản nghịch hay tuyên
truyền chống nhà nước. Theo Tuyên Ngôn Nhân
Quyền và Dân Quyền Pháp “quyền tự do phát
biểu quan điểm là quyền cao quư nhất
của con người. Mọi người đều
có quyền nói, viết, in ấn tự do, và chỉ
chịu trách nhiệm (hậu kiểm) khi có sự vi
phạm luật pháp”. Theo Luật Báo Chí áp
dụng tại Miền Nam Việt Nam công dân được
tự do ra báo mà không phải xin giấy phép hay
kiểm duyệt trước (prior censorship). Chỉ khi
nào nhà báo xâm phạm danh dự hay quyền lợi
của người khác, hoặc vi phạm an ninh
quốc gia, trật tự công cộng hay thuần phong
mỹ tục, lúc đó biện lư hay nạn nhân
mới có quyền khởi tố nhà báo ra ṭa để
trả lời về trách nhiệm hậu kiểm
của họ (subsequent liability). 3.
Tự Do Hội Họp và Tự Do Lập Hội (Right of Assembly and Freedom of
Association). Có tư tưởng, có quan điểm
th́ phải được quyền trao đổi tư
tưởng, trao đổi quan điểm với các
thân hữu trong các cuộc gặp gỡ nhờ có
tự do hội họp và tự do lập hội.
Hội họp như diễn thuyết, họp báo, tham
dự mít tinh, biểu t́nh, tuần hành để
đạo đạt thỉnh nguyện lên nhà cầm
quyền, phản kháng những vi phạm nhân quyền
và đấu tranh đ̣i thực thi nhân quyền.
Hội đoàn có hai loại, hội dân sự và
hội chính trị. Lập hội dân sự
để thực thi những mục tiêu đạo
đức tôn giáo, (giáo hội), kinh tế xă hội
(công đoàn, nghiệp đoàn), thông tin văn hoá giáo
dục (hội kư giả, nhà văn, nhà giáo, phụ
huynh học sinh), ái hữu tương tế (hội
học sinh, sinh viên, phụ nữ, cao niên), từ
thiện nhân đạo (Hội Hồng Thập
Tự, Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội
Truyền Bá Nhân Quyền), hay thể dục thể
thao v.v... Những hội đoàn này họp thành xă
hội dân sự trong một xă hội đa nguyên.
Các hội dân sự được quyền sinh
họat tự trị, không chịu sự can thiệp
hay giám sát của nhà nước. Do đó các giáo
hội quốc doanh phải được giải tán,
các công đoàn nhà nước phải được
thay thế bằng các công đoàn độc lập,
công đoàn tự do. Ngoài các
hội dân sự c̣n có các hội chính trị
hay chính đảng trong chế độ dân
chủ đa đảng. Dân chủ đa đảng
cộng với xă hội đa nguyên họp thành
Dân Chủ Đa Nguyên. Chế độ Dân Chủ
Đa Nguyên lên án chế độ độc đảng
và độc quyền lănh đạo của Đảng
Cộng Sản. 4.
Quyền Tham Gia Chính Quyền (Right to Participate in Government) Các chính
đảng và các cá nhân có những chủ trương
đường lối ích quốc lợi dân phải
có cơ hội thực thi những chủ trương
đường lối này bằng cách tham gia chính
quyền. Tham gia chính quyền trực tiếp như
ứng cử vào các chức vụ công cử
(tổng thống, thủ tướng, dân biểu,
nghị sĩ v.v...), hay gián tiếp bằng cách
bầu lên các đại biểu của ḿnh trong chính
quyền. Đây là quyền tự do tuyển
cử, một h́nh thức của Quyền Dân
Tộc Tự Quyết, theo đó người dân có
quyền tự do lựa chọn chế độ chính
trị của quốc gia, và tự do lựa chọn các
đại biểu của ḿnh trong chính quyền để
thực thi chế độ đó. Trái với quan
niệm cổ xưa theo đó nguồn gốc chủ
quyền xuất phát từ quốc gia, Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền minh định rằng “ư
nguyện của người dân được
coi là căn bản của mọi quyền lực
quốc gia. Ư dân phải được biểu
lộ trung thực qua những cuộc tuyển cử
tự do và công bằng, theo phương thức đầu
phiếu phổ thông, định kỳ và kín.” Quyền Tham Gia Chính Quyền (quyền thứ
26) kết nối với Quyền Dân Tộc Tự
Quyết để hoàn thành sợi dây chuyền xuyên
suốt. Đây là sợi dây chuyền kết bằng
27 viên ngọc trai chúng ta dành riêng để tặng
đồng bào trong nước. Luật
Sư NGUYỄN HỮU THỐNG CHỦ
TỊCH Ủy Ban Luật Gia Bào Vệ Dân Quyền
(Từ 1990) CỐ
VẤN SÁNG LẬP Mạng Lưới Nhân Quyền
Việt Nam (Từ 1997) ĐĂ
XUẤT BẢN: 1.
Luật Quốc Tế Nhân Quyền (1989) 2.
Cẩm Nang Nhân Quyền (1989) 3.
Hiến Chương Nhân Quyền Cho Việt Nam (2005)
|