Chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong chiến tranh
Đông Dương Đỗ Kim Thêm |
Bối
cảnh Các diễn biến cực kỳ sôi động
về nội chính và bang giao quốc tế trong cuộc
chiến tranh Đông Dương làm cho Hoa Kỳ thay
đổi chiến luợc chống Cộng Sản
từ h́nh thức trung dung sang ủng hộ Pháp. V́
sao Hoa Kỳ phát triển chính sách này lên cực
điểm? Nguyên nhân rất đa dạng. Khởi đầu
của các diễn biến là tại châu Âu. Trước
Đệ nhị Thế chiến, Tổng thống
Franklin D. Roosevelt tuyên bố trước công luận
thế giới rằng Mỹ sẽ là pháo đài
bảo vệ cho nền dân chủ tự do. Đến
tháng 12 năm 1941, qua các cuộc thăm ḍ, đa số
công luận Mỹ tin rằng giá trị tự do dân
chủ và chủ nghĩa tư bản phương Tây là
một phương thức duy nhất làm cho các nước
phát triển và thịnh vượng, nhất là ngăn
chận các cuộc bùng nổ chiến tranh. Cùng với Liên Xô và Anh, Hoa Kỳ đă
chiến thắng Đế quốc Đức và
Nhật. Sau khi đoàn kết để kết thúc
chiến tranh, Joseph Stalin, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Liên Xô, cho rằng kế hoạch tái
thiết hậu chiến là thực tế, hợp tác
với các cường quốc phương Tây là
khả thi và đối nghịch ư thức hệ không
nghiêm trọng. Thoạt đầu, Thủ tướng Anh
Winston Churchill và Tổng thống Roosevelt đồng
thuận cho việc Liên Xô sẽ phát triển ảnh hưởng
chính trị tại Đông Âu. Stalin hy vọng sẽ
mở rộng quyền lực, kể cả bằng
bạo lực khi cần thiết và phương Tây,
v́ lo sợ không thể đối phó, sẽ thích
nghi bằng các biện pháp tương nhượng. Sau khi nhận ra tham vọng của Stalin qua các
biện pháp Xô viết hoá tàn bạo, Churchill và Roosevelt
cho là chủ nghĩa Cộng sản đang de doạ
thế giới, t́nh h́nh không c̣n phù hợp với
quyền lợi chiến lược của phương
Tây; cả hai chống đối công khai Stalin và xem hai
khối Đông- Tây thành h́nh, mở màn cho
Chiến tranh Lạnh. Trong chiều hướng này,
hệ thống quốc tế bắt đầu rạn
nứt. Đó là t́nh h́nh chung, c̣n diễn biến
tại các nước Đông Dương khác hẳn. T́nh trạng xung đột giữa thực dân
Pháp và Việt Nam phát triển trong bối cảnh
đặc biệt khi phong trào đấu tranh giành độc
lập đang thành h́nh. Mục tiêu của quân đội
Pháp tại Việt Nam không chỉ là chiếm lại
thuộc địa, mà c̣n đẩy lui lực lượng
của Cộng sản đội lốt phong trào đấu
tranh giành độc lập dân tộc đang manh
nha. Do đó, tinh thần cam kết của Hoa Kỳ dành
cho Việt Nam là kết quả của chiến luợc
này. Tương lai của các nước Đông Dương
được Roosevelt, Churchill và Tưởng
Giới Thạch thảo luận lần đầu tiên
tại hội nghị Cairo, Ai Cập từ ngày
22-26 tháng 11 năm 1943. Roosevelt chủ trương
phải tôn trọng quyền tự quyết dân tộc
của các quốc gia bị trị, một lập trường
chính thức mà Hiến chương Đại Tây Dương
(Atlantic Charter) đă nêu ra trong tháng 8 năm 1941. Nhưng
Roosevelt và Tưởng Giới Thạch dè dặt hơn
khi nhận ra sự ủy trị quốc tế
(International Trusteeship) cho các nước Đông Dương
là chưa thuận lợi và đúng lúc. Sau đó, tại hội nghị Tehran ngày 28 tháng
11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1943, đề nghị
này lại được đưa ra thảo luận.
Lần này, đề nghị sự ủy trị
được Stalin tán thành, c̣n Churchill th́ không. Lư do
chính là v́ Anh và Pháp vẫn c̣n mong muốn duy tŕ các
đặc lợi kinh tế tại các nước
bị trị. Ngày 24 tháng 1 năm 1944, Roosevelt khẳng định
là các nước Đông Dương không nên trả
lại cho Pháp, v́ người dân sống tệ hại
trong gần cả thế kỷ nay và xứng đáng
được sống tốt đẹp hơn. Ngược
lại, Anh đă thông đồng để t́m cách
đưa Pháp trở lại Việt Nam. Giới hoạch định chính sách đối
ngoại của Mỹ cho là viện trợ cho Pháp gây
cho các nước xa lánh phương Tây trong khi nếu
ủng hộ cho Việt Nam giành độc lập đồng
nghĩa với việc giúp cho Cộng sản thành h́nh.
Nhưng vấn đề chưa chung quyết th́ ngày 12
tháng 4 năm 1945 Roosevelt qua đời. Tổng thống Harry S. Truman, người kế
nhiệm Roosevelt, thấy không thể c̣n ve văn Liên Xô
như trước. Hoà nhịp theo trào lưu này là
việc đa số công luận Mỹ cũng đồng
thuận sự thay đổi quan điểm và dân chúng
Đông Âu thức tỉnh khi xem chuyển hướng
hy vọng về phía Mỹ cần thiết nhiều hơn. Xung đột thể hiện rơ khi Stalin không
tiếp tục hợp tác với phương Tây trong
việc t́m ra một giải pháp cho tương lai
của nước Đức. Cùng lúc, Stalin gây áp
lực nặng nề đối với Thổ khi gia tăng
yểm trợ cho Đảng Cộng sản Thổ
tại Hy Lạp. Các tranh chấp làm cho các mối bang
giao quốc tế trong năm 1947 trầm trọng hơn. Trước t́nh h́nh này, Tổng thống Truman
công bố chính sách ngăn chận, không phải
chỉ lo viện trợ quân sự cho Thổ và Hy
Lạp, mà cho các nước khác đang đứng trước
hiểm hoạ xâm lăng hoặc áp lực ngoại
giao của Cộng sản. Chính sách ngăn chận của có giá trị
thuyết phục cao, nên từ năm 1947 Mỹ tiếp
tục theo đuổi qua kế hoạch tái thiết
hậu chiến Marshall. Qua đó, Mỹ đă
tạo phương tiện khởi đầu để
giúp cho các nước Tây Âu đi vào giai đoạn phát
triển và ổn định. Các thành tựu này làm
cho mọi quan hệ chính trị giữa Mỹ và Tây Âu
gắn bó hơn. Điển h́nh là Mỹ thành lập Liên minh
Bắc Đại Tây Duơng (NATO) vào năm 1949 để
củng cố và tăng cường quyền lợi an
ninh tại Tây Âu. Các cựu thù của Đồng minh là Đức
và Nhật cũng tham gia xây dựng một trật
tự mới; hai quốc gia trung tâm này hội nhập
theo tinh thần tự do và chủ nghĩa tư bản.
Không bao lâu sau, với những nỗ lực tái
thiết hậu chiến, Đức và Nhật trở
thành cuờng quốc khu vực thân phương Tây mà
nhiệm vụ chính là ngăn chận ảnh hưởng
của Trung Hoa và Liên Xô và bảo vệ cho quyền
lợi an ninh của Mỹ. Theo Truman, chính sách bảo vệ an ninh và tái
hội nhập kinh tế thế giới có hai khía
cạnh: ngăn chận sự bành trướng chủ
nghĩa Cộng Sản và phát triển chủ nghĩa tư
bản. Truman lạc quan cho là khi cả hai mục tiêu này
kết hợp nhau thuận lợi sẽ cổ vũ cho
chính sách Mỹ: phát triển tự do cá nhân trong
nền kinh tế thị trường theo chiều hướng
hưởng thụ tiện nghi vật chất tối
đa qua lối sống Mỹ. Cùng theo tinh thần này, Truman tin là các nước
Đông Nam Á sẽ vừa là thị trường cung
ứng nguyên nhiên vật liệu cho việc sản
xuất công nghiệp và nơi tiêu thụ sản
phẩm của Mỹ và phương Tây. Qua thời
gian, các quốc gia này sẽ chấp nhận các giá
trị phuơng Tây và hội nhập vào nền kinh
tế thế giới. Cụ thể là ngay trong lúc đầu của
nhiệm kỳ tổng thống, Harry Truman đă gởi
35 cố vấn quân sự Hoa Kỳ đă tham gia
việc bảo vệ miền Nam Việt Nam. Pháp công
nhận chế độ Bảo Đại Trong việc phát triển chiến lược
chung cho Đông Nam Á, thoạt đầu, Hoa Kỳ
không quan tâm đến vai tṛ chiến lược
của Việt Nam, mà mục tiêu chính là gây áp lực
cho Pháp phải cải cách chính sách thuộc địa
và hỗ trợ cho các đoàn thể chính trị địa
phương có tư tưởng dân chủ thân phương
Tây thành h́nh. Thực ra, trong việc hoạch định chính
sách ngoại giao mới, Bộ Ngoại giao Mỹ không
nhận định được một cách chính xác
về vai tṛ của ông Hồ và Việt Minh trong hoàn
cảnh mới. Bộ Ngoại giao Mỹ nghi ngờ về thành
tích đấu tranh trong tinh thần giải phóng dân
tộc của ông Hồ, nhưng lại cho rằng, không
có giải pháp tương ứng khả thi nào khác và
không ai có thể thay thế cho ông. Hơn nữa, báo chí
Mỹ khuyến nghị Bộ Ngoại giao nên tiếp xúc
với ông Hồ và nhất là v́ không ai chứng minh ông
Hồ là thân Liên Xô. Nhiều giải thích khác cũng tương
tự. Stalin tin ông Hồ là một cánh tay đắc
lực và không ai khác thay thế ông Hồ trong vai tṛ lănh
đạo cho Việt Nam. Một mặt, khi chế độ thuộc
địa đă kết thúc, Mỹ áp lực các cường
quốc thực dân là trao trả quyền dân tộc
tự quyết. Mặt khác, Mỹ tỏ ra dè dặt
khi không công khai tiếp xúc với Cộng sản đang
đội lốt đấu tranh cho phong trào giải phóng
dân tộc. Tại Việt Nam, không phải Mỹ mà là Pháp
định đoạt tất cả trong việc t́m ra
một giải pháp chính trị thích hợp, nhưng Pháp
không đạt kết quả khả quan nào. Cuối cùng,
Pháp t́m ra một giải pháp thuận lợi nhất là
hợp tác với Hoàng đế Bảo Đại,
một nhân vật khả kính c̣n lại của Hoàng
triều. Sau nhiều đắn đo, Bảo Đại
tuyên bố đồng ư sẽ theo các biện pháp do Pháp
chủ xướng. Trong Thoả ước Elysée năm
1949, Pháp hứa hẹn trao độc lập cho Việt
Nam trong khi chính sách đối ngoại và quốc pḥng
c̣n nằm trong tay của Pháp. Ngoài ra, do thoả thuận, Pháp c̣n hưởng
các biện pháp kinh tế thuận lợi. Cho dù chính
phủ Việt Nam mới thuộc quyền của
Bảo Đại, nhưng điều kiện Việt
Nam, Lào và Campuchia c̣n phải nằm trong Liên hiệp Pháp
làm cho Pháp tỏ ra không thiết tha khi hứa hẹn
trao trả độc lập. Nhờ quan liên hệ lâu dài với Bảo
Đại mà Pháp có nhiều điểm lợi về
kinh tế và chính trị. Do đó, Việt Minh, cho dù nhân
danh giải phóng dân tộc, khó có thể đảm
nhận vai tṛ lănh đạo chung cho toàn quốc gia. Trước những bất lợi cho Việt
Minh, nhưng cũng không v́ thế mà làm cho Bảo
Đại phát huy thanh thế. Trong thời kỳ
biến động, hầu như ông không trực
tiếp giải quyết các vấn đề hệ
trọng cho đất nước. Lư do chính là lối
sống xa hoa và cách biệt nông dân, hầu hết
thời gian Bảo Đại và gia đ́nh là ở
Nice, miền Nam nước Pháp, và biệt điện
ở Đà Lạt. Nội
chính bất ổn Mao Trach Đông chiến thắng tại Trung
Quốc vào tháng Mười năm 1949 làm cho Tướng
Tưởng Giới Thạch và lực lượng
Quốc Dân Đảng tháo chạy sang Đài Loan. Hai
chuyển biến quan trọng này gây ra một sự
thay đổi triệt để trong chính sách về
Đông Dương của Mỹ. Tại Quốc hội, Đảng Cộng Hoà,
trong vị thế đối lập, đă lên án
tổn thất này cho trách nhiệm Tổng thống
Truman khi không ủng hộ Tướng Tưởng
Giới Thạch kiên quyết chống Cộng sản.
Lời cáo giác có sức thuyết phục cao, v́ trên b́nh
diện quốc tế, công luận Mỹ bắt đầu
cảm thấy bị Cộng sản đe doạ, ngay
cả trong nội địa, họ tin rằng vấn
đề nội gián cho Cộng sản có thể
xảy ra. Tháng 3 năm 1947, Truman ra lệnh cho kiểm soát
các công chức liên bang xem có liên hệ với Cộng
sản Mỹ và Quốc tế không. Ngoài ra, ông c̣n cho
thành lập House Unamerican Activities Committee, (HUAC), một cơ
quan chuyên lo theo dơi dân chúng trong các hoạt động
này. Qua cuộc chiến Triều Tiên, mối đe
doạ về nội gián Cộng sản gia tăng.
Từ năm 1950 đến 1953, Joseph MaCarthy, Nghị sĩ Đảng
Cộng hoà, đă tổ chức một cuộc thanh
lọc quy mô qua chương tŕnh truy lùng các giới
chức trong chính quyền có khuynh hướng thân
Cộng, kể cả trong giới trí thức và dân chúng
yêu chuộng tự do. Khi lực lượng an ninh
nội chính gia tăng các hoạt động theo dơi ráo
riết trong cả nước, làm cho thanh danh của
Mỹ trong chính sách ngoại giao bị ảnh hưởng
trầm trọng. Ngoại
giao biến động Tháng Giêng năm 1950, Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Quốc và Liên Xô công nhận Việt Minh là chính
phủ hợp pháp của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà. Qua biện pháp này, Hoa Kỳ mới nhận
thức được chính xác là Cộng sản
Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô hợp tác chung trong chính
sách thâm nhập Đông Nam Á, cuối cùng, cả ba
sẽ chiến thắng và đe doạ cho toàn thể
thế giới tự do. Hiểm hoạ xâm lăng
của Cộng sản quốc tế đă trở thành
hiện thực khi Liên Xô và Trung Quốc hỗ trợ
cho Cộng sản Bắc Hàn tấn công bán đảo
Nam Hàn tháng 6 năm 1950. T́nh thế biến đổi làm cho Bộ
Ngoại giao Mỹ quan tâm đến vận mệnh các
nước Đông Nam Á. Sách lược duy nhất c̣n
lại là chỉ chọn lựa bạn hoặc thù, không
thể khác hơn, giải pháp trung dung không là một
thái độ khôn ngoan mà c̣n bị khinh miệt. Khi công khai ủng hộ cho Pháp trong chiến
tranh Đông Dương, Mỹ cần đến Pháp.
Chỉ trong năm 1949, kinh phí chiến tranh lên đến
167 triệu quan Pháp. Trong thời gian từ 1950 cho đến 1954, kinh
phí viện trợ của Mỹ cho Pháp và Việt Nam lên
đến 2,76 tỷ đô la, cả chiến cụ và
các loại dịch vụ khác, trong đó có 1800 xe
thiết giáp, 31000 xe Jeeps, 36100 vũ khí nặng và
cầm tay, hai hàng không mẫu hạm và 500 phi cơ. Năm
1952, Mỹ tài trợ 40% chiến phí, đến năm
1954, mức tài trợ của Mỹ lên đến 80%.
Ngược lại, chương tŕnh viện trợ phát
triển kinh tế bị giới hạn trong khoảng
50 triệu đô la. Đến tháng 3 năm 1950, viện trợ ào
ạt của Mỹ cũng không tạo thuận lợi
cho quân đội Pháp gây được chuyển
biến đáng kể, bằng chứng là Việt Minh
chiếm được 2/3 lănh thổ và đến
cuối năm, Tướng Giáp đă dồn được
quân đội Pháp đến vùng biên giới
Hoa-Việt. Thuận lợi nhất cho Việt Minh trong giai
đoạn này là quân viện của Trung Hoa cho Việt
Minh không c̣n gặp trở ngại về vận
chuyển. Đây là một buớc đột phá
chiến lược làm cho Pháp lo ngại nhiều hơn. Cuối cùng, Pháp phải thay đổi giới
lănh đạo quân sự tại Việt Nam. Tướng
Jean de Latte de Tassigny, dù đă nổi danh là có tài năng
quân sự và tinh thần lạc quan, nhưng cũng
chỉ mang lại cho Pháp thành công tạm thời trong bước
đầu. Chiến
thắng Điện Biên Phủ Theo quan điểm của Mỹ, Pháp bảo
vệ cho các nước phương Tây tại Đông
Dương, trong khi Mỹ lo bảo vệ Nam Hàn. Dù hai
trận tuyến dị biệt, mà là mang một mục
đích toàn diện nhằm chống lại trào lưu
của Cộng sản Quốc tế đang lên. Nhưng trước các chống đối
của Quốc hội, Eisenhower không muốn Mỹ
đơn phương hành động, mà ít nhất
phải có Pháp hợp tác để tiến hành. Nhưng
công luận Mỹ không đồng t́nh phương sách
này, v́ cho là Mỹ cũng là một loại thực dân
mới khi hợp tác với Pháp. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt, Việt
Minh phải lui về cố thủ trong các làng mạc
xa xôi, chính Điện Biên Phủ lại trở thành vùng
tử địa cho quân đội Pháp. Dù Pháp nỗ
lực tân trang cho quân đội Việt Nam, nhưng cũng
không đem lại thành công quân sự nào đáng
kể. Uy tín thực dân Pháp suy sụp thảm hại.
Công luận Pháp bắt đầu lên án chiến tranh
Đông Duơng là dơ bẩn. Trong khi tinh thần binh
sĩ mệt mỏi, Quốc hội không c̣n chuẩn
chi kinh phí cho chiến tranh; lúc này,Washington cho là
chiến tranh của Pháp tại Đông Dương
dần dà thành h́nh một loại chiến tranh ủy
nhiệm. Cuối cùng, mọi dự đoán đều
trở nên sai lạc khi chiến thắng Điện Biên
Phủ của Việt Minh làm đảo lộn t́nh
thế tại Việt Nam. Số phận của binh sĩ Pháp được
an bài. Sau 55 ngày bị vây hăm và công kích, Pháp đầu
hàng. Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc
sự cai trị của Pháp tại miền Bắc, mà c̣n
khởi đầu cho sự thất bại của Pháp
trên toàn cơi Đông Dương mà Hiệp định
Genève 1954 là một bằng chứng khác về mặt pháp
lư và ngoại giao. Hiệp
Định Genève 1954 Sau khi kư kết Hiệp định, t́nh h́nh
thay đổi buộc Tổng thống Eisenhower và
Ngoại trưởng Dulles phải kết hợp
với chính phủ Anh đề ra một chương
tŕnh là chuyển huớng triệt để và giới
hạn các thiệt hại có thể sẽ xảy ra. Hai mục tiêu chung trước mắt là Phong trào
Giải thực phải tiếp tục tiến hành và
Pháp phải vĩnh viễn rút quân ra khỏi Đông Dương
và trao trả độc lập cho Lào, Campuchia và
Việt Nam, thực tế có nghĩa là, cô lập
Việt Minh tại miền Bắc, trong khi Lào, Campuchia và
Nam Việt Nam được hoàn toàn độc
lập. Mỹ thấy cần theo đuổi chính sách
đóng vai tṛ thay thế cho Pháp, bảo vệ an ninh cho
Đông Dương và sẽ gắn bó với định
mệnh của Việt Nam Từ năm 1956, để tiếp tục
chống Cộng sản, Tổng thống Eisenhower gia tăng
viện trợ Mỹ và nâng số lượng các
cố vấn quân sự lên đến gần 700. Lúc cuối nhiệm kỳ, Eisenhower ư thức
tầm quan trọng trong việc các binh sĩ Bắc
Việt thâm nhập Lào và Campuchia; đường ṃn
Hồ Chí Minh dài 1000 cây số trở thành một
trục tiếp vận để Cộng sản có
thể làm suy yếu và làm sụp đổ chính
phủ miền Nam. Đảm nhiệm vai tṛ bảo vệ này chính
là tiền đề làm cho Mỹ trực tiếp can
thiệp vào cuộc chiến Việt Nam về sau. Kết
luận Nh́n lại toàn cảnh hỗn loạn của
đất nước trong buổi giao thời, với các
sử liệu về sau được giải mật,
hậu thế có các kết luận khác hơn.
Không giống như Pháp, Mỹ không có một
văn bản chính thức nào lưu trữ tại
Quốc hội ghi nhận là có tham vọng xâm chiếm
lănh thổ Việt Nam. Cho đến cả về sau,
khi chiến tranh diễn ra khốc liệt, các chính
phủ Mỹ kế nhiệm cũng không muốn thôn
tính lănh thổ hay thu tóm quyền lợi kinh tế
của Việt Nam. Ngay từ đầu, Mỹ không định
đoạt cho tương lai của Đông Dương
và không tước đoạt quyền cai trị Đông
Dương trong tay của Pháp. OSS đă có mặt
tại Việt Nam và ra đi sau khi chấm dứt
nhiệm vụ. Ông Hồ t́m kiếm sự hợp tác
với Mỹ, đặc biệt là với Truman, nhưng
thất bại . Cụ thể là, trong cuộc điện đàm
ngày 12 tháng 9 năm 1946 với George M. Abbott, Tuỳ viên
Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, ông
Hồ phủ nhận là có hoạt động cho
Cộng Sản, nội các không có các thành viên là người
của Cộng sản và Đảng Cộng sản
đă giải tán. Những lời dối trá này là một
chiến thuật để ông Hồ t́m cách
thuyết phục Truman hợp tác, không phải chỉ là
một thất bại tạm thời, mà là một
khởi đầu của sự bất hạnh cho toàn
dân tộc trong suốt cả một chiều dài
lịch sử. Cuối cùng, không c̣n cách nào khác hơn, ông
Hồ t́m lối thoát là gắn bó với chủ nghĩa
Cộng Sản và hoàn toàn lệ thuộc vào Trung
Quốc và Liên Xô. Đó là lư do tại sao bi kịch
cho dân tộc c̣n kéo dài cho đến ngày hôm nay. --
Đỗ Kim Thêm |