Luật
sư Nguyễn Hữu Thống
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển
Từ khi biết sống hợp quần trong xă
hội để thành lập quốc gia, con người
đă biết đặt ra luật lệ để
giải quyết các tương quan về quyền
lợi và nghĩa vụ trong sinh hoạt cộng
đồng.
Địa cầu gồm 3 phần đất và 7
phần nước. Nếu có luật quốc
tế tại các lănh thổ th́ cũng phải có
luật biển cho miền lănh hải hay hải
phận.
Ngày 10-12- 1982, 119 quốc gia đă kư Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển trong đó
có Trung Quốc và Việt Nam. Muốn thành luật, Công
Ước phải được đa số các
quốc gia kết ước phê chuẩn. Ngày
16-11-1993, 60 quốc gia đă phê chuẩn Công Ước,
và một năm sau, ngày 16-11-1994 Công Ước có
hiệu lực chấp hành.
Danh từ lănh thổ bao gồm cả lục địa,
hải phận và không phận.
Tại vùng hải phận đường cơ
sở (baseline) thông thường là lằn mức
thủy triều xuống thấp.
Biển lănh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lư
tính từ đường cơ sở ra khơi
Cần phân biệt giữa biển lănh thổ và lănh
hải hay hải phận của quốc gia duyên
hải (maritime zone).
Theo án lệ cố định của Ṭa Án Quốc
Tế The Hague và chiếu Điều 8 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, biển
lịch sử (historic waters) chỉ là nội hải
(internal waters).
Muốn có biển lịch sử phải hội
đủ 3 điều kiện:
a. Quốc gia duyên hải đang hành sử chủ
quyền;
b. Sự hành sử chủ quyền có tính liên
tục và trường kỳ;
c. Các quốc gia kế cận và đối diện
thừa nhận chủ quyền của quốc gia duyên
hải.
Dầu sao biển lịch sử chỉ là nội
hải tọa lạc trên đất liền, về
phía bên trong đường cơ sở của
biển lănh thổ.
Như vậy biển lịch sử của Trung Hoa
hay Lưỡi rồng Trung Quốc chỉ là nội
hải. Nó không thể là Biển Nam Hoa hay Biển
Đông Nam Á cách Hoa lục đến 2000 cây số.
Vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải
lư để đánh cá chạy từ biển lănh
thổ ra khơi.
Thềm lục địa để thăm ḍ và khai
thác dầu khí trùng điệp với vùng đặc
quyền kinh tế để đánh cá và cũng
rộng 200 hải lư (370 km).
Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển, thềm lục địa
pháp lư (legal continental shelf) của các quốc gia duyên
hải dài 200 hải lư tính từ biển lănh
thổ ra khơi. Ngoài ra c̣n có thềm lục địa
địa chất (geological continental shelf) có thể kéo
dài tối đa đến 350 hải lư (650 km),
nếu về mặt địa chất và địa
h́nh, đáy biển là sự tiếp nối tự
nhiên của lục địa từ đất
liền ra ngoài khơi trên triền biển sâu đến
mũi xa bờ nhất của nền lục địa
(continental margin).
Đó là một yếu tố đặc thù của
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại Hoàng Sa, thềm lục địa địa
chất nằm trên nền lục địa,
chạy thoai thoải từ dẫy Trường Sơn
ra biển, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngăi. Độ sâu nhất quanh
đảo Hoàng Sa là 900 mét. Về mặt địa
chất và địa h́nh, đáy biển Hoàng
Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy
Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra các đảo
Tri Tôn, Hoàng Sa và Phú Lâm. Đây là những cao nguyên
của lục địa Việt Nam trên mặt
biển. Nếu nước biển rút xuống 900 mét
th́ toàn thể các hải đảo Hoàng Sa sẽ
biến thành một dẫy hành lang chạy thoai
thoải từ Trường Sơn ra Biển Đông.
Năm 1925 nhà địa chất học quốc
tế, Tiến Sĩ khoa học A. Krempt, Giám đốc
Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm
nghiên cứu, phân chất đất đai, đo
đạc, vẽ bản đồ các hải đảo
và đáy biển đă lập phúc tŕnh kết
luận rằng: “Về mặt địa chất
những đảo Hoàng Sa là thành phần của
Việt Nam” (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam).
Trong khi đó từ quần đảo Hoàng Sa về
Hoa lục có một rănh biển sâu hơn 2300 mét. V́
đáy biển Hoàng Sa không phải là sự tiếp
nối tự nhiên của lục địa từ
đất liền ra ngoài biển, Trung Quốc không
có hy vọng đ̣i nới rộng thềm lục
địa Trung Hoa từ 200 hải lư đến 350
hải lư như trường hợp Việt Nam.
Vả lại các đảo Hoàng Sa tọa lạc
tại các vĩ tuyến 17-15 bắc, cách bờ
biển Việt Nam khoảng 160 hải lư và cách Hoa
lục tới 270 hải lư, nên thuộc thềm
lục địa của Việt Nam.
Tại Trường Sa cũng vậy. Về mặt
địa chất và địa h́nh đáy biển,
Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên
từ lục địa Việt Nam ra ngoài biển.
Tại băi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí,
biển sâu không tới 400 mét, và tại vùng đảo
Trường Sa và cồn An Bang (do Việt Nam
chiếm cứ), độ sâu chỉ tới 200 mét.
Băi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam
khoảng 170 hải lư và cách Hoa lục tới 800
hải lư. Các đảo Trường Sa tọa
lạc tại các vỹ tuyến 12-8 bắc (từ
Cam Ranh đến Cà Mâu), cách bờ biển Việt
Nam 220 hải lư và cách Hoa lục tới 750 hải lư,
nên thuộc hải phận của Việt Nam.
Hơn nữa về mặt địa chất và
địa h́nh, đáy biển Trường Sa cách
bờ biển Trung Quốc bằng một rănh
biển sâu hơn 4 ngàn mét. V́ đáy biển không
phải là sự tiếp nối tự nhiên của
lục địa từ đất liền ra ngoài
biển, Trung Quốc không có hy vọng đ̣i
nới rộng thềm lục địa đến
mức 350 hải lư. Trong mọi trường hợp,
các đảo Trường Sa cách Hoa lục quá xa,
từ 700 đến 800 hải lư, vượt quá
mức tối đa 350 hải lư dành cho thềm
lục địa địa chất, nên không
thuộc chủ quyền lănh thổ của Trung
Quốc,
Khác với vùng đặc quyền kinh tế đánh
cá, thềm lục địa (pháp lư hay địa
chất) thuộc chủ quyền tuyệt đối
và đặc quyền chuyên hữu của quốc
gia duyên hải trong việc thăm ḍ và khai thác
dầu khí. Các quốc gia duyên hải không phải
chia dầu khí cho ai, mặc dầu chưa khai thác hay
không khai thác hết (các Điều 77 và 81). Các
quốc gia khác không được quyền đến
thăm ḍ hay khai thác dầu khí nếu không có
sự ưng thuận minh thị của quốc gia
duyên hải. Mọi sự vi phạm bằng cách
chiếm cứ, dầu có vơ trang hay không, cũng
đều bất hợp pháp và vô hiệu lực.
Hơn nữa, tại thềm lục địa,
quyền của các quốc gia duyên hải không tùy
thuộc vào điều kiện phải có sự
chiếm cứ (occupation), thăm ḍ (exploration), khai thác
(exploitation) hay công bố minh thị (express proclamation).
Do đó, mặc dầu không c̣n chiếm cứ các
đảo tại Hoàng Sa từ 1974, Việt Nam
vẫn không mất chủ quyền tuyệt đối
và đặc quyền chuyên hữu tại quần
đảo này.
Trong những năm 1974, 1988 và 1992 Trung Quốc
đă chiếm cứ vơ trang một số đảo,
cồn, đá, băi tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Đây là những hành động vi phạm thô
bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển. Dầu sao sự chiếm cứ
bất hợp pháp này cũng không có tác dụng tước
đoạt chủ quyền lănh thổ của
Việt Nam tại thềm lục địa. Hành vi
bạo hành dầu kéo dài bao lâu cũng không làm
mất tính bạo hành của nó. Và sự bạo hành
vơ trang không được viện dẫn quy chế
tiêu diệt thời hiệu theo luật lệ
hiện hành tại các quốc gia văn minh trên
thế giới.
Đơn yêu cầu mở rộng thềm lục
địa của Việt Nam
Chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các
quốc gia duyên hải có quyền đệ
đơn tại Ủy Ban Phân Định Thềm
Lục Địa (Commission on the Limits of the Continental
Shelf) để được hưởng quy chế
thềm lục địa địa chất đến
mức tối đa 350 hải lư, trong trường
hợp nền lục địa của quốc gia
duyên hải dài hơn thềm lục địa pháp
lư (200 hải lư).
Thời hạn đệ đơn yêu cầu mở
rộng thềm lục địa là 10 năm kể
từ khi Công Ước có hiệu lực chấp hành
(tháng 11-1994).
Qua năm 1995, nhân kỳ Đại Hội Khu Vực
Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN)
họp tại Brunei, Ủy Ban Luật Gia Việt Nam
Bảo Vệ Dân Quyền đă gửi 7 vị nguyên
thủ quốc gia thuộc tổ chức ASEAN một
bản tường tŕnh về vụ tranh chấp
tại Hoàng Sa Trường Sa trên b́nh diện công pháp
quốc tế. (Lúc này Việt Nam đă gia nhập
ASEAN). Trong phần kết luận, Ủy Ban Luật
Gia yêu cầu Khối ASEAN đổi danh xưng
Biển Nam Hoa (South China Sea) thành Biển Đông Nam Á
(Southeast Asia Sea). Đồng thời đề
nghị Khối ASEAN triệu tập những cuộc
đàm phán đa phương để giải
quyết toàn bộ vấn đề tranh chấp
tại Biển Đông Nam Á giữa các Quốc Gia
hội viên của Hiệp Hội các Quốc Gia
Đông Nam Á..
Riêng đối với Việt Nam, Ủy Ban Luật
Gia cũng đề nghị nhà cầm quyền
triệu dụng các luật gia và chuyên gia trong các
tổ chức hải dương quốc tế (như
Viện Hải Dương Đông Tây tại Hawaii)
để lập bản tường tŕnh về
những yếu tố đặc thù liên quan đến
địa lư, địa h́nh và địa chất
tại Hoàng Sa và Trường Sa theo các tiêu chuẩn
hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc.
Mục đích để kiện toàn hồ sơ yêu
cầu Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa
chấp thuận cho Việt Nam được mở
rộng thềm lục địa từ 200 hải lư
cho đến mức 350 hải lư. Về thủ
tục tố tụng Ủy Ban Luật Gia cũng lưu
ư rằng thời hạn đệ đơn là
10 năm chiếu Điều 4 Phụ Đính 2 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển. Thời hạn này sẽ măn vào tháng 11-2004.
Từ đó đến nay đă 14 năm, nhà
cầm quyền Hà Nội vẫn im ĺm bất động.
Hơn nữa, năm 2000, Chính phủ Hà Nội c̣n kư
một hiệp ước bất b́nh đẳng
về Hợp Tác Nghề Cá với Trung Quốc. Trong
hiệp ước này có điều khoản quy
định rằng, khi dầu khí được phát
hiện, hai bên sẽ khởi sự khai thác dầu
khí chung tại thềm lục địa đồng
thời với sự hợp tác đánh cá trong vùng
đặc quyền kinh tế tại Vịnh Bắc
Bộ.
Theo những tin tức mới đây, căn cứ vào
thỉnh nguyện của một số quốc gia
hội viên, Ủy Ban Phân Định Thềm Lục
Địa Liên Hiệp Quốc đă đồng ư
triển hạn cho các quốc gia kết ước
hay gia nhập Công Ước trước ngày 13-5-1999
(như Việt Nam) được có thời hạn
10 năm nghĩa là đến ngày 13-5-2009 để
đệ đơn yêu cầu mở rộng
thềm lục địa từ 200 hải lư đến
350 hải lư.
Quyết định này căn cứ vào hai sự
kiện sau đây:
1. Mặc dầu Công Ước đă có hiệu
lực chấp hành từ tháng 11-1994, vậy mà 3 năm
sau, măi tới tháng 5-1997, các ủy viên trong Ủy
Ban Phân Định Thềm Lục Địa mới
được tuyển chọn.
2. Hơn nữa, măi tới ngày 13-5-1999 Ủy Ban Phân
Định mới soạn thảo và công bố Cương
Lĩnh hướng dẫn các quốc gia hội viên
về các tiêu chuẩn phải khai tŕnh về
mặt chuyên môn và về khoa học kỹ thuật.
V́ có sự chậm trễ 5 năm, Ủy Ban Phân
Định đă đồng ư cho triển hạn thêm
5 năm (từ ngày 16-11-2004 đến ngày 13-5-2009)
để các quốc gia hội viên đệ
nạp hồ sơ.
Điều đáng lưu ư là đơn thỉnh
nguyện có thể chưa viện dẫn đầy
đủ các dữ kiện và yếu tố theo các
tiêu chuẩn ghi trong Cương Lĩnh về Khoa
Học Kỹ Thuật ngày 13-5-1999 của Ủy Ban Phân
Định. Trong trường hợp này các quốc
gia đệ đơn có thể dành quyền sẽ
xuất tŕnh thêm tài liệu về những yếu
tố và dữ kiện bổ túc để kiện
toàn hồ sơ.
V́ những lư do nêu trên, cũng như năm 1995,
một lần nữa, Ủy Ban Luật Gia Việt
Nam Bảo Vệ Dân Quyền cảnh giác và
khuyến cáo nhà cầm quyền Hà Nội đệ
đơn thỉnh nguyện tại Ủy Ban Phân
Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp
Quốc trong thời hạn luật định, nghĩa
là trước ngày 13-5-2009.
Mục đích để bảo vệ và tranh
thủ tối đa chủ quyền lănh thổ
của Việt Nam tại các thềm lục địa
nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Cùng đồng bào trong và ngoài nước, Ủy
Ban Luật Gia sẽ quan tâm theo dơi thái độ, hành
động và tinh thần trách nhiệm của nhà
cầm quyền Hà Nội trong việc thi hành
nhiệm vụ lịch sử này. Nếu c̣n ngoan
cố hay bất lực, bất cứ v́ lư do ǵ, Chính
Phủ và Đảng Cộng Sản sẽ phải
chịu tội trước Quốc Dân và Lịch
Sử.
Làm tại Hải ngoại ngày 20-2-2009
T.M. Ủy Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân
Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống