Cuộc
chiến kinh tế Mỹ – Trung Jeffrey
D. Sachs Đỗ Kim Thêm dịch |
Lời
người dịch:
Trong bài viết sau đây,
tác giả Jeffrey D. Sachs đưa ra ba luận điểm
thiếu thuyết phục. Một là, nền kinh tế
Trung Quốc đ́nh đốn, phần lớn là do
Mỹ gây ra nhằm làm chậm mức tăng trưởng
của Trung Quốc. Làm như vậy, Mỹ đă vi
phạm các quy tắc của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và là mối nguy hiểm cho
sự thịnh vượng trên toàn cầu. Do đó,
Mỹ nên dừng lại. Cuộc
thương chiến giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không
chỉ Hoa Kỳ đơn phương gây ra và c̣n
tiếp diễn. Cả hai đang tận dụng mọi
ưu thế để cải thiện vị thế
của ḿnh. Ai sẽ có khả năng làm cho đối
phương suy yếu kinh tế, c̣n cần nhiều
thời gian và nỗ lực. Các chính sách ngăn
chận của Trump và Biden đă có kết quả
tốt đẹp. Ai sẽ thắng cử trong năm
2024 cũng phải tiếp tục phát huy thành quả này.
Nếu Hoa Kỳ đơn phương dừng lại các
thành tựu này, hiển nhiên sẽ không khả năng
cạnh tranh với Trung Quốc, mà ngược lại,
Trung Quốc sẽ nâng cao vị thế siêu cường,
nhất là hiện nay, Trung Quốc có nhiều đối
tác thương mại hơn là Hoa Kỳ và các nước
này được hưởng lợi từ đầu
tư và thương mại của Trung Quốc. Hai
là, trong quá khứ, Mỹ đă cố t́nh làm chậm
lại t́nh trạng tăng trưởng kinh tế
của Nhật Bản. Hiện nay, lịch sử tái
diễn, Mỹ đang nhắm mục tiêu vào Trung
Quốc. So sánh Trung Quốc hiện nay với Nhật
Bản trước đây, Jeffrey D. Sachs chẩn đoán
thiếu cơ sở. Mức sống của dân Nhật
vào năm 1990 tương đương 60% của Hoa
Kỳ; của dân Trung Quốc ngày nay là dưới 20%. Không
giống như Nhật Bản, Trung Quốc đang
phải chịu đựng nhiều vấn đề
nghiêm trọng hơn ngoài yếu tố cung cầu không
cân bằng và nợ nần chồng chất, thí dụ
như lăo hoá dân số, những thất bại trong
hoạch định chính sách kinh tế sau khi Chủ
tịch Tập Cận B́nh tập trung quyền lực.
Do đó, t́nh trạng tăng trưởng chậm
ở Trung Quốc sẽ c̣n tồi tệ hơn và lâu
dài hơn, có nghĩa là, người dân Trung Quốc
trở nên nghèo hơn dân Nhật. Ba
là, để giải quyết vấn đề đ́nh
trệ, Trung Quốc sẽ t́m kiếm các đối tác
khắp thế giới để hỗ trợ tiếp
tục cho việc mở rộng thương mại và
tiến bộ công nghệ. Thuận
lợi nhất hiện nay cho Trung Quốc là đang
thống trị nhóm BRICS khi nền kinh tế Trung
Quốc lớn hơn Brazil, Nga, Ấn Độ và Nam
Phi cộng lại. Trung Quốc cũng đang là một
đối tác kinh tế và thương mại quan
trọng đối với tất cả các nước
khác. Tại hội nghị thượng đỉnh
ở Johannesburg, Nam Phi tháng 8/2023, BRICS đă quyết
định kết nạp thêm sáu thành viên mới
gồm Saudi Arabia, Iran, các Tiểu vương quốc
Ả Rập Thống nhất, Argentina, Ai Cập và
Ethiopia sẽ gia nhập vào ngày 1/1/2024. Với sự
kết nạp này, BRICS sẽ tăng gấp đôi quy mô
và vị thế địa chính trị và kinh tế. Có
khoảng 40 quốc gia loan báo, sẽ quan tâm đến
tư cách thành viên, đặc biệt trong số đó
có Algeria, Kuwait, Bangladesh, Venezuela và Thái Lan. Nh́n
chung, trong bối cảnh hiện nay, BRICS là dấu
hiệu của sự tự tin mới, không c̣n chấp
nhận mô h́nh trật tự phương Tây, quan tâm
đến việc thiết lập các quy tắc mới
trong chính sách tài chính, thương mại và kinh tế
quốc tế. Nhưng BRICS là một cơ chế c̣n
lỏng lẻo, không có sự hiểu biết chung
về chính sách an ninh, nhất là chưa có sự đồng
thuận cho Trung Quốc lănh đạo trong hai lĩnh
vực chính trị và tiền tệ. Sau đây lả
bản dịch: *** Nền
kinh tế Trung Quốc đang đ́nh trệ. Các dự
báo hiện tại cho thấy tăng trưởng GDP
của Trung Quốc trong năm 2023 ở mức dưới
5%, thấp hơn so với dự báo được
đưa ra hồi năm ngoái và thấp hơn
nhiều so với các tốc độ tăng trưởng
cao mà Trung Quốc có được cho đến
cuối thập niên 2010. Báo chí phương Tây loan tin
tràn ngập về những hành vi được cho là
sai trái của Trung Quốc: Một cuộc khủng
hoảng tài chính trên thị trường bất động
sản, nợ nần chồng chất và các căn
bệnh khác. Tuy nhiên, phần lớn sự đ́nh
đốn là kết quả của các biện pháp
của Mỹ nhằm làm chậm tăng trưởng
của Trung Quốc. Các chính sách như vậy của
Mỹ vi phạm các quy tắc của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và là mối nguy hiểm cho
sự thịnh vượng trong toàn cầu. Họ nên
dừng lại. Các
chính sách chống Trung Quốc xuất phát từ
một kịch bản quen thuộc trong việc hoạch
định chính sách của Mỹ. Mục đích là
để ngăn chặn sự cạnh tranh kinh tế và
công nghệ từ một đối thủ quan
trọng. Ứng dụng đầu tiên và rơ ràng
nhất của vở kịch này là sự phong tỏa công
nghệ mà Mỹ áp đặt lên Liên Xô trong thời
Chiến tranh Lạnh. Mỹ tuyên bố, Liên Xô là
kẻ thù của Mỹ và chính sách của Mỹ
nhằm ngăn chặn Liên Xô tiếp cận các công
nghệ tiên tiến. Ứng
dụng thứ hai của vở kịch ít rơ ràng hơn,
và trên thực tế, thường bị ngay cả
giới quan sát am tường thông qua. Vào cuối
thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, Mỹ
đă cố t́nh t́m cách làm chậm lại t́nh
trạng tăng trưởng kinh tế của Nhật
Bản. Điều này có vẻ đáng ngạc nhiên, v́
Nhật Bản đă đang là đồng minh của
Mỹ. Tuy nhiên, Nhật Bản trở nên “quá thành công”,
khi các doanh nghiệp Nhật Bản cạnh tranh với
các doanh nghiệp Mỹ trong các lĩnh vực then
chốt, bao gồm chất bán dẫn, điện
tử tiêu dùng và ô tô. Thành công của Nhật đă
được ca ngợi rộng răi trong những
cuốn sách bán chạy nhất, như Japan
as Number One của Giáo sư Harvard Ezra Vogel,
một đồng nghiệp tuyệt vời của tôi
đă qua đời. Từ
giữa đến thập niên 1980, các chính trị gia
Mỹ hạn chế hàng xuất khẩu của
Nhật Bản vào thị trường Mỹ (thông qua cái
gọi là các giới hạn “tự nguyện” đă
thỏa thuận với Nhật Bản) và thúc đẩy
Nhật Bản định giá quá cao đồng
tiền của ḿnh. Đồng Yên Nhật tăng giá
từ khoảng 240 Yên mỗi đô la trong năm 1985 lên
128 Yên một đô la năm 1988 và 94 Yên so với đô
la năm 1995, định giá hàng hóa Nhật Bản
nhằm nhăn chận ra khỏi thị trường
Mỹ. Nhật Bản rơi vào suy thoái khi tăng trưởng
xuất khẩu sụp đổ. Từ năm 1980 đến
năm 1985, xuất khẩu của Nhật Bản tăng
7,9% hàng năm. Từ năm 1985 đến năm 1990, tăng
trưởng xuất khẩu giảm xuống c̣n 3,5% hàng
năm; và từ năm 1990 đến năm 1995,
xuống c̣n 3,3% mỗi năm. Khi tăng trưởng
chậm lại rơ rệt, nhiều doanh nghiệp
Nhật rơi vào t́nh trạng khó khăn tài chính,
dẫn đến phá sản tài chính vào đầu
thập niên 1990. Vào
giữa thập niên 1990, tôi đă hỏi một trong
những quan chức có quyền lực nhất trong chính
phủ Nhật Bản rằng tại sao Nhật không phá
giá đồng tiền để thiết lập t́nh
trạng tăng trưởng. Câu trả lời của
ông ta là, Mỹ sẽ không cho phép làm điều đó. Hiện
nay, Mỹ đang nhắm mục tiêu vào Trung Quốc.
Bắt đầu từ khoảng năm 2015, giới
hoạch định chính sách của Mỹ coi Trung
Quốc là mối đe dọa hơn là đối tác
thương mại. Sự thay đổi quan điểm
này là do thành công kinh tế của Trung Quốc. Sự
trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc thật
sự bắt đầu báo động các chiến lược
gia Mỹ khi Trung Quốc công bố năm 2015, chính sách
“Made in China 2025” để thúc đẩy sự
tiến bộ của Trung Quốc lên đỉnh cao
của các người máy, công nghệ thông tin, năng
lượng tái tạo và các công nghệ tiên tiến
khác. Cùng thời gian đó, Trung Quốc công bố Sáng
kiến Vành đai và Con đường để giúp
xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại
trên khắp châu Á, châu Phi và các khu vực khác, chủ
yếu sử dụng tài chính, các doanh nghiệp và công
nghệ của Trung Quốc. Mỹ
đă phủi bụi khỏi vở kịch cũ để
làm chậm lại sự tăng trưởng đang tăng
vọt của Trung Quốc. Tổng thống Barack Obama
lần đầu tiên đề xuất thành lập
một nhóm thương mại mới với các nước
châu Á, sẽ loại trừ Trung Quốc, nhưng
ứng cử viên tổng thống Donald Trump đă đi
xa hơn, hứa hẹn chủ nghĩa bảo hộ hoàn
toàn chống lại Trung Quốc. Sau khi thắng cử năm
2016 trên nền tảng chống Trung Quốc, Trump đă
áp đặt thuế quan đơn phương đối
với Trung Quốc, vi phạm rơ ràng các quy tắc
của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Để bảo đảm WTO không ra phán
quyết chống lại các biện pháp của Mỹ,
Mỹ đă vô hiệu hóa cơ chế ṭa hoà giải
WTO bằng cách chặn việc bổ nhiệm các
thẩm phán mới. Chính quyền Trump cũng chặn các
sản phẩm từ các công ty công nghệ hàng đầu
của Trung Quốc như ZTE và Huawei và kêu gọi các
đồng minh của Mỹ làm điều tương
tự. Khi
Tổng thống Joe Biden nhậm chức, nhiều người
(gồm cả tôi) kỳ vọng Biden sẽ đảo
ngược hoặc nới lỏng các chính sách
chống Trung Quốc của Trump. Điều ngược
lại đă xảy ra. Biden đă tăng gấp đôi,
không chỉ duy tŕ thuế quan của Trump đối
với Trung Quốc, mà c̣n kư các sắc lệnh hành pháp
mới nhằm hạn chế Trung Quốc tiếp
cận công nghệ bán dẫn tiên tiến và đầu
tư của Mỹ. Các doanh nghiệp Mỹ được
khuyên một cách không chính thức nên chuyển
chuỗi cung ứng của họ từ Trung Quốc sang
các nước khác, một quá tŕnh được dán
nhăn “friend-shoring” thay v́ thuê ngoài. Khi thực hiện
các biện pháp này, Mỹ hoàn toàn xem thường các
nguyên tắc và thủ tục của WTO. Hoa
Kỳ phủ nhận mạnh mẽ rằng, họ
đang trong một cuộc chiến kinh tế với
Trung Quốc, nhưng như câu ngạn ngữ cũ,
nếu nó trông giống như một con vịt, bơi
như một con vịt và kêu như một con vịt,
nó có thể là một con vịt (ám chỉ một người
thiếu lương thiện khi thể hiện các
kỹ năng vụng về: ND). Hoa Kỳ đang sử
dụng một chiến thuật quen thuộc, và các chính
trị gia ở Washington đang viện dẫn những
lời hùng biện quân sự, gọi Trung Quốc là
kẻ thù phải được kiềm chế
hoặc đánh bại. Kết
quả được nh́n thấy trong sự đảo
ngược xuất khẩu của Trung Quốc sang
Mỹ. Trong tháng 1/2017 khi Trump nhậm chức, Trung
Quốc chiếm 22% lượng hàng hóa nhập khẩu
của Mỹ. Vào thời điểm Biden nhậm
chức vào tháng 1/2021, thị phần nhập khẩu
của Trung Quốc tại Mỹ đă giảm
xuống c̣n 19%. Tính đến tháng 6/2023, thị
phần nhập khẩu của Trung Quốc tại
Mỹ đă giảm mạnh xuống c̣n 13%. Từ tháng
6/2022 đến tháng 6/2023, nhập khẩu của
Mỹ từ Trung Quốc đă giảm tới 29%. Tất
nhiên, các động lực của nền kinh tế
Trung Quốc rất phức tạp và hầu như không
được thúc đẩy bởi thương
mại Trung Quốc-Mỹ. Có lẽ xuất khẩu
của Trung Quốc sang Mỹ sẽ phần nào phục
hồi. Tuy nhiên, Biden dường như không thể
giảm bớt các rào cản thương mại
với Trung Quốc trước thềm cuộc bầu
cử năm 2024. Không
giống như Nhật Bản trong thập niên 1990,
vốn phụ thuộc vào Mỹ về an ninh, và do
đó tuân theo các yêu cầu của Mỹ, Trung Quốc
có nhiều không gian hơn để điều động
khi đối mặt với chủ nghĩa bảo
hộ của Mỹ. Quan trọng nhất, tôi tin
rằng, Trung Quốc có thể tăng đáng kể
xuất khẩu sang phần c̣n lại của châu Á, châu
Phi và châu Mỹ La tinh, thông qua các chính sách như
mở rộng Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Đánh giá của tôi là nỗ lực của Mỹ
nhằm kềm chế Trung Quốc, không chỉ sai
lầm về nguyên tắc, mà c̣n thất bại trong
thực tế. Trung Quốc sẽ t́m kiếm các đối
tác trong toàn bộ nền kinh tế thế giới
để hỗ trợ tiếp tục mở rộng thương
mại và tiến bộ công nghệ. |