CUỐI
ĐƯỜNG Trận
đánh cuối cùng ngày QH 30.04.1975
|
“Vinh
quang một đời của người cầm quân
là một món nợ. Bảy
giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi
dừng quân trên một tọa độ cách thủ
đô Sài-G̣n hơn hai chục cây số. Nơi đây
là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ
c̣n một quăng đường ngắn ngủi
nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối
qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-B́nh th́
Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân
đă di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu
Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con
gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24
BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi
Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn
18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng
rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được
với ai. Nửa đêm, th́nh ĺnh máy vô tuyến
đưa lệnh, chẳng hiểu của giới
chức nào, chỉ vắn tắt một câu “Các
đơn vị cấp tốc rút về pḥng thủ
Sài-G̣n!” Mờ
sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-B́nh,
rồi từng bước, rút về hướng
thủ đô, để “pḥng thủ thủ đô”.
Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Ḥa)
th́ mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại
nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng
hai trăm mét, hơn sáu chục người lính
sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82
Biệt Động Quân bơ vơ. Vào
giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách
thắng của Quân Khu 2 c̣n lại chừng nửa
đại đội, với bốn sĩ quan là tôi
(Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy
Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu
mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn,
Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư.
Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy
Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ
huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy
Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước
khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm,
Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban
3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất
lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai
về Long-B́nh ngày hôm qua. Từ
nửa khuya, những đơn vị đồn trú
ở Long-B́nh đă bắt đầu theo cơ
giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang th́
những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên
kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-G̣n.
Giờ này họ đă quay trở lại. Họ
trở lại chùa, vào pḥng, khóa chặt cổng ngoài.
Có một điều lạ lùng, khác với những
lần rút lui từ Quảng-Đức và từ
Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này,
tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy
theo quân đội. Chiếc
xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đă
khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng th́ không
c̣n ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành
phố Biên-Ḥa có lẽ đă rơi vào tay Cộng Quân. Trước
mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng
Sài-G̣n. Cuối trời hướng tây có từng
cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài
túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác
những người bạn Nhảy Dù chết cách
đó một vài ngày c̣n nằm trên sạp tre. Họ
đă hi sinh khi nhổ chốt địch để
lấy lại đoạn đường quanh Cầu
Hang. Tôi không c̣n tâm trí đâu mà lo chôn cất cho
những người bạn đă kiêu dũng nằm
xuống này. Chính tôi cũng không rơ số phận chúng
tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp
tới. Mười
giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi
thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường.
Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo,
Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đă khuất
dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng
Thủ-Đức. Tư lệnh đă quay lại t́m
tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không
kịp gặp nhau. Vào
giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn
Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông
Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi
là “những người anh em” Chỉ trong ṿng
mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi
tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam
hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên
đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng
tự hỏi, -“Có
phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?” -“Sao
chiến tranh lại có thể kết thúc một cách
đột ngột, vô lư, và thê thảm như thế
này?” Chua
xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với
thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm
chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt
mướt, -“Thiếu
Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi!
Hu…hu …hu…” Từ
chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên
đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ.
Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi
thề, quát tháo, than van… Trước
mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ
sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc
lộ, những bộ rằn ri c̣n bố trí, thế
tác chiến sẵn sàng. Những người lính
Biệt Động đang chăm chú nh́n cấp
chỉ huy của họ. Họ nh́n tôi với ánh
mắt của những đứa con nhỏ đang nép
ḿnh trong ḷng mẹ, vào những buổi ngoài trời
giông băo, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen
thuộc lắm. Những khi t́nh h́nh nghiêm trọng,
thuộc cấp của tôi thường chờ đợi
quyết định của tôi với những cái nh́n
kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như
thế này. Trong
mười năm chiến trận, đă có đôi
lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi
lần đơn vị tôi bị dồn vào t́nh
trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt
sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn c̣n
hiện diện, những người lính dưới
quyền tôi vẫn không xiêu ḷng, không bỏ vị trí.
Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người
chỉ huy của họ đă trở thành một h́nh
nhân, bất động. Thực
sự, tôi không biết phải làm ǵ bây giờ. Radio
chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được;
không trả lời được; không hỏi
lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương
Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu?
Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là
thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này,
sau khi giết cụ Diệm để tiếm
chức, đă bị các nhóm khác hất cẳng
về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta
trở thành Tổng Thống Việt- Nam Cộng -Ḥa
được nhỉ? Sao một thường dân có
thể lên làm tổng thống dễ dàng thế
nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho
tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào?
Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai?
Giữa đồng không, tôi đứng chết trân.
Mặt trời lên, thày tṛ chúng tôi lặng lẽ nh́n
nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé
đưa lên quyệt nước mắt. Hướng
Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!…thùng…
thùng… nghe lớn dần… lớn dần. Tới
Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây.
Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác
lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Nam đi
đầu, tiếp đó là cái đầu lân
nhảy múa, rồi một đoàn người điên
cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối
theo sau. Tiếng loa vang vang, -“Hoan
Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!” -
“Hoan hô!…Hoan hô!” Thùng!…
Thùng!… Hoan hô!…Hoan hô!… Thùng!… Thùng!… Tiếng loa
và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá
cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ,
uốn éo trong gió. -“Đù
má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi
thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây
đạn M60 về hướng đoàn múa lân.
Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa
lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn.
Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ
giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng
quăng cờ, ḅ lê, ḅ càng t́m chỗ tránh đạn. -“Thôi!
Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính
cuối cùng của đơn vị. -“Ḿnh
đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?” Thiếu Úy
Thủy băn khoăn hỏi. -“Th́
cứ đi về hướng Sài-G̣n, t́m xem có ai
ở đâu đó, ḿnh nhập vào với họ.” Tôi
trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng
biết ḿnh sẽ dẫn đơn vị đi
về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất
chậm. -“Thùng!…
Thùng!…Hoan hô!…Hoan hô!” , chúng tôi đi được
chừng nửa cây số th́ đoàn múa lân lại
tiếp tục theo sau lưng. -“Hoan
hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ Sĩ Phi
lại đổ quạu. -“Cành!
Cành! Cành!… Cành!… Cành! Cành!” Một dây đạn
đại liên M60 lại quét ngược về đàng
sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao.
Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp
đạn. Cái đầu lân lại bị ném
chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa
lân lại tán loạn chạy chết. Chúng
tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng
Sài-G̣n. Cứ đi được vài trăm mét,
lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào
cho chúng tôi t́m tới đâu mà phải vội vàng?
Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long th́ thằng
Don đưa ống nghe cho tôi, -“Có
Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!” Tôi
nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng
LĐ24/BĐQ, -“Thái
Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe
tới đón chú và con cái về Đường-Sơn
Quán. Các đơn vị đang tập trung ở
đây chờ lệnh!” giọng anh Thanh vẫn b́nh tĩnh,
từ tốn, không có vẻ ǵ là lo lắng. Nghe
ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt
nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một
biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành
lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ
huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo,
nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường
Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào,
trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740.
Những cú nổ ḿn phá ống dẫn dầu, phá xe
tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn
Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối
đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn
quân xâm lăng vào từ phương Bắc. Chuyện
chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu
địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay
súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng
như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ
quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào,
dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay
trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn
nghe được tiếng “Anh Hai” của họ,
từ một đỉnh núi cao nào gần đó.
Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung
với họ để thi hành những nhiệm
vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương
nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn
Đại-Huynh” được chiếu trên màn
ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-B́nh,
ở Pleiku, th́ đàn em của tôi gán cho tôi biệt
danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ v́
tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lư Tiểu Long, tài
tử chính của phim này. Sau
khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP,
đơn vị này bắt đầu đánh giặc
với cái phong thái “Đường-Sơn”
khiến quân thù vừa nghe tên đă khiếp vía. Tôi
ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được
ở Sài-G̣n cũng có cái quán được đặt
tên như trong phim vơ hiệp của Tàu? Tôi mở
miệng định hỏi anh Thanh tọa độ
của Đường-Sơn Quán th́ máy liên đoàn
đă cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên
đường, chờ đợi. Chừng nửa
giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức
chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra
lớn tiếng hỏi, -“Có
phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân
đó không?” -“Phải
rồi! 82 đây!” -“Lên
xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn
Quán!” -“Có
ai ở đó không?” -“Đông
lắm! Có lẽ các ông là những người
tới sau cùng” Xe
trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và
thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu.
Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be
thấp hơn thành xe GMC, không có thế để
đứng, những người lính đành phải
ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười
rất tươi, -“Ḥa
b́nh rồi! Ḥa b́nh rồi! Hết đánh nhau rồi
các anh ơi!” Tôi
là một người lính nhà nghề, nên dù cho “ḥa
b́nh” có ở ngay trước mắt, hiệu
lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi
ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai
khẩu M60, một của Hạ Sĩ Phi, một
của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc
buồng lái của hai chiếc xe be. Xe
đang bon bon trên con lộ vắng th́ khựng
lại, ḅ từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa,
có người dang tay phất phất lá cờ nửa
xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm
lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích
Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu.
Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ
phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương
họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe
của tôi. Xe vừa ngừng th́ hai bên đường
có tiếng la, -“Bắn!
Bắn!… Không cho đứa nào chạy thoát!” Rồi
th́ tiếng súng đủ loại rộ lên. Những
người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai
chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc
lộ trở thành những cái bia sống. “Ḥa b́nh”
rồi, tại sao người ta nỡ đang tay
giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường
về điểm tập trung để buông súng? -“Choác!
Choác! ….Choác!” Tôi
tối tăm mặt mũi v́ loạt đạn
bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc
xe tôi đang ngồi lănh cả chục viên AK của
loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh
văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi.
Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước
xe bể, hơi nước phun “ph́…ph́…” che kín
đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường.
Sau một cái lạng ḿnh, tôi đă ở đàng sau
thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên
về hướng thằng du kích. Viên đạn
trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy
khỏi xe, té trên mặt đường. H́nh như
anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy
được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh, -“Đưa
tao!” Tôi
kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi ṇng. Tên du
kích giăy giụa trên vũng máu. Lá cờ
Mặt-Trận phủ trên ḿnh thằng du kích. Tôi
ghếch mũi súng về lề phải con đường,
nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nă
đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”
một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi
cảm nhận rơ ràng nhiều mảnh B40 và đá,
sỏi đă ghim vào cẳng ḿnh. Chủ nhân khẩu
M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái
đầu; máu từ cổ anh xịt thành ṿi;
phần thân thể c̣n lại của anh giựt
giựt trên mặt lộ. Khẩu
B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường.
Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40
quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục
siết c̣. Địch đông lắm. Chúng đứng
lố nhố trong vườn có những luống
đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại
vào đây cũng có thể hạ gục cả
chục tên. Chúng
tôi không dự trù sẽ vướng vào một
cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên
cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không
biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi,
đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm
tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua,
ở Long-B́nh, chúng tôi có cả kho đạn lận
lưng cho ngày hôm nay. Đạn
địch từ hai bên đường trước
mặt tôi tưới như mưa vào những người
lính c̣n đứng trên xe. Những thân h́nh rằn ri
rơi rụng xuống mặt lộ. Có người
chân vừa chạm đất, đă lăn ra
chết. Có đôi người vừa nhảy ra
khỏi sàn xe, c̣n lơ lửng trên không, tay đă bóp
c̣, nă đạn về hướng địch.
Hầu như ai cũng lo bóp c̣. Không ai để ư
đến thân thể ḿnh đă trúng thương nơi
đâu. Hạ
Sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe,
tay trái anh đă trúng đạn, xuội lơ, tay
phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu,
mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn
địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay c̣n
lại, anh liên tục bắn hết băng đạn
này, tới băng đạn khác. Lựu đạn
miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn
cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành!
Cành!…” -“Choác! Choác!…” – “Xoẹt!
Xoẹt!…” -“Oành! Oành!…” Hai bên đường,
địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác
Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn
ngang. -“Cành!
Cành! Cành!…” Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải
từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như
người mất trí, -“Đù
má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi
mi cũng chết!” Trưa
Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối
của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn
chiến loạn đả xà bần đă diễn ra
giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra
đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người
dân thường, liều mạng chạy vào khu giao
tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương
đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên
của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nh́ đă được
di chuyển xuống lề đường. Điều
lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là
hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười
ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ
xạ thủ và tải đạn của Tài đă
bị loại ra ngoài ṿng chiến. Đạn
nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay
lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân
chết. Dân chúng cũng chết! Những người
lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng
2, ruột đổ ḷng tḥng vẫn ôm súng bắn như
khùng, như điên. Hết đạn, những con
cọp giăy chết đành dùng tất cả những
ǵ cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm,
gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả…răng
cũng được xử dụng. Trong phút giây
tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam
Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật
lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé… Binh
Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước
khi chết, c̣n cố ôm cứng một thằng địch
để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người
đó là chú Cường, v́ cái khăn len xanh cố
hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn
của người t́nh phụ). Tôi
đă bắn hết số đạn mang theo trên lưng
người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi
vừa rướn người, quơ quào được
một băng M16 trên sàn xe th́ đạn 12,7 ly
của địch từ xa ào ào bắn tới. Có
tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe, -“Thái
Sơn ơi! H́nh như tank tới !” -“Làm
ǵ có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!” Đạn
pḥng không của Việt-Cộng quét sát mặt
đường nhựa, toé lửa khi nổ lần
thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai
lần), chui qua thân người bị đạn,
hất thân ḿnh người đó lên khỏi mặt
đất, đục những lỗ to như bàn tay
trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là
cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây.
Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đă găy nát. Hạ
Sĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng
vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm
bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên
mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng
thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên
tôi, không c̣n khẩu M16 nào hoạt động.
Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ
nhứt có lẽ đă chết gần hết.
Những người đi trên xe thứ nh́ đang là
mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút
chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ.
Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn
cũng nhiều. Súng
của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn
ra giữa đường để nhặt khẩu AK
và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại
liên của Trung Sĩ Tài đă găy làm đôi. Hai em bé
tải đạn cho Tài đều chết v́ trúng
đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên
vũng máu. Tôi lăn ḿnh vài ṿng, tới bên Tài. Tài
nh́n tôi, thều thào, -
“Chạy đi!…Ông thày…chạy đi!…” Tôi
định xốc Tài lên để d́u anh vào lề
đường th́ hai mắt anh đă lạc. Đạn
bay xém bên ḿnh tôi, nổ “toang toác!” trên mặt
lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc
sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên
trái quốc lộ. -“Anh
em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!”
đó là tiếng Trung Úy Trâm. “Toác!Toác!”-
“Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi
cắm đầu chạy. Chạy được
một đỗi th́ tôi đuối sức, lảo
đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm
khỏe như một đô vật. Trâm cơng tôi, nhanh
chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết
vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng
tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân
tôi vướng gốc rạ. Tôi ngă bổ nhào trên
mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ
chơi của trẻ con vương văi đó đây.
Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi
bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng
bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt
nhớ tới gia đ́nh vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột.
Chắc vợ con tôi đă chết hết. Tôi nghĩ
tới đất nước tôi. Đất nước
tôi đă mất. Đơn vị tôi đă tan tác.
Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên
như con thú, -“Ôi!…Ôi!…
Ông Trời ơi!…Ông Trời ơi!…ơi…ơi…” Tôi
rút khẩu súng Colt ra, kê ṇng súng vào mang tai ḿnh, bóp c̣.
Bàn tay như sắt nguội của Trung Úy Trâm
phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên
trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng. -“Trâm
ơi ! Làm ơn! …Cho anh chết! Trâm ơi!…” Nước
mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn.
Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm ĺ,
xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn c̣n
lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn
lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm
lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ
sắt của tôi, của anh, vứt trên một g̣
mả. Trâm từng bước d́u tôi về hướng
xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên
yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi
đâu th́ đi. Chúng tôi vừa đụng đầu
một con lộ đất th́ một nông dân đạp
xe tới chặn đường, -“Ông
Thiếu Tá bị thương hả?” Thói
quen, ngược đời, đi trận tôi thường
đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen.
Người dân đă nh́n thấy cặp lon trắng
của tôi. Ông cụ có vẻ động ḷng, -“Ông
Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy
đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt
đâu!” -“Cám
ơn cụ!” Trâm
lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay
người dân tốt bụng. Con
lộ đất dẫn tới một văn pḥng
Hội Đồng Xă, cửa đóng, khóa ngoài.
Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà
thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố
nhố nhiều người đang tập trung.
Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng
ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng
đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị
cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay
giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi
thở dài, -“Cởi
quân phục vứt đi th́ chỉ c̣n cái áo mayor
với cái quần xà-lỏn. Ḿnh làm sao đây, Thái Sơn?” Tôi
rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc
rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng
thẳng đứng. Đưa ṇng súng vào dưới
cằm. Lách ngón chân vào c̣ súng. Nhấn ngón chân
xuống. Thế là xong!” Tôi
đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự
giải thoát nữa, th́ chú Trâm van lơn, -“Thày
ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày
ơi! “ Trung
Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như
một đứa bé. Thày tṛ tôi ôm nhau. “Hu … hu…
hu….” Những
người đứng gần đó, bị nỗi
đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc
theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà
thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một
đám ma không có người chết, mà những người
đang đứng đây, chẳng có họ hàng ǵ
với nhau, nh́n nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc
vùi. Một
thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng
Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói
nhỏ, -“Thiếu
Tá lên xe, em chở đi trốn.” Trâm
đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo. -“Chúng
nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt
được mấy anh lính bị thương, tra
khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai,
đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc
chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác
Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ
đưa Thiếu Tá đi dấu. Không để cho
chúng nó bắt.” Xe
chạy trong đường làng quanh co một đỗi
th́ ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa
một căn nhà gỗ, mái dừa, -“Mẹ
ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa
cho con!” Cánh
cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư, -“Đánh
nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn
ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho
tao đỡ lo!” -“Vâng
con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai
hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ.
Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, cḥm
xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc.
Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng
lo!” Bà
mẹ nh́n tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng
tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà
cụ không dài ḍng hỏi han. Cụ đưa tay
chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà, -“Hai
đứa lấy quần áo ‘si-vin’ của thằng
Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà
binh cho tao đi dấu!” Thoáng
chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ
Bắc Kỳ đă chôn hai bộ rằn ri dưới
bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên
(Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm
ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động
tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối
đáp, -“Anh
kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy
chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh
gặng hỏi. -“Có!
Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức.
Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ
cây dừa nghiêng…” Tên
Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà.
Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không, -“Chứ
hai anh kia làm chi rứa? “ -“Anh
Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh
miệng. -“Thưa
ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung.
Tụi nó mới đào ngũ về nhà được
mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ
phân trần. Thằng
Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn,
nó ra lệnh, -“Nhanh
lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây
dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các
đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có
súng!” Rồi
tiếng chân người huỳnh huỵch chạy
đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc
đưa cho chúng tôi ăn đỡ ḷng. Anh Hải
rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về, -“Thiếu
Tá đi được rồi! Quân của chúng nó
đi hết rồi.” -“Hai
con có c̣n tiền để đi xe về quê không?
Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần. -“Cám
ơn bác. Chúng cháu c̣n tiền đây. Chúng cháu
mới lănh lương. Mải lo đánh nhau, chưa
tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không
nên lời. Bà già nh́n chúng tôi, ánh mắt bà chứa
ẩn một tấm t́nh thương xót bao la. -“Thưa
Mẹ! Con đi!” -“Thưa
Mẹ! Con đi!” -“Anh
đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!” Lần
đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi
là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng,
như thể bà đă là Mẹ tôi, đă sinh ra tôi.
Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ
ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi
về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng
tôi, Mẹ và chú Hải c̣n trông theo. Hai
đứa tôi nhanh chân nhập vào ḍng người hướng
về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có
tiếng gọi, -
“Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Th́
ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn
Thủy. Ba thày tṛ tôi không dám lớn tiếng hỏi
han nhau về những ǵ đă trải qua. Chúng tôi
đi như những người dân chạy loạn
đang t́m đường về nhà, sau khi im tiếng
súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa
đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở
dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố
đă xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng
Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân
nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám
đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng
đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát.
Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên
đường phố. Tới
chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón
được chiếc xe Lamb chạy đường
Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng
một người. Chiếc xe Lamb ḅ ́ ạch v́ quá
tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người
bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang
chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi
nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà
lỏn đang đi dưới đường, có
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó
Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ
anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn
Quán (?) C̣n
cách ngă ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm
mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ ṿng qua
một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc
lộ, v́ giữa đường có một chiếc
tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản
Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe
cộ qua lại đoạn đường này.
Lội hết vạt ruộng th́ thày tṛ tôi tới
xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và
xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng
về Sài-G̣n. Sau khi cuốc bộ một đỗi,
chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi
lẫn trong biển người xuôi ngược. Chúng
tôi về tới Thị-Nghè th́ mặt trời xế
bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41
đứt xích v́ B40. Chiếc chiến xa nằm
bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp,
có vết máu đă khô, nhưng không thấy xác người
chết. Bên cạnh đó, vương văi vài bộ
quân phục Việt-Nam Cộng-Ḥa, dây đạn, nón
sắt, ba lô… Tôi
không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc t́nh h́nh
lộn xộn, cḥm xóm biết ḿnh là sĩ quan QLVNCH,
sinh chuyện không hay. Để hai người đàn
em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người
quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân
của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ
quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Pḥng Vệ Toà
Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ
gia đ́nh bạn tôi đă di tản rồi. Tôi
trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua
cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong
phố, người qua lại nườm nượp.
Bên lề đường, sát tường rào Sở
Thú, những người đi hôi của đang bày bán
đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách
truyện, tranh ảnh, rượu bia… Quên
đời? Chỉ c̣n cách uống rượu. Năm
trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày tṛ tôi
kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy
tay chận một chiếc xích lô máy để vào
Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước;
vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm
giềng không biết ḿnh là ai; vừa t́m xem chú Phước
c̣n hay mất. Chiều
rồi, nhưng nhà chú Phước c̣n mở cửa.
Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia
Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán
Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước.
Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất
th́ Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy
tôi, -
“Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Th́
ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng
Tư, Phước bị tụt lại đàng sau,
mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước
không biết chúng tôi rẽ vào Long-B́nh. Phước
đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-G̣n. Đêm
30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba
chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay
đợt tấn kích đầu của địch,
chiếc xe thứ nh́ đă bị thương và
chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương
đă được dân chúng di tản đi cứu
cấp. Thiếu Úy Thủy đă cố gắng
mở một mũi bọc hông phải để
giải tỏa áp lực địch nhưng không thành
công, v́ địch quá đông. Đến lúc khẩu
pḥng không 12,7 ly của địch tham chiến th́
Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó
Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần
áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, h́nh như
chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu,
không rơ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm
1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để
làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng
tôi không c̣n dịp gặp lại nhau nữa. Thời
gian trôi… Mười
ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư,
đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ
sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên
Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh
Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già,
nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một
cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô
Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái
dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm,
một bà người Xứ Quảng đă mau mắn
trả lời, -“Đi
rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm
rồi!” -“Xin
cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” anh Bắc-Kỳ
mừng rỡ. Bà
chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nh́n
anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ư anh. Anh
bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ
đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông
lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh
giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có c̣n
nhận ra anh không? Qua
văn pḥng Ủy-Ban Nhân-Dân Xă, đến Quốc
Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên
đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ
cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng
ngày này, mười ba năm trước, các chiến
sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân
đă tả xung hữu đột trong trận đánh
đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người
nằm xuống đă sang thế giới bên kia trong quân
phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo,
phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có
chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân
chúng trong vùng c̣n nhớ tới họ, nên cắm
vội bên đường đôi bó nhang, hương
khói. Anh
bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng, -“Các
chú tha lỗi cho anh…” Hai
bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những
cây bạch đàn lớn lên từ ḷng đất
từng thấm đẫm máu của những anh hùng
Plei-Me. H́nh như trong gió, thoảng như ru, có
tiếng ai, thiết tha, năo nuột, -“Thày
ơi! Chạy đi!… Thày ơi!…” Ngồi
bên b́a rừng, đôi mắt Đường-Sơn
Đại-Huynh đẫm lệ… Vương Mộng Long |