Chiến Trường Đông Dương 1965-1975 Viết
Bởi Nhà Sử Học Michael Lind Phạm Văn Tuấn chuyển ngữ |
||||
1/
Leo Thang Chiến Tranh.
Các
lực lượng bộ binh Hoa Kỳ bắt đầu
giao chiến với các đơn vị Việt Cộng
từ cuối mùa hè và đầu mùa thu năm 1965. Khi
quân đội Hoa Kỳ đổ vào miền Nam
Việt Nam, các rối loạn chính trị tại Saigon
chấm dứt. Một cuộc đảo chính đă
đưa hai sĩ quan là Nguyễn Cao Kỳ và
Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền, và là
những người cai trị miền Nam trong một
thập niên cho tới lúc cáo chung. Trong cuộc tranh luận giữa chính
quyền và giới quân sự Mỹ về chiến
thuật và chiến lược, phe thắng thế là
những người nhấn mạnh vào kiểu
chiến tranh quy ước, hơn là dùng chiến lược
b́nh định hay chống nổi loạn. Bắt
đầu từ ngày Giáng Sinh năm 1965, chính quyền
Johnson ngưng ném bom Bắc Việt trong 37 ngày. Không
lực Hoa Kỳ đă bay 55,000 lần, tấn công các
mục tiêu trong miền Bắc. Trong cuộc tranh
luận giữa chính quyền và giới quân sự
Mỹ về chiến thuật và chiến lược,
phe thắng thế là những người nhấn
mạnh vào kiểu chiến tranh quy ước, hơn là
dùng chiến lược b́nh định hay chống
nổi loạn. Tham gia lực lượng Hoa Kỳ
tại Việt Nam c̣n có các nước đồng minh
trong vùng, gồm cả Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan và
Phi Luật Tân. Tại
Indonesia, hai triệu đảng viên cộng sản, rơ ràng
là do sự khuyến khích của Sukarno và Mao, đă phát
động một cuộc đảo chánh nhắm vào các
nhà lănh đạo quân sự chống cộng. Một
cuộc phản đảo chánh do phe quân đội
đă trở thành cuộc tàn sát trong đó từ 12
tới 100 ngàn người bị giết hại. Sukarno
bị tước quyền, thay thế bởi Suharto,
một tướng lănh cai trị Indonesia tới năm
1998. Dưới thời Suharto, Indonesia cắt đứt
liên lạc với Trung Cộng và theo đuổi
một chính sách trung lập ngả về Hoa Kỳ. Giấc
mộng của Mao về một phần đối
trọng với Liên Hiệp Quốc và về một
trục Bắc Kinh- Jakarta đă bị thu nhỏ
lại. Tới lúc này, Mao hướng về trong nước,
phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa, một
cuộc thanh trừng cực đoan kiểu Stalinnít,
khiến cho t́nh trạng của nước Trung Hoa
giống như gặp nội chiến. Một năm
sinh sống trong nguy hiểm đă trở thành “một
năm ghê sợ” (annus horribilis) cho Bắc Kinh. Tới
lúc này, Hoa Kỳ, Trung Cộng và Liên Xô tham dự vào
cuộc xung đột ủy nhiệm cao nhất trong
cuộc Chiến Tranh Lạnh kể từ cuộc
Chiến Tranh Triều Tiên. Trong khi Hoa Kỳ chống
cự để không bị làm nhục khi bảo
vệ các nước nhỏ, Trung Cộng và Liên Xô
cạnh tranh với nhau v́ uy tín trong khối cộng
sản và trong thế giới đang phát triển. Trong
các năm từ 1965 tới 1968, Trung Cộng cung cấp
yểm trợ lớn lao cho Bắc Việt. Ngoài
việc tiếp tế cho Hà Nội các dụng cụ quân
sự và đồ dùng dân sự, chính quyền Mao
đă phái các toán pháo binh pḥng không qua miền Bắc
Việt Nam. Quan trọng hơn nữa theo lời yêu
cầu của Hà Nội, Trung Cộng gửi qua các toán
công binh để sửa chữa và nới rộng
hệ thống xe lửa của Bắc Việt để
cho hệ thống này không bị bất khả dụng
do việc oanh tạc của Hoa Kỳ. Các toán quân Trung
Cộng cũng giúp cho Bắc Việt rảnh tay để
họ qua đồn trú tại Lào và chuyển các
tiếp liệu xuống đường ṃn Hồ Chí
Minh. Từ
tháng 6 năm 1965 tới cuối năm 1969, các đạo
quân tiếp liệu Trung Cộng đă xây dựng xong
20 nhà ga xe lửa mới, 39 cây cầu mới, 14
đường hầm, 117 cây số đường
sắt mới và đă sửa chữa xong 362 cây số
các đường xe lửa cũ. Tổng cộng,
Trung Cộng đă gửi đi 327,000 quân tới
Bắc Việt. Theo như nhà sử học Trần
Kiến (Chen Jian) nhận xét: “mặc dù sự yểm
trợ của Bắc Kinh không đúng theo các mong đợi
của Hà Nội, nhưng nếu không có yểm trợ
này, lịch sử và ngay cả các thành quả của
cuộc Chiến Tranh Việt Nam sẽ khác đi”. (Chen
Jian, “China’s Involvement,” pp. 372-380). Vào tháng
10 và tháng 11 năm 1966, nhân vật thứ hai trong
chế độ Hồ Chí Minh là Lê Duẩn đă
hội đàm với các nhà lănh đạo Trung
Cộng tại Bắc Kinh. Chu Ân Lai thúc dục Bắc
Việt tiếp tục chiến tranh tối thiểu
tới năm 1968. Sáu tháng sau đó, do c̣n e ngại
rằng Bắc Việt sẽ thương thuyết
với Hoa Kỳ, các viên chức Trung Cộng bắt Vơ
Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng phải hứa
với họ “một cách nghiêm chỉnh” rằng
Bắc Việt sẽ không chấm dứt chiến tranh. Tuy
nhiên để có thể tiếp tục chiến tranh,
Bắc Việt cần các vơ khí và trang bị mà Trung
Cộng không thể cung cấp. V́ thế Đồng và
Giáp đă dẫn một phái đoàn khác qua Moscow vào tháng
4 năm 1967. Mặc dù các mối nghi ngờ, Liên Xô
đă chọn việc tiếp tế lại cho Bắc
Việt v́ e sợ rằng việc từ chối sẽ
dẫn tới sự gia tăng ảnh hưởng
của Trung Cộng lên Hà Nội. Quả vậy, Liên Xô
đă từng vượt hơn Trung Cộng như là
nhà cung cấp trợ giúp quân sự lớn nhất cho
Bắc Việt. Thời gian giữa các năm từ 1964
tới 1974, số lượng trợ giúp cho Bắc
Việt lên tới 50 phần trăm trong tổng số
trợ giúp của Liên Xô cho các chế độ
cộng sản vệ tinh (số c̣n lại chia nhiều
hơn cho Cuba và Bắc Triều Tiên). Từ
năm 1965 tới 1968, có tới 3,000 cố vấn Liên Xô
tham dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Ramesh
Thakur and Carlyle A. Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam
(London:Macmillan, 1992), p.117). Họ dạy cho binh lính
Bắc Việt cách dùng các dụng cụ do Liên Xô cung
cấp, điều hành hệ thống pḥng không ở
dưới đất và cũng tham dự vào các
chiến trận chống lại người Mỹ và
người miền Nam Việt Nam. Chính quyền Xô
Việt cẩn thận che dấu cách bành trướng
tham gia vào Đông Dương, ngăn cấm các nhân viên
và gia đ́nh Xô Viết nói về địa chỉ
của các đơn vị. Binh lính Liên Xô qua Việt
Nam phải mặc y phục dân sự và khi tới nơi,
mặc quân phục Bắc Việt (Trong cuộc
Chiến Tranh Triều Tiên, phi công Xô Viết và các “người
t́nh nguyện” quân sự đă mặc binh phục
của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên). Cựu
đại tá Xô Viết Alexei Vinogradov đă viết
rằng: “người Mỹ
đă biết rơ rằng các máy bay Bắc Việt
kiểu Xô Viết thường do các phi công Xô Viết
lái”. Trong suốt thời gian của cuộc
Chiến Tranh Việt Nam, và cả vào thời Chiến
Tranh Triều Tiên, chính quyền Hoa Kỳ đă giữ
bí mật mức độ tham dự của lực lượng
quân sự Xô Viết để khiến cho áp lực dân
chúng không làm khó khăn khi giới hạn cuộc
chiến tranh ủy nhiệm này. Cuộc
chiến tranh giữa Do Thái và các nước láng
giềng bộc phát vào ngày 5/6/1967 đă làm gia tăng
hơn nữa các căng thẳng Hoa Kỳ – Liên Xô.
Tại cuộc họp thượng đỉnh cỡ
nhỏ ở Glassboro, New Jersey, vào ngày 23/6/1967, Thủ Tướng
Xô Viết Aleksei Kosygin đă truyền đạt
lời đề nghị của Hà Nội muốn
trở lại bàn thương thuyết nếu cuộc
oanh tạc Bắc Việt chấm dứt (nhiều
gợi ư ngoại giao Hoa Kỳ, mang tên “Mayflower”,
“Marigold” và “Sunflower” đă thất bại). Qua các
người Xô Viết, chính quyền Johnson trả
lời rằng Hoa Kỳ sẽ cứu xét việc ngưng
oanh tạc, nhưng lại tiếp tục nếu các
đàm phán thất bại. Vào
mùa thu năm 1967, sự ủng hộ của dân chúng
Hoa Kỳ dành cho cuộc chiến Việt Nam xuống
tới mức thấp nguy hiểm. Phong trào chống
chiến tranh nhỏ, dẫn đầu bởi các người
cấp tiến khuynh tả và các người vận
động ḥa b́nh, đă thất bại trong việc
thuyết phục dân chúng rằng cuộc chiến này
th́ vô nhân đạo, quả vậy các lời hùng
biện chống Mỹ của nhiều nhà hoạt động
chống chiến tranh đă tạo nên phản ứng
cực đoan mà các nhà chính trị bảo thủ có
thể lợi dụng trong nhiều chục năm.
Sự yểm trợ cho chiến tranh bị giảm
đi khi số thiệt hại gia tăng giống như
trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Phải
đương đầu với sự ủng hộ
của dân chúng suy giảm và gặp thử thách từ
cánh tả của đảng Dân Chủ, tổng
thống Johnson trong bài diễn văn đọc tại
San Antonio vào ngày 27/9/1967, đă không c̣n nhấn mạnh
như trước kia rằng ông chỉ ngưng
cuộc oanh tạc để đổi lấy các thương
thuyết và để đ̣i hỏi rằng Bắc
Việt phải ngưng xâm nhập vào miền Nam Viêt
Nam. Nhưng
Hà Nội đă trù liệu một cuộc tấn công
và nổi dậy tại miền nam. Kế hoạch này
đi ngược với chủ trương ưa thích
hơn của Trung Cộng là cuộc chiến tranh du kích
cấp thấp, kéo dài, trong khi đó Hà Nội đă
thành công khi kiếm được trợ giúp quân
sự và một tuyên bố yểm trợ từ Moscow.
Nhà sử học Ilya V. Gaiduk viết rằng: “lần đầu tiên
kể từ sự giúp đỡ đầy đủ
của Xô Việt cho Hà Nội, một thông cáo đă
chỉ rơ loại yểm trợ quân sự nào đă
được cung cấp... Cách tuyên bố rơ ràng như
vậy dành cho sự trợ giúp toàn bộ th́ chưa
hề có đối với Moscow trong các liên hệ
của nước này với các đồng minh và các
cuộc chiến ủy nhiệm”. Vào
ngày 30/1/1968, trong dịp Tết là ngày đầu năm
âm lịch Việt Cộng đă phát động
một làn sóng tấn công và đột kích trong
khắp miền Nam Việt Nam, tấn công Dinh Tổng
Thống và ngay cả bộ Tổng Tham Mưu tại
Saigon. Lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh Viêt
Nam đă phối hợp và tận diệt các kẻ
nổi dậy. Tại thành phố Huế, các người
cộng sản chỉ bị đánh bại sau 3
tuần lễ tàn phá nơi này. Sau ngày sụp đổ
của thành phố Huế, các tử thi của gần
3,000 dân sự Nam Việt Nam đă bị tra tấn và hành
quyết bởi Việt Cộng, được t́m
thấy trong các mồ chôn tập thể.
Sự
thất bại trong cuộc tấn công Tết là
một bước thụt lùi tàn hại về quân
sự của các người cộng sản. Tuy nhiên,
cuộc tấn công Tết này được coi là
một thất bại dành cho Hoa Kỳ. Một lư do là
v́ tính cảm nhận của các nhà báo phương tây
đă cho dân chúng Mỹ một cảm tưởng sai
nhầm về sức mạnh và sự ủng hộ
của Việt Cộng. Nhưng một lư do quan
trọng hơn là sự kiện liên quan tới các báo
cáo lạc quan của tướng Westmoreland từ Nam
Việt Nam, các báo cáo này đă bị mất uy tín.
Cuộc chiến tranh có thể thắng được
– nhưng nếu có thắng th́ c̣n xa cách cái giá mà dân
chúng Hoa Kỳ có thể chấp nhận được. 2/
Đông Dương Bị Mất Quyền Quyết Định.
Cuộc
tấn công Tết Mậu Thân đă tạo nên sự
rối loạn chính trị tại Hoa Kỳ. Thượng
nghị sĩ Eugene McCathy, người chỉ trích
chiến tranh, gần như đánh bại tổng
thống Johnson trong cuộc bầu cử sơ bộ
của đảng Dân Chủ vào ngày 12/3 tại New
Hampshire. Cũng trong tháng 8/1968, Clark Clifford là người
bi quan từ lâu về cuộc chiến, đă thay
thế Robert McNamara làm bộ trưởng quốc pḥng
và tướng Westmoreland được chỉ định
lại làm tham mưu trưởng lục quân. Vào ngày
31/3, sau khi được “các vị khôn ngoan” (the Wise
Men) (đây là một nhóm các chính khách thâm niên gồm
cả cựu ngoại trưởng Dean Acheson), cố
vấn rằng cuộc chiến phải giảm bớt
xuống, tổng thống Johnson xác nhận rằng ông
không ra tái tranh cử và công bố việc ngưng oanh
tạc. Vào ngày 10/5, các đàm phán ḥa b́nh bắt đầu
tại Paris. Vào
mùa thu, do mệt mỏi v́ chiến tranh nhưng cũng
chán ghét chính sách chống Mỹ của những kẻ
cấp tiến phản chiến đă gây nên cuộc
bạo loạn chống cảnh sát tại Đại
Hội Dân Chủ năm 1968 ở Chicago, cử tri Hoa
Kỳ đă bầu ông Richard Nixon làm Tổng Thống.
(Giới lănh đạo Xô Viết do e sợ kết
quả này, đă khuyên Bắc Việt v́ quyền
lợi của họ mà nên giúp công vào cuộc bầu
phiếu cho ông Hubert Humphrey bằng cách tỏ ra rằng
ḥa b́nh đang gần tới). Tổng thống Nixon Từ
khi lănh chức vụ, ông Nixon bắt đầu t́m
kiếm “nền ḥa b́nh trong danh dự” tại
Đông Dương. Chiến thuật của ông ta là
phối hợp các áp lực quân sự đặt lên Hà
Nội và các cố gắng làm cho Moscow và Bắc Kinh xa
bớt thân chủ của họ. Hai tháng sau khi ngồi
vào Ṭa Nhà Trắng, Nixon đă ra lệnh oanh tạc các
sào huyệt cộng sản bên trong xứ Cambốt. Thái
tử Sihanouk đă bí mật chấp nhận sự
việc này với điều kiện là các vùng đông
dân của Cambốt không bị ảnh hưởng. Vào
năm 1970, Sihanouk bị hạ bệ và chế độ
mới, thân Mỹ của Tướng Lon Nol đă ra
lệnh cho các kẻ chiếm đóng Bắc Việt
phải ra khỏi xứ sở này. Nixon đă lợi
dụng cơ hội này để ra lệnh cho lực
lượng Mỹ tiến vào Cambốt trong hai tháng, t́m
kiếm các bộ chỉ huy của cộng sản và phân
tán mỏng quân đội Bắc Việt. Bắc
Việt phản ứng lại bằng cách chiếm
đóng phần lớn đất đai Cambốt và giúp
cho lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot đánh
lại các lực lượng của Lon Nol. Chiến
dịch oanh tạc của Nixon tại Cambốt và
miền Nam Việt Nam đă che đậy việc rút quân
đội Mỹ và việc “Việt Nam hóa” chiến
tranh. Vào cuối năm 1970, 280,000 quân Mỹ đă ra
đi và chỉ c̣n 140,000 quân ở lại miền Nam
Việt Nam vào cuối năm 1971. Tinh thần chiến
đấu của binh lính Mỹ giảm xuống, không
ai muốn là các thiệt hại sau cùng. Đồng
thời công tác Việt Nam hóa đă bị nghi ngờ
khi vào tháng 2/1971, quân lực Nam Việt Nam gặp
thất bại trong việc cắt ngang đường
ṃn Hồ Chí Minh tại Lào. Quốc
Hội Hoa Kỳ, trước kia đă từng do dự
khi đối đầu với các Tổng Thống
Johnson và Nixon trong khi quân đội Mỹ c̣n đang
ở ngoài mặt trận, nay trở nên cứng dắn
hơn trong các giới hạn lập pháp khi mà quân
số giảm dần. Vào ngày 12/1/1971, Quốc Hội xét
lại Nghị Quyết Đông Nam Á (the Southeast Asia
Resolution), cùng ngày hôm đó Tổng Thống Nixon kư Tu
Chính Án Cooper-Church (the Cooper-Church Amendment), sắc lệnh
này cấm dùng lực lượng bộ binh Mỹ trên
miền đất Cambốt. Các nhà chính trị
“diều hâu” loại ôn ḥa (moderate owls) với con
số đang lên, bị báo động bởi các phí
tổn v́ sự tham dự quân sự của Mỹ vào
chiến tranh Việt Nam, cũng như do nền kinh
tế, đă tham gia cùng với các người
“bồ câu” chống chiến tranh để nghiêng
về chủ trương rút nhanh sự tham dự
của Mỹ ra khỏi Việt Nam. Chính
quyền Nixon đă cố gắng làm cân bằng công tác
Việt Nam hóa với công việc thử khai thác các
chia rẽ giữa các ông chủ của Hà Nội là
Moscow và Bắc Kinh. Cuộc xâm lăng của Xô
Viết vào xứ Tiệp Khắc vào năm 1968 đă
không gây phản ứng dữ dội nào tại phương
tây, nên đă bị Mao coi là cách xác nhận lại
chủ quyền của Moscow trong khối cộng
sản. Vào tháng 9/1971, sau nhiều năm e ngại
chiến tranh Trung Xô, người được chỉ
định kế nghiệp của Mao là Lâm Bưu (Lin
Piao) đă chết trong một tai nạn máy bay phản
lực bí ẩn khi ông này t́m cách trốn sang Liên Xô
sau khi âm mưu với giới quân sự của Trung
Cộng để lật đổ Mao. Những
khai triển này đă khiến cho Nixon có thể cởi
mở với Trung Cộng và đi qua Bắc Kinh vào tháng
2 năm 1972. Tuy nhiên viêc sát gần Mỹ Trung đă không
khiến cho Trung Cộng chấm dứt yểm trợ
Bắc Việt. Sự ve văn của Nixon đối
với các nhà lănh đạo Xô Viết cũng thất
bại trong việc mang lại kết quả trên
chiến trường Đông Dương. Thực
vậy, vào tháng 10/1971, do e ngại sự thông đồng
Mỹ Trung, Xô Viết đă phái Nikolai Podgorny tới Hà
Nội, tại nơi đây ông ta đă đề
nghị sự liên kết Xô Viết với Bắc
Việt chống lại Trung Cộng. Vào mùa xuân năm
1971, Moscow gia tăng các trợ giúp quân sự của
họ, gửi qua Bắc Việt các chiến xa T-54 và
đại bác tầm xa trong số các vơ khí chuyển
qua hải cảng Hải Pḥng.Vài tháng sau, số lượng
chuyển giao vơ khí lên cao tới bậc thứ hai trong
suốt cuộc chiến (cao điểm là vào năm
1967). Do
được Moscow khuyến khích và trang bị vơ khí,
Bắc Việt phát động cuộc tấn công vào
tháng 4, chiếm tỉnh Quảng Trị của miền
nam Việt Nam và đe dọa các miền quan trọng khác.
Nixon đă ngăn trở cuộc xâm lăng bằng
cuộc hành quân Linebacker, đây là lần oanh tạc
đầu tiên chống lại quân Bắc Việt
kể từ khi Johnson ngưng ném bom vào năm 1968. Cách
ngoại giao khéo léo của Nixon đă làm im lặng
phản ứng của Trung Cộng và hứa hẹn
cuộc họp thượng đỉnh giữa Nixon và
nhà lănh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev.
Vào
tháng 10/1972, cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và
Lê Đức Thọ, người cầm đầu phái
đoàn Bắc Việt tại cuộc ḥa đàm Paris,
đă đạt tới một sự đồng ư sơ
khởi. Mặc dù Kissinger đă tuyên bố rằng ḥa
b́nh đang trong tầm tay, Tổng Thống Thiệu
tại Saigon phản đối và Bắc Việt đă
ngưng các buổi họp. Nixon bèn ra lệnh 11 ngày oanh
tạc mạnh miền Bắc, nên đă mang Bắc
Việt trở lại bàn hội nghị nhưng cũng
đă khiến cho các kẻ khuynh tả và các kẻ
cấp tiến chống đối trong ngành truyền thông
và Quốc Hội coi ông ta là phạm nhân chiến tranh.
Vào ngày 27/1/1973, một hiệp ước ḥa b́nh
chấm dứt chiến tranh đă được kư
kết tại Paris. Vào
ngày 29/3/1973, các đơn vị Mỹ cuối cùng
rời khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh
ủy nhiệm thứ hai của Hoa Kỳ tại châu Á
vào thời gian Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ bị
tổn thất 58,000 binh lính, hơn số lính chết
tại Triều Tiên (56,000). Nhưng Hoa Kỳ đă
để lại 10,000 quân canh giữ Nam Triều Tiên ngăn
chặn Cộng Sản miền Bắc trái với
việc Hoa Kỳ bỏ mặc kẻ đồng minh
yếu đuối là Nam Việt Nam phải bảo
vệ chính ḿnh. Những
ǵ Nixon gọi là “ḥa b́nh trong danh dự” đă
trở thành không có ḥa b́nh mà chẳng có danh dự.
Thỏa ước Paris là một cách đầu hàng Hà
Nội được che dấu sơ sài. Quân đội
chính quy Bắc Việt được phép lưu
lại các khu vực của Miền Nam mà họ đă
kiểm soát. Đầu tiên bị làm yếu đi và
bị loại ra khỏi văn pḥng bởi vụ tai
tiếng Watergate, Nixon không thể làm tṛn lời hứa
với Tổng Thống Thiệu rằng Hoa Kỳ
sẽ cứu nguy chế độ này bằng cách dùng
không lực khi cần thiết. Trong
khi phe đa số Dân Chủ trong Quốc Hội Hoa
Kỳ từ chối cung cấp các yểm trợ yêu
cầu do Nixon và do chính quyền Ford, Xô Viết gia tăng
sự trợ giúp của họ cho Bắc Việt,
bằng cách cung cấp các vơ khí cao cấp hơn,
gồm cả chiến xa hiện đại và súng pḥng
không. Vào cuối năm 1974, Hà Nội bắt đầu
đánh phá để chuẩn bị cho cuộc tấn
công cuối cùng. Hà Nội đă ngạc nhiên thấy
rằng sự chống cự suy sụp nhanh chóng và
trong khi tổng thống Thiệu cùng các nhà lănh đạo
khác của miền Nam bỏ chạy khỏi quê hương
một cách nhục nhă, quân đội Bắc Việt
đă nhanh chóng tràn chiếm miền Nam.
Ngày
17/4/1975, Khmer Đỏ là kẻ hưởng lợi
của quân đội Bắc Việt chống lưc lượng
quân sự Cambốt, đă nắm chính quyền tại
xứ này. Hai tuần lễ sau, vào ngày 30 tháng 4, Saigon
sụp đổ trước lực lượng quân
sự Bắc Việt và nhân viên Mỹ cùng với các
người Việt Nam tuyệt vọng hoảng sợ
di tản. Miền
Nam Việt Nam bị thua v́ thiếu nhân lực,
thiếu súng đạn, đă sụp đổ không
phải v́ cuộc nổi dậy của dân chúng, nhưng
v́ một trong các quân lực mạnh nhất và kinh
nghiệm nhất trên thế giới, quân lực này
được trang bị bởi hai nước toàn
trị hùng mạnh nhất kể từ thời Đức
Quốc Xă. 3/
Hoa Kỳ Trên Đường Rút Lui.
Theo
sau sự sụp đổ tàn nhẫn của miền
Nam Việt Nam là cách kết hợp toàn trị về
mọi phương diện chính trị, văn hóa và
đời sống xă hội. Hàng trăm ngàn người
Miền Nam bị gom lại và bị nhốt vào các
“trại giáo dục cải tạo” (reeducation camps),
số người bị hành quyết không được
biết rơ. Các thành phần của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam (the National Liberation Front) bị người
cộng sản của miền Bắc đẩy ra ngoài,
những người này chiếm đoạt các ṭa nhà
lớn và các động sản của giới cao
cấp Saigon và họ trở thành một giai cấp cai
trị mới vừa độc tài, vừa tham nhũng. Tại
các nước Đức, Trung Hoa và Cuba cũng như
tại các quốc gia khác mà người cộng
sản nắm được chính quyền, hàng ngàn người
dân đă bỏ phiếu bằng chân, họ là các
kẻ tỵ nạn bỏ chạy. Tại Đông Đức
đă có bức tường ngăn cản dân chúng không
bỏ chạy được. Vào thập niên 1950, hơn
một triệu người Việt Nam đă bỏ
chạy chế độ đàn áp của Hồ Chí
Minh qua miền Nam tương đối tự do hơn.
Ngày này, khi mà các người kế tục của
Hồ củng cố quyền kiểm soát của họ
trên toàn đất nước th́ đă bắt đầu
một trong các cuộc bỏ xứ ra đi lớn lao
nhất trong cuối thế kỷ 20.
The United States
has no obligation to evacuate one, or 100,001, South Vietnamese. Hoa Kỳ không
có nhiệm vụ di tản một hay một trăm ngàn
lẻ một người dân miền Nam Việt Nam. Vào
giữa thập niên 1970, hơn 750,000 người
Việt Nam đă bỏ chạy qua Hoa Kỳ và hơn
một triệu người đă sinh sống trong các
quốc gia tây phương khác (*). Số đông khác cũng
vượt thoát qua Trung Hoa và các quốc gia khác trong vùng.
Không có một cuộc chiến tranh Đông Dương
nào đă khiến cho có số người tỵ
nạn đông đảo như thế tại ngoại
quốc bằng nền ḥa b́nh dưới quyền cai
trị cộng sản. Một thảm họa lớn hơn
cũng xẩy ra tại xứ Cambốt khi phe Khmer Đỏ,
theo đúng văn bản cực tả của Mao rút
từ chủ nghĩa Mác Xít- Lênin-nít, đă thực
hiện một chiến dịch tập trung tàn nhẫn
rồi một phần tám tới một phần tư dân
số Cambốt đă bị hành quyết hay bỏ
mặc cho chết đói. Sự
thắng lợi của nước ủy nhiệm
của Liên Xô là Bắc Việt, và sự làm mất uy
tín cùng với t́nh trạng tê liệt của Hoa Kỳ
trong chính sách ngoại giao theo sau cuộc sụp đổ
của Saigon, đă làm vững mạnh thành phần lănh
đạo Xô Viết trong các ảnh hưởng
tại châu Á, châu Phi, miền Trung Đông và miền châu
Mỹ La Tinh. Sau khi đă thừa hưởng Đông Dương
là phần đất trước kia của đế
quốc Pháp, Liên Xô ngày nay lại chiếm cứ các
phần của đế quốc Bồ Đào Nha
tại châu Phi. Vào
cuối thời kỳ của chính quyền Carter, Liên Xô
đă phái đi vào khoảng 50,000 cố vấn quân
sự tới các quốc gia thuộc Thế Giới
Thứ Ba. Trong thập niên 1960, các nước nằm bên
ngoài Đông Âu và Trung Hoa lănh đạo do “đảng tiên tiến Mác Xít Lênin-nít”,
chỉ gồm có Mông Cổ, Bắc Việt Nam, Bắc
Triều Tiên và Cuba. Qua thập niên 1980, tham gia vào
chế độ kể trên là các chính quyền thân Xô
Viết tại Afghanistan, Angola, Ethiopia, Mozambique, Nam Yemen,
Benin và Congo-Brazzaville, cùng với các chế độ
theo cộng sản lỏng lẻo tại các xứ
Zaire, Guinea-Bissau, Cape Verde và Madagascar. Trong
công việc bành trướng ảnh hưởng qua
Thế Giới Thứ Ba, các người Xô Viết trông
cậy vào các nước phụ trong đế quốc
cộng sản. Ngành Công An của Đông Đức
đă giúp đỡ các chính quyền thân Xô Viết như
Angola, Ethiopia, Libya, Mozambique, Zambia và Nam Yemen để
thiết lập các hệ thống an ninh nội địa.
Các chuyên viên Cuba đă huấn luyện các vệ sĩ
cho các nhà độc tài và các sĩ quan công an cho
một số nước thuộc Thế Giới
Thứ Ba, gồm cả Angola, Nicaragua và Ethiopia. Trong khi
đó vẫn tiếp tục sự tăng cường
quân sự Xô Viết, bắt đầu sau cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba. Trong hai thập niên 1960
và 1970, CIA của Hoa Kỳ ước lượng
rằng từ 12 tới 16 phần trăm của
tổng sản lượng quốc nội (GDP) của
Liên Xô được dành cho quân sự và nhiều người
đă chỉ trích rằng tỉ lệ kể trên là quá
đáng. Sau Cuộc Chiến Tranh Lạnh kết thúc,
mọi người được biết rằng CIA
đă ước lượng quá thấp các chi phí quân
sự của Liên Xô và chi phí này cao tới 25 phần
trăm của GDP. Vào
giữa thập niên 1970, vị trí của Hoa Kỳ trên
thế giới bị suy đồi rất nhiều.
Sự yếu kém của Hoa Kỳ, rơ ràng trong cách
bỏ rơi Đông Dương, c̣n được làm
sáng tỏ thêm vào tháng 10 năm 1973 khi tất cả các
quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ tại châu
Âu ngoại trừ Bồ Đào Nha, đă từ
chối không cho phép Hoa Kỳ dùng các phi trường
của họ để tiếp tế trở lại cho
nước Do Thái trong cuộc Chiến Tranh Ả
Rập-Do Thái. Chính quyền Nixon đă từ bỏ
hệ thống hối đoái cố định Bretton
Woods khiến cho Hoa Kỳ không theo bản vị bằng
vàng (gold standard). Cuộc cấm vận dầu lửa
của khối OPEC, thực hiện mà không e sợ
sự trừng phạt của Hoa Kỳ, đă làm
tổn hại nền kinh tế của Hoa Kỳ và các
nền dân chủ kỹ nghệ khác. Hiệp Ước
Helsinki phê chuẩn tính hợp pháp của đế
quốc cộng sản Đông Âu mà Stalin đă tạo
nên, và đế quốc này chỉ được duy
tŕ bằng các cuộc xâm lăng của Xô Viết vào
các năm 1953, 1956 và 1968. Khối đa số thân Liên Xô
đă được thành lập trong Đại
Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Chính
quyền Carter bị chia rẽ thành khối thiểu
số gồm những nhân vật cứng dắn
chống Liên Xô như cố vấn an ninh quốc gia
Zbigniew Brzezinski, và khối đa số gồm những
người cấp tiến chống Chiến Tranh
Lạnh như bộ trưởng ngoại giao Cyrus Vance,
là người đă bỏ qua cách bành trướng
đế quốc Xô Viết trong Thế Giới Thứ
Ba bằng phương tiện nước ủy
nhiệm Cuba, và sau này ông Vance cũng từ chức
để phản đối khi tổng thống Carter dùng
sức mạnh trong công cuộc giải cứu các con
tin Mỹ tại Iran nhưng cố gắng kể trên
đă gặp thất bại. Ngay cả Đại
sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc của ông
Carter là ông Andrew Young, đă mô tả nước
phụ thuộc Cuba của Moscow tại châu Phi là
một “ảnh hưởng làm ổn định” (a
stabilizing influence). Cựu
tổng thống Lyndon Johnson chết v́ bệnh tim vào năm
1973, đă không sống lâu để nh́n thấy các cơn
ác mộng của ông thành sự thật: Hoa Kỳ
đang rút lui trên thế giới trước đế
quốc Xô Viết đang tiến tới, sự gần
sụp đổ của đồng minh NATO trước
các nghi ngờ về uy tín của Hoa Kỳ và cuộc
chiến tranh ủy nhiệm giữa Hoa Kỳ và các thân
chủ của Liên Xô và Cuba tại Nicaragua, với Cuba là
một xứ vệ tinh của Xô Viết trên miền
lục địa Bắc Mỹ. Trong
khi Liên Xô bành trướng sức mạnh và ảnh hưởng
của họ trên toàn thế giới sau cuộc sụp
đổ của Saigon; tại Đông Dương, t́nh
h́nh vẫn biến động. V́ bị mất ảnh
hưởng tới các người Bắc Việt, Trung
Cộng đă bảo trợ Khmer Đỏ trong các
vụ xung đột biên giới với Việt Nam. Sau
một thời gian ngắn suy thoái về ngoại giao, cách
thức đồng minh Xô -Việt được làm
sống lại bằng các buổi họp tại Moscow vào
tháng 5 và tháng 6 năm 1977. Vào đầu năm 1978, tướng
Giáp bí mật qua Lào, tại nơi này ông ta đă
hỏi tướng G. Pavlovsky, tư lệnh các lực lượng
Xô Viết trên bộ rằng Việt Nam phải làm ǵ
đối với Cambốt. Pavlovsky đă khuyên bảo
Hà Nội nên “làm ra một xứ
Tiệp Khắc” (do a Czechoslovakia). Vào tháng
8 năm 1978, Xô Viết bắt đầu cung cấp cho
Việt Nam các quân dụng để xâm lăng
Cambốt và đă gia tăng con số cố vấn Xô
Viết tại Đông Dương từ 2,000 lên
tới 3,500 người. Vào
ngày 3/11/1978, Hà Nội đă kư một hiệp ước
25 năm Thân Hữu và Cộng Tác với Liên Xô (a
25-year Treaty of Friendship and Cooperation). Với sự ủng
hộ Xô Viết đă được bảo đảm
như vậy, Việt Nam xâm lăng Cambốt vào ngày
15/12/1978 và chiếm thủ đô Phnom Penh chưa tới
một tháng sau. Phe Khmer Đỏ bỏ chạy về
phía biên giới Thái Lan, tại nơi này họ và các
nhóm chống cự các kẻ chiếm đóng Việt
Nam, đă nhận được sự trợ giúp
của Trung Cộng, Hoa Kỳ và Thái Lan. Vào
ngày 17/2/1979, Trung Cộng xâm lăng các tỉnh biên
giới phía bắc của Việt Nam và đă chịu
thiệt hại lớn lao trước khi rút quân sau 16
ngày. Vụ xung đột Hoa-Việt và cuộc
chiếm đóng Cambốt của Việt Nam đă làm
leo thang cách trợ giúp quân sự đồ sộ
của Xô Viết tới bậc cao nhất. Tại cao
điểm, sự trợ giúp này vượt trội
mức độ giúp đỡ của Xô Viết cho
Bắc Việt khi chiến tranh với Hoa Kỳ. Ngoài
ra, để hiện đại hóa không quân và hải
quân của Việt Nam, Moscow đă cung cấp nhân viên và
yểm trợ tiếp liệu để Việt Nam
chiếm đóng Cambốt. Các cuộc hành quân của
Việt Nam tại Cambốt lệ thuộc vào các phi công
Xô Viết và hàng trăm binh lính và dân sự Xô
Viết đă dỡ các khối hàng tiếp liệu
của Liên Xô tại các hải cảng của Việt
Nam. Để đền đáp lại công ơn đă
giúp sức vào công cuộc thống trị cộng
sản của Bắc Việt trên toàn cơi Đông Dương,
Liên Xô được phép dùng các phương tiện
quân sự tại đây. Căn cứ Xô Viết
tại Vịnh Cam Ranh đă trở thành căn cứ quân
sự rộng lớn nhất và quan trọng nhất
của Liên Xô nằm bên ngoài Đông Âu. Vào
giữa thập niên 1980, quân đội Việt Nam
được Liên Xô bao cấp, với hơn 1
triệu lính chính quy và 2 triệu lính phụ thêm, đă
trở nên lực lượng quân sự lớn thứ
ba trên thế giới, đứng sau quân đội Nhân
Dân Giải Phóng của Trung Cộng và quân lực Xô
Viết. Nhân dân Việt Nam đă phải trả
một giả khủng khiếp cho chế độ quân
phiệt của các nhà cai trị toàn trị của
họ. Vào cuối thập niên 1970, hệ thống nông
nghiệp xă hội chủ nghĩa của Việt Nam
đang trên bờ sụp đổ. Mặc dù các
cải cách nhỏ hướng về thị trường
vào năm 1979 và 1980, chỉ nhờ vào sự trợ giúp
đồ sộ của Liên Xô mới tránh cho Việt
Nam khỏi bị nạn đói giống như hai nước
thân chủ khác của Liên Xô là xứ Ethiopia theo Mác Xít-
Lênin-nít của ông Mengistu, chịu nạn đói vào
thập niên 1980, và xứ Bắc Triều Tiên bị
chết đói trong thập niên 1990. 4/
Cuộc Chiến Tranh Lạnh Thứ Hai.
Tại
nước Afghanistan, nhờ cuộc đảo chánh năm
1978 chế độ thân Xô Viết đă nắm
quyền rồi tiếp theo là một cuộc nội
chiến và cuộc xâm lăng của Liên Xô vào ngày
27/12/1979. Vào thời gian này, khối Xô Viết đang
ở đỉnh quyền lực cao nhất trên thế
giới. Trong khi Liên Xô đang tham dự vào cuộc
chiến tranh toàn diện đầu tiên bên ngoài đế
quốc Đông Âu kể từ năm 1945, các phó vương
người Việt của Liên Xô cũng chinh phục
Đông Dương; và xứ ủy nhiệm Cuba đang
đánh nhau tại châu Phi, giúp đỡ các nổi
loạn trong miền Trung Mỹ và giúp vào sự liên
kết với khối Xô Viết của nền độc
tài Sandinista tại Nicaragua. Cuộc
xâm lăng Afghanistan của Liên Xô cùng với cách đàn
áp phong trào lao động Đoàn Kết chống
cộng sản (Solidarity) bằng chế độ
thiết quân luật tại nước Ba Lan vào năm
1981, đă giúp công vào việc củng cố quan điểm
chống Xô Viết tại phương tây. Các nhà
bảo thủ chống cộng đă lên nắm
quyền tại các quốc gia chính trong Cộng Đồng
Đại Tây Dương: Magaret Thatcher tại nước
Anh (1979), Ronald Reagan tại Hoa Kỳ (1981) và Helmut Kohl
tại Tây Đức (1983). Đối đầu
với sự phản đối hàng loạt của các
người khuynh tả, các nhà lănh đạo phương
tây, kể cả tổng thống thiên xă hội
của nước Pháp là Francois Mitterrand, đă cho dàn
ra các tên lửa NATO để phản ứng lại
mối đe dọa của các tên lửa tầm trung
của Liên Xô. Dưới
thời Reagan, Hoa Kỳ loại bỏ t́nh trạng
bớt căng thẳng của thời kỳ
Nixon-Kissinger và chính sách giao động cùng dịu ḥa
của Carter, mà quay về với chính sách giống như
của Truman-Kennedy-Johnson, tức là chính sách ngăn
chặn toàn cầu đối với Liên Xô. Cách tăng
cường quân sự của Reagan, yểm trợ các
cuộc nổi dậy chống cộng sản tại
Afghanistan, Nicaragua, Angola và các nơi khác, và cuộc
chiến tranh ư thức hệ không nhân nhượng
(gồm cả cách chế diễu nhưng mô tả
đúng Liên Xô là một đế quốc của
tội ác) đă thành công trong việc đánh thuế
hệ thống Xô Viết tới độ các nhà lănh
đạo Liên Xô phải chọn giữa cách rút lui hay
phá sản. Nhà lănh đạo Xô Viết Mikhail Gorbachev
đă chọn chính sách rút lui vào thập niên 1980 nhưng
đă không tránh cho Liên Xô khỏi bị sụp đổ
v́ kinh tế. Vào
năm 1989, do áp lực của Moscow, Hà Nội tuyên
bố rút lui khỏi Cambốt. Bị hoảng sợ v́
các cuộc cách mạng dân chủ thổi qua miền
Đông Âu, các nhà lănh đạo già nua theo Stalin
tại Hà Nội đă dập tắt các bất đồng
chính kiến trong nước của họ. Là nước
đă từng được Trung Cộng gọi là “nước Cuba của châu Á” (the
Asian Cuba) và sau khi Liên Xô tan ră vào năm 1991, Việt Nam
lúc này nhận thấy ḿnh bị trôi dạt khi không c̣n
lệ thuộc vào Moscow. Nhưng các nhà lănh đạo
theo chủ nghĩa Mác Xít-Lênin-nít tiếp tục
nắm quyền tại Việt Nam cũng như tại
Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào và Cuba. Chế
độ Cộng Sản, trước kia là niềm tin
để tranh đấu, nay đang hấp hối. Và
cuộc Chiến Tranh Thứ Ba cuối cùng đă
chấm dứt. 5/
Kẻ Thắng Người Bại Tại Việt Nam.
Ai
là người đă chiến thắng, ai là kẻ
bị thất bại trong cuộc chiến tranh Việt
Nam? Các kẻ bị hoàn toàn
thất bại là các viên chức của miền Nam
Việt Nam, quốc gia của họ bị xóa bỏ trên
bản đồ. Các người cộng
sản Bắc Việt đă chiến thắng nhưng
với giá của sự phá sản và cô lập khi
sự bảo trợ của Liên Xô sụp đổ. Toàn thể dân tộc Việt Nam cũng là
kẻ bại. Cả
hai phía người Việt bị thiệt hại
mất 2 triệu người và sự tàn phá phần
lớn đất đai, theo sau là hệ thống
Stalin-nít tàn bạo và vô lư (irrational) của miền
Bắc áp dụng cho toàn thể đất nước
vào năm 1975. Mọi người dân Việt Nam đă
chịu đau khổ do cuộc chiến thắng
cộng sản, đây là những người c̣n
ở lại trong nước, và gần hai triệu người
đă bỏ chạy ra khỏi nước. Dân tộc Lào
cũng chịu đau khổ tương tự. Cơn
hấp hối lớn nhất xẩy đến cho dân
tộc Cambốt, họ đă phải chịu đựng
cuộc tàn sát tập thể và nạn đói khát
trầm trọng dưới quyền cai trị của
những người cộng sản Cambốt. Trong số các siêu cường đă tham dự vào
cuộc Chiến Tranh Lạnh tại Đông Dương,
các nước Pháp, Trung Cộng và Hoa Kỳ đều
là các kẻ bại. Nước
Pháp đă hy sinh gần 100 ngàn quân và c̣n đang bị
mất đế quốc Đông Nam Á, trên thứ
nền móng này mà nước Pháp tự coi là siêu cường
sau Thế Chiến Thứ Hai. Trung Cộng đă khám phá
quá trễ rằng do giúp đỡ Hà Nội, họ cũng
tạo nên một đồng minh của Liên Xô đáng
ghét tại biên giới của họ. Hoa Kỳ chịu sự thất bại mang tính cách
tàn phá (devastating).Trong
cuộc chơi kẻ thắng ăn cả người
bại mất hết (zero-sum) của nền trật
tự thế giới hai cực, sự thất bại
của Washington là sự thắng lợi của Moscow.
Đồng thời cái giá về số người
chết và người bị thương của Mỹ
tạm thời phá hủy sự nhất trí trong nước
trước cuộc Chiến Tranh Lạnh. Hoa Kỳ
đă thương lượng với đế
quốc Liên Xô về một cuộc đ́nh chiến không
thuận lợi và đă từ bỏ chính sách ngăn
chặn trong một thập niên, chỉ trở lại
chính sách quân sự chống Xô Viết vào cuối
thập niên 1970. Vào thời kỳ đó, cuộc
Chiến Tranh Việt Nam là cuộc thất bại
lớn lao xếp hàng thứ hai mà Hoa Kỳ phải
chịu đựng trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. Cuộc
thất bại lớn lao nhất của chính sách
Chiến Tranh Lạnh của Hoa Kỳ, dù không dùng quân
lực, là sự chiến thắng của các người
cộng sản Trung Quốc được Xô Viết
bảo trợ vào năm 1949- một chiến thắng mà
nếu không có, sẽ không xẩy ra các cuộc
chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam. Người
ta thường nói rằng Hoa Kỳ là một cường
quốc kiêu ngạo, đă bị thất bại trước
các cố gắng anh hùng của một nước
nhỏ và yếu hèn của châu Á. Điều này không
đúng. Yếu tố can thiệp do Liên Xô và Trung
Cộng cung cấp, đặc biệt là mối đe dọa bởi
Trung Cộng sẽ can thiệp bằng quân tham chiến,
như họ đă từng làm tại Triều Tiên,
đă cản trở Hoa Kỳ xâm lăng hay tham dự vào
một cuộc chiến toàn diện chống Bắc
Việt. Và khối hỗn hợp quân
sự Liên Xô và Trung Cộng đă giúp cho quân Bắc
Việt tiếp tục cho tới khi họ thành công vào
năm 1975, rồi sau năm này, sự trợ giúp c̣n
cao hơn nữa của Liên Xô đă làm cho đế
quốc Việt Nam được thực hiện
tại Lào và Cambốt. Không
thể có được sự thành công của Hà
Nội nếu không có sự yểm trợ của hai
trong số ba nước hùng mạnh nhất theo chế
độ toàn trị sát nhân trong lịch sử. Cuộc
Chiến Tranh Việt Nam khởi đầu một
thời đại gồm các thành công Xô Viết
lớn lao nhất trong cuộc Chiến Tranh Lạnh.
Nếu các áp đặt của các chế độ
cộng sản do Hồng Quân và các nhân viên Xô Viết
tại Đông Âu không được kể là các
cuộc cách mạng thực sự, th́ vào thập niên
1970 là các chiến thắng của Liên Xô khi bảo
trợ các chế độ theo chủ nghĩa Mác Xít-
Lênin-nít, khi mà Hoa Kỳ bị đẫm máu tại
Đông Dương, đă tạm thời từ bỏ
chiến thuật ngăn chặn và bắt đầu rút
lui vào chủ nghĩa cô lập (isolationism). Do yểm
trợ đệ tử của Stalin là Hồ Chí Minh và
những người kế tiếp ông ta trong cuộc
chiến tranh ủy nhiệm, các nhà lănh đạo Xô
Viết đă lấy lại được quyền lănh
đạo cách mạng thế giới từ Trung
Cộng của Mao, chặn đứng Trung Cộng
tại biên giới phía nam, làm nhục và tạm
thời làm tê liệt Hoa Kỳ. Vào thời
gian đó, kẻ chiến thắng rơ ràng trong cuộc
Chiến Tranh Việt Nam là Liên Xô. Phạm Văn Tuấn chuyển
ngữ (Chuyển ngữ từ tác phẩm “Vietnam, The
Necessary War”, của Nhà Sử Học Michael Lind, The Free
Press, N.Y.1999). https://www.publishersweekly.com/9780684842547 Tiểu sử tác giả Michael Lind: https://en.wikipedia.org/wiki/Michael_Lind (*) Biden Can Redeem His Mistake In 1975, he failed to see what America owed the Vietnamese who had
bet their lives on American promises. https://www.theatlantic.com/ideas/archive/2021/04/biden-second-chance/618586/ |
||||