Chiến Trường Đông Dương 1965-1975 

Viết Bởi Nhà Sử Học Michael Lind

Phạm Văn Tuấn chuyển ngữ

 

1/ Leo Thang Chiến Tranh.

Các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ bắt đầu giao chiến với các đơn vị Việt Cộng từ cuối mùa hè và đầu mùa thu năm 1965. Khi quân đội Hoa Kỳ đổ vào miền Nam Việt Nam, các rối loạn chính trị tại Saigon chấm dứt. Một cuộc đảo chính đă đưa hai sĩ quan là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền, và là những người cai trị miền Nam trong một thập niên cho tới lúc cáo chung.  

 Trong cuộc tranh luận giữa chính quyền và giới quân sự Mỹ về chiến thuật và chiến lược, phe thắng thế là những người nhấn mạnh vào kiểu chiến tranh quy ước, hơn là dùng chiến lược b́nh định hay chống nổi loạn.

Bắt đầu từ ngày Giáng Sinh năm 1965, chính quyền Johnson ngưng ném bom Bắc Việt trong 37 ngày. Không lực Hoa Kỳ đă bay 55,000 lần, tấn công các mục tiêu trong miền Bắc. Trong cuộc tranh luận giữa chính quyền và giới quân sự Mỹ về chiến thuật và chiến lược, phe thắng thế là những người nhấn mạnh vào kiểu chiến tranh quy ước, hơn là dùng chiến lược b́nh định hay chống nổi loạn. Tham gia lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam c̣n có các nước đồng minh trong vùng, gồm cả Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân.   

Tại Indonesia, hai triệu đảng viên cộng sản, rơ ràng là do sự khuyến khích của Sukarno và Mao, đă phát động một cuộc đảo chánh nhắm vào các nhà lănh đạo quân sự chống cộng. Một cuộc phản đảo chánh do phe quân đội đă trở thành cuộc tàn sát trong đó từ 12 tới 100 ngàn người bị giết hại. Sukarno bị tước quyền, thay thế bởi Suharto, một tướng lănh cai trị Indonesia tới năm 1998. Dưới thời Suharto, Indonesia cắt đứt liên lạc với Trung Cộng và theo đuổi một chính sách trung lập ngả về Hoa Kỳ.   

Giấc mộng của Mao về một phần đối trọng với Liên Hiệp Quốc và về một trục Bắc Kinh- Jakarta đă bị thu nhỏ lại. Tới lúc này, Mao hướng về trong nước, phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa, một cuộc thanh trừng cực đoan kiểu Stalinnít, khiến cho t́nh trạng của nước Trung Hoa giống như gặp nội chiến. Một năm sinh sống trong nguy hiểm đă trở thành “một năm ghê sợ” (annus horribilis) cho Bắc Kinh.  

Tới lúc này, Hoa Kỳ, Trung Cộng và Liên Xô tham dự vào cuộc xung đột ủy nhiệm cao nhất trong cuộc Chiến Tranh Lạnh kể từ cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Trong khi Hoa Kỳ chống cự để không bị làm nhục khi bảo vệ các nước nhỏ, Trung Cộng và Liên Xô cạnh tranh với nhau v́ uy tín trong khối cộng sản và trong thế giới đang phát triển.   

Trong các năm từ 1965 tới 1968, Trung Cộng cung cấp yểm trợ lớn lao cho Bắc Việt. Ngoài việc tiếp tế cho Hà Nội các dụng cụ quân sự và đồ dùng dân sự, chính quyền Mao đă phái các toán pháo binh pḥng không qua miền Bắc Việt Nam. Quan trọng hơn nữa theo lời yêu cầu của Hà Nội, Trung Cộng gửi qua các toán công binh để sửa chữa và nới rộng hệ thống xe lửa của Bắc Việt để cho hệ thống này không bị bất khả dụng do việc oanh tạc của Hoa Kỳ. Các toán quân Trung Cộng cũng giúp cho Bắc Việt rảnh tay để họ qua đồn trú tại Lào và chuyển các tiếp liệu xuống đường ṃn Hồ Chí Minh.   

Từ tháng 6 năm 1965 tới cuối năm 1969, các đạo quân tiếp liệu Trung Cộng đă xây dựng xong 20 nhà ga xe lửa mới, 39 cây cầu mới, 14 đường hầm, 117 cây số đường sắt mới và đă sửa chữa xong 362 cây số các đường xe lửa cũ. Tổng cộng, Trung Cộng đă gửi đi 327,000 quân tới Bắc Việt. Theo như nhà sử học Trần Kiến (Chen Jian) nhận xét: “mặc dù sự yểm trợ của Bắc Kinh không đúng theo các mong đợi của Hà Nội, nhưng nếu không có yểm trợ này, lịch sử và ngay cả các thành quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam sẽ khác đi”. (Chen Jian, “China’s Involvement,” pp. 372-380).  

 Vào tháng 10 và tháng 11 năm 1966, nhân vật thứ hai trong chế độ Hồ Chí Minh là Lê Duẩn đă hội đàm với các nhà lănh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh. Chu Ân Lai thúc dục Bắc Việt tiếp tục chiến tranh tối thiểu tới năm 1968. Sáu tháng sau đó, do c̣n e ngại rằng Bắc Việt sẽ thương thuyết với Hoa Kỳ, các viên chức Trung Cộng bắt Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng phải hứa với họ “một cách nghiêm chỉnh” rằng Bắc Việt sẽ không chấm dứt chiến tranh.  

Tuy nhiên để có thể tiếp tục chiến tranh, Bắc Việt cần các vơ khí và trang bị mà Trung Cộng không thể cung cấp. V́ thế Đồng và Giáp đă dẫn một phái đoàn khác qua Moscow vào tháng 4 năm 1967. Mặc dù các mối nghi ngờ, Liên Xô đă chọn việc tiếp tế lại cho Bắc Việt v́ e sợ rằng việc từ chối sẽ dẫn tới sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Cộng lên Hà Nội. Quả vậy, Liên Xô đă từng vượt hơn Trung Cộng như là nhà cung cấp trợ giúp quân sự lớn nhất cho Bắc Việt. Thời gian giữa các năm từ 1964 tới 1974, số lượng trợ giúp cho Bắc Việt lên tới 50 phần trăm trong tổng số trợ giúp của Liên Xô cho các chế độ cộng sản vệ tinh (số c̣n lại chia nhiều hơn cho Cuba và Bắc Triều Tiên).  

Từ năm 1965 tới 1968, có tới 3,000 cố vấn Liên Xô tham dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Ramesh Thakur and Carlyle A. Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (London:Macmillan, 1992), p.117). Họ dạy cho binh lính Bắc Việt cách dùng các dụng cụ do Liên Xô cung cấp, điều hành hệ thống pḥng không ở dưới đất và cũng tham dự vào các chiến trận chống lại người Mỹ và người miền Nam Việt Nam. Chính quyền Xô Việt cẩn thận che dấu cách bành trướng tham gia vào Đông Dương, ngăn cấm các nhân viên và gia đ́nh Xô Viết nói về địa chỉ của các đơn vị. Binh lính Liên Xô qua Việt Nam phải mặc y phục dân sự và khi tới nơi, mặc quân phục Bắc Việt (Trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên, phi công Xô Viết và các “người t́nh nguyện” quân sự đă mặc binh phục của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên).   

 Cựu đại tá Xô Viết Alexei Vinogradov đă viết rằng: “người Mỹ đă biết rơ rằng các máy bay Bắc Việt kiểu Xô Viết thường do các phi công Xô Viết lái”. Trong suốt thời gian của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, và cả vào thời Chiến Tranh Triều Tiên, chính quyền Hoa Kỳ đă giữ bí mật mức độ tham dự của lực lượng quân sự Xô Viết để khiến cho áp lực dân chúng không làm khó khăn khi giới hạn cuộc chiến tranh ủy nhiệm này.  

Cuộc chiến tranh giữa Do Thái và các nước láng giềng bộc phát vào ngày 5/6/1967 đă làm gia tăng hơn nữa các căng thẳng Hoa Kỳ – Liên Xô. Tại cuộc họp thượng đỉnh cỡ nhỏ ở Glassboro, New Jersey, vào ngày 23/6/1967, Thủ Tướng Xô Viết Aleksei Kosygin đă truyền đạt lời đề nghị của Hà Nội muốn trở lại bàn thương thuyết nếu cuộc oanh tạc Bắc Việt chấm dứt (nhiều gợi ư ngoại giao Hoa Kỳ, mang tên “Mayflower”, “Marigold” và “Sunflower” đă thất bại). Qua các người Xô Viết, chính quyền Johnson trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ cứu xét việc ngưng oanh tạc, nhưng lại tiếp tục nếu các đàm phán thất bại.  

Vào mùa thu năm 1967, sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ dành cho cuộc chiến Việt Nam xuống tới mức thấp nguy hiểm. Phong trào chống chiến tranh nhỏ, dẫn đầu bởi các người cấp tiến khuynh tả và các người vận động ḥa b́nh, đă thất bại trong việc thuyết phục dân chúng rằng cuộc chiến này th́ vô nhân đạo, quả vậy các lời hùng biện chống Mỹ của nhiều nhà hoạt động chống chiến tranh đă tạo nên phản ứng cực đoan mà các nhà chính trị bảo thủ có thể lợi dụng trong nhiều chục năm. Sự yểm trợ cho chiến tranh bị giảm đi khi số thiệt hại gia tăng giống như trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Phải đương đầu với sự ủng hộ của dân chúng suy giảm và gặp thử thách từ cánh tả của đảng Dân Chủ, tổng thống Johnson trong bài diễn văn đọc tại San Antonio vào ngày 27/9/1967, đă không c̣n nhấn mạnh như trước kia rằng ông chỉ ngưng cuộc oanh tạc để đổi lấy các thương thuyết và để đ̣i hỏi rằng Bắc Việt phải ngưng xâm nhập vào miền Nam Viêt Nam.  

Nhưng Hà Nội đă trù liệu một cuộc tấn công và nổi dậy tại miền nam. Kế hoạch này đi ngược với chủ trương ưa thích hơn của Trung Cộng là cuộc chiến tranh du kích cấp thấp, kéo dài, trong khi đó Hà Nội đă thành công khi kiếm được trợ giúp quân sự và một tuyên bố yểm trợ từ Moscow. Nhà sử học Ilya V. Gaiduk viết rằng: “lần đầu tiên kể từ sự giúp đỡ đầy đủ của Xô Việt cho Hà Nội, một thông cáo đă chỉ rơ loại yểm trợ quân sự nào đă được cung cấp... Cách tuyên bố rơ ràng như vậy dành cho sự trợ giúp toàn bộ th́ chưa hề có đối với Moscow trong các liên hệ của nước này với các đồng minh và các cuộc chiến ủy nhiệm”.   

Vào ngày 30/1/1968, trong dịp Tết là ngày đầu năm âm lịch Việt Cộng đă phát động một làn sóng tấn công và đột kích trong khắp miền Nam Việt Nam, tấn công Dinh Tổng Thống và ngay cả bộ Tổng Tham Mưu tại Saigon. Lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh Viêt Nam đă phối hợp và tận diệt các kẻ nổi dậy. Tại thành phố Huế, các người cộng sản chỉ bị đánh bại sau 3 tuần lễ tàn phá nơi này. Sau ngày sụp đổ của thành phố Huế, các tử thi của gần 3,000 dân sự Nam Việt Nam đă bị tra tấn và hành quyết bởi Việt Cộng, được t́m thấy trong các mồ chôn tập thể.  

https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2018/02/tham-sat-mau-than-1968-lieu-co-that-su-ton-tai-thumb.jpg

Sự thất bại trong cuộc tấn công Tết là một bước thụt lùi tàn hại về quân sự của các người cộng sản. Tuy nhiên, cuộc tấn công Tết này được coi là một thất bại dành cho Hoa Kỳ. Một lư do là v́ tính cảm nhận của các nhà báo phương tây đă cho dân chúng Mỹ một cảm tưởng sai nhầm về sức mạnh và sự ủng hộ của Việt Cộng. Nhưng một lư do quan trọng hơn là sự kiện liên quan tới các báo cáo lạc quan của tướng Westmoreland từ Nam Việt Nam, các báo cáo này đă bị mất uy tín. Cuộc chiến tranh có thể thắng được – nhưng nếu có thắng th́ c̣n xa cách cái giá mà dân chúng Hoa Kỳ có thể chấp nhận được.  

2/ Đông Dương Bị Mất Quyền Quyết Định.

Cuộc tấn công Tết Mậu Thân đă tạo nên sự rối loạn chính trị tại Hoa Kỳ. Thượng nghị sĩ Eugene McCathy, người chỉ trích chiến tranh, gần như đánh bại tổng thống Johnson trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ vào ngày 12/3 tại New Hampshire.  Cũng trong tháng 8/1968, Clark Clifford là người bi quan từ lâu về cuộc chiến, đă thay thế Robert McNamara làm bộ trưởng quốc pḥng và tướng Westmoreland được chỉ định lại làm tham mưu trưởng lục quân. Vào ngày 31/3, sau khi được “các vị khôn ngoan” (the Wise Men) (đây là một nhóm các chính khách thâm niên gồm cả cựu ngoại trưởng Dean Acheson), cố vấn rằng cuộc chiến phải giảm bớt xuống, tổng thống Johnson xác nhận rằng ông không ra tái tranh cử và công bố việc ngưng oanh tạc. Vào ngày 10/5, các đàm phán ḥa b́nh bắt đầu tại Paris.   

Vào mùa thu, do mệt mỏi v́ chiến tranh nhưng cũng chán ghét chính sách chống Mỹ của những kẻ cấp tiến phản chiến đă gây nên cuộc bạo loạn chống cảnh sát tại Đại Hội Dân Chủ năm 1968 ở Chicago, cử tri Hoa Kỳ đă bầu ông Richard Nixon làm Tổng Thống. (Giới lănh đạo Xô Viết do e sợ kết quả này, đă khuyên Bắc Việt v́ quyền lợi của họ mà nên giúp công vào cuộc bầu phiếu cho ông Hubert Humphrey bằng cách tỏ ra rằng ḥa b́nh đang gần tới).  

Tổng thống Nixon

Từ khi lănh chức vụ, ông Nixon bắt đầu t́m kiếm “nền ḥa b́nh trong danh dự” tại Đông Dương. Chiến thuật của ông ta là phối hợp các áp lực quân sự đặt lên Hà Nội và các cố gắng làm cho Moscow và Bắc Kinh xa bớt thân chủ của họ. Hai tháng sau khi ngồi vào Ṭa Nhà Trắng, Nixon đă ra lệnh oanh tạc các sào huyệt cộng sản bên trong xứ Cambốt. Thái tử Sihanouk đă bí mật chấp nhận sự việc này với điều kiện là các vùng đông dân của Cambốt không bị ảnh hưởng. Vào năm 1970, Sihanouk bị hạ bệ và chế độ mới, thân Mỹ của Tướng Lon Nol đă ra lệnh cho các kẻ chiếm đóng Bắc Việt phải ra khỏi xứ sở này. Nixon đă lợi dụng cơ hội này để ra lệnh cho lực lượng Mỹ tiến vào Cambốt trong hai tháng, t́m kiếm các bộ chỉ huy của cộng sản và phân tán mỏng quân đội Bắc Việt. Bắc Việt phản ứng lại bằng cách chiếm đóng phần lớn đất đai Cambốt và giúp cho lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot đánh lại các lực lượng của Lon Nol.  

Chiến dịch oanh tạc của Nixon tại Cambốt và miền Nam Việt Nam đă che đậy việc rút quân đội Mỹ và việc “Việt Nam hóa” chiến tranh. Vào cuối năm 1970, 280,000 quân Mỹ đă ra đi và chỉ c̣n 140,000 quân ở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1971. Tinh thần chiến đấu của binh lính Mỹ giảm xuống, không ai muốn là các thiệt hại sau cùng. Đồng thời công tác Việt Nam hóa đă bị nghi ngờ khi vào tháng 2/1971, quân lực Nam Việt Nam gặp thất bại trong việc cắt ngang đường ṃn Hồ Chí Minh tại Lào.  

Quốc Hội Hoa Kỳ, trước kia đă từng do dự khi đối đầu với các Tổng Thống Johnson và Nixon trong khi quân đội Mỹ c̣n đang ở ngoài mặt trận, nay trở nên cứng dắn hơn trong các giới hạn lập pháp khi mà quân số giảm dần. Vào ngày 12/1/1971, Quốc Hội xét lại Nghị Quyết Đông Nam Á (the Southeast Asia Resolution), cùng ngày hôm đó Tổng Thống Nixon kư Tu Chính Án Cooper-Church (the Cooper-Church Amendment), sắc lệnh này cấm dùng lực lượng bộ binh Mỹ trên miền đất Cambốt. Các nhà chính trị “diều hâu” loại ôn ḥa (moderate owls) với con số đang lên, bị báo động bởi các phí tổn v́ sự tham dự quân sự của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam, cũng như do nền kinh tế, đă tham gia cùng với các người “bồ câu” chống chiến tranh để nghiêng về chủ trương rút nhanh sự tham dự của Mỹ ra khỏi Việt Nam.  

Chính quyền Nixon đă cố gắng làm cân bằng công tác Việt Nam hóa với công việc thử khai thác các chia rẽ giữa các ông chủ của Hà Nội là Moscow và Bắc Kinh. Cuộc xâm lăng của Xô Viết vào xứ Tiệp Khắc vào năm 1968 đă không gây phản ứng dữ dội nào tại phương tây, nên đă bị Mao coi là cách xác nhận lại chủ quyền của Moscow trong khối cộng sản. Vào tháng 9/1971, sau nhiều năm e ngại chiến tranh Trung Xô, người được chỉ định kế nghiệp của Mao là Lâm Bưu (Lin Piao) đă chết trong một tai nạn máy bay phản lực bí ẩn khi ông này t́m cách trốn sang Liên Xô sau khi âm mưu với giới quân sự của Trung Cộng để lật đổ Mao.  

Những khai triển này đă khiến cho Nixon có thể cởi mở với Trung Cộng và đi qua Bắc Kinh vào tháng 2 năm 1972. Tuy nhiên viêc sát gần Mỹ Trung đă không khiến cho Trung Cộng chấm dứt yểm trợ Bắc Việt. Sự ve văn của Nixon đối với các nhà lănh đạo Xô Viết cũng thất bại trong việc mang lại kết quả trên chiến trường Đông Dương. Thực vậy, vào tháng 10/1971, do e ngại sự thông đồng Mỹ Trung, Xô Viết đă phái Nikolai Podgorny tới Hà Nội, tại nơi đây ông ta đă đề nghị sự liên kết Xô Viết với Bắc Việt chống lại Trung Cộng. Vào mùa xuân năm 1971, Moscow gia tăng các trợ giúp quân sự của họ, gửi qua Bắc Việt các chiến xa T-54 và đại bác tầm xa trong số các vơ khí chuyển qua hải cảng Hải Pḥng.Vài tháng sau, số lượng chuyển giao vơ khí lên cao tới bậc thứ hai trong suốt cuộc chiến (cao điểm là vào năm 1967).  

Do được Moscow khuyến khích và trang bị vơ khí, Bắc Việt phát động cuộc tấn công vào tháng 4, chiếm tỉnh Quảng Trị của miền nam Việt Nam và đe dọa các miền quan trọng khác. Nixon đă ngăn trở cuộc xâm lăng bằng cuộc hành quân Linebacker, đây là lần oanh tạc đầu tiên chống lại quân Bắc Việt kể từ khi Johnson ngưng ném bom vào năm 1968. Cách ngoại giao khéo léo của Nixon đă làm im lặng phản ứng của Trung Cộng và hứa hẹn cuộc họp thượng đỉnh giữa Nixon và nhà lănh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev.  

https://alphahistory.com/vietnamwar/wp-content/uploads/2012/07/shake.jpg

Lê Đức Thọ và Henry Kissinger
trong Hội Nghị Đàm Phán Paris

Vào tháng 10/1972, cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, người cầm đầu phái đoàn Bắc Việt tại cuộc ḥa đàm Paris, đă đạt tới một sự đồng ư sơ khởi. Mặc dù Kissinger đă tuyên bố rằng ḥa b́nh đang trong tầm tay, Tổng Thống Thiệu tại Saigon phản đối và Bắc Việt đă ngưng các buổi họp. Nixon bèn ra lệnh 11 ngày oanh tạc mạnh miền Bắc, nên đă mang Bắc Việt trở lại bàn hội nghị nhưng cũng đă khiến cho các kẻ khuynh tả và các kẻ cấp tiến chống đối trong ngành truyền thông và Quốc Hội coi ông ta là phạm nhân chiến tranh. Vào ngày 27/1/1973, một hiệp ước ḥa b́nh chấm dứt chiến tranh đă được kư kết tại Paris.  

Vào ngày 29/3/1973, các đơn vị Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm thứ hai của Hoa Kỳ tại châu Á vào thời gian Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ bị tổn thất 58,000 binh lính, hơn số lính chết tại Triều Tiên (56,000). Nhưng Hoa Kỳ đă để lại 10,000 quân canh giữ Nam Triều Tiên ngăn chặn Cộng Sản miền Bắc trái với việc Hoa Kỳ bỏ mặc kẻ đồng minh yếu đuối là Nam Việt Nam phải bảo vệ chính ḿnh.  

Những ǵ Nixon gọi là “ḥa b́nh trong danh dự” đă trở thành không có ḥa b́nh mà chẳng có danh dự. Thỏa ước Paris là một cách đầu hàng Hà Nội được che dấu sơ sài. Quân đội chính quy Bắc Việt được phép lưu lại các khu vực của Miền Nam mà họ đă kiểm soát. Đầu tiên bị làm yếu đi và bị loại ra khỏi văn pḥng bởi vụ tai tiếng Watergate, Nixon không thể làm tṛn lời hứa với Tổng Thống Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ cứu nguy chế độ này bằng cách dùng không lực khi cần thiết.  

Trong khi phe đa số Dân Chủ trong Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối cung cấp các yểm trợ yêu cầu do Nixon và do chính quyền Ford, Xô Viết gia tăng sự trợ giúp của họ cho Bắc Việt, bằng cách cung cấp các vơ khí cao cấp hơn, gồm cả chiến xa hiện đại và súng pḥng không. Vào cuối năm 1974, Hà Nội bắt đầu đánh phá để chuẩn bị cho cuộc tấn công cuối cùng. Hà Nội đă ngạc nhiên thấy rằng sự chống cự suy sụp nhanh chóng và trong khi tổng thống Thiệu cùng các nhà lănh đạo khác của miền Nam bỏ chạy khỏi quê hương một cách nhục nhă, quân đội Bắc Việt đă nhanh chóng tràn chiếm miền Nam.  

https://dongsongcu.files.wordpress.com/2019/04/3ba32-the-end.jpg  

Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ là kẻ hưởng lợi của quân đội Bắc Việt chống lưc lượng quân sự Cambốt, đă nắm chính quyền tại xứ này. Hai tuần lễ sau, vào ngày 30 tháng 4, Saigon sụp đổ trước lực lượng quân sự Bắc Việt và nhân viên Mỹ cùng với các người Việt Nam tuyệt vọng hoảng sợ di tản.   

 Miền Nam Việt Nam bị thua v́ thiếu nhân lực, thiếu súng đạn, đă sụp đổ không phải v́ cuộc nổi dậy của dân chúng, nhưng v́ một trong các quân lực mạnh nhất và kinh nghiệm nhất trên thế giới, quân lực này được trang bị bởi hai nước toàn trị hùng mạnh nhất kể từ thời Đức Quốc Xă.  

3/ Hoa Kỳ Trên Đường Rút Lui.

Theo sau sự sụp đổ tàn nhẫn của miền Nam Việt Nam là cách kết hợp toàn trị về mọi phương diện chính trị, văn hóa và đời sống xă hội. Hàng trăm ngàn người Miền Nam bị gom lại và bị nhốt vào các “trại giáo dục cải tạo” (reeducation camps), số người bị hành quyết không được biết rơ. Các thành phần của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (the National Liberation Front) bị người cộng sản của miền Bắc đẩy ra ngoài, những người này chiếm đoạt các ṭa nhà lớn và các động sản của giới cao cấp Saigon và họ trở thành một giai cấp cai trị mới vừa độc tài, vừa tham nhũng.  

Tại các nước Đức, Trung Hoa và Cuba cũng như tại các quốc gia khác mà người cộng sản nắm được chính quyền, hàng ngàn người dân đă bỏ phiếu bằng chân, họ là các kẻ tỵ nạn bỏ chạy. Tại Đông Đức đă có bức tường ngăn cản dân chúng không bỏ chạy được. Vào thập niên 1950, hơn một triệu người Việt Nam đă bỏ chạy chế độ đàn áp của Hồ Chí Minh qua miền Nam tương đối tự do hơn. Ngày này, khi mà các người kế tục của Hồ củng cố quyền kiểm soát của họ trên toàn đất nước th́ đă bắt đầu một trong các cuộc bỏ xứ ra đi lớn lao nhất trong cuối thế kỷ 20. 

The United States has no obligation to evacuate one, or 100,001, South Vietnamese.
-- Senator Joe Biden  

Hoa Kỳ không có nhiệm vụ di tản một hay một trăm ngàn lẻ một người dân miền Nam Việt Nam.
-- TNS Joe Biden
 

Vào giữa thập niên 1970, hơn 750,000 người Việt Nam đă bỏ chạy qua Hoa Kỳ và hơn một triệu người đă sinh sống trong các quốc gia tây phương khác (*). Số đông khác cũng vượt thoát qua Trung Hoa và các quốc gia khác trong vùng. Không có một cuộc chiến tranh Đông Dương nào đă khiến cho có số người tỵ nạn đông đảo như thế tại ngoại quốc bằng nền ḥa b́nh dưới quyền cai trị cộng sản. Một thảm họa lớn hơn cũng xẩy ra tại xứ Cambốt khi phe Khmer Đỏ, theo đúng văn bản cực tả của Mao rút từ chủ nghĩa Mác Xít- Lênin-nít, đă thực hiện một chiến dịch tập trung tàn nhẫn rồi một phần tám tới một phần tư dân số Cambốt đă bị hành quyết hay bỏ mặc cho chết đói.  

Sự thắng lợi của nước ủy nhiệm của Liên Xô là Bắc Việt, và sự làm mất uy tín cùng với t́nh trạng tê liệt của Hoa Kỳ trong chính sách ngoại giao theo sau cuộc sụp đổ của Saigon, đă làm vững mạnh thành phần lănh đạo Xô Viết trong các ảnh hưởng tại châu Á, châu Phi, miền Trung Đông và miền châu Mỹ La Tinh. Sau khi đă thừa hưởng Đông Dương là phần đất trước kia của đế quốc Pháp, Liên Xô ngày nay lại chiếm cứ các phần của đế quốc Bồ Đào Nha tại châu Phi.   

Vào cuối thời kỳ của chính quyền Carter, Liên Xô đă phái đi vào khoảng 50,000 cố vấn quân sự tới các quốc gia thuộc Thế Giới Thứ Ba. Trong thập niên 1960, các nước nằm bên ngoài Đông Âu và Trung Hoa lănh đạo do “đảng tiên tiến Mác Xít Lênin-nít”, chỉ gồm có Mông Cổ, Bắc Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Qua thập niên 1980, tham gia vào chế độ kể trên là các chính quyền thân Xô Viết tại Afghanistan, Angola, Ethiopia, Mozambique, Nam Yemen, Benin và Congo-Brazzaville, cùng với các chế độ theo cộng sản lỏng lẻo tại các xứ Zaire, Guinea-Bissau, Cape Verde và Madagascar.   

Trong công việc bành trướng ảnh hưởng qua Thế Giới Thứ Ba, các người Xô Viết trông cậy vào các nước phụ trong đế quốc cộng sản. Ngành Công An của Đông Đức đă giúp đỡ các chính quyền thân Xô Viết như Angola, Ethiopia, Libya, Mozambique, Zambia và Nam Yemen để thiết lập các hệ thống an ninh nội địa. Các chuyên viên Cuba đă huấn luyện các vệ sĩ cho các nhà độc tài và các sĩ quan công an cho một số nước thuộc Thế Giới Thứ Ba, gồm cả Angola, Nicaragua và Ethiopia. Trong khi đó vẫn tiếp tục sự tăng cường quân sự Xô Viết, bắt đầu sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Trong hai thập niên 1960 và 1970, CIA của Hoa Kỳ ước lượng rằng từ 12 tới 16 phần trăm của tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Liên Xô được dành cho quân sự và nhiều người đă chỉ trích rằng tỉ lệ kể trên là quá đáng. Sau Cuộc Chiến Tranh Lạnh kết thúc, mọi người được biết rằng CIA đă ước lượng quá thấp các chi phí quân sự của Liên Xô và chi phí này cao tới 25 phần trăm của GDP.  

Vào giữa thập niên 1970, vị trí của Hoa Kỳ trên thế giới bị suy đồi rất nhiều. Sự yếu kém của Hoa Kỳ, rơ ràng trong cách bỏ rơi Đông Dương, c̣n được làm sáng tỏ thêm vào tháng 10 năm 1973 khi tất cả các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ tại châu Âu ngoại trừ Bồ Đào Nha, đă từ chối không cho phép Hoa Kỳ dùng các phi trường của họ để tiếp tế trở lại cho nước Do Thái trong cuộc Chiến Tranh Ả Rập-Do Thái. Chính quyền Nixon đă từ bỏ hệ thống hối đoái cố định Bretton Woods khiến cho Hoa Kỳ không theo bản vị bằng vàng (gold standard). Cuộc cấm vận dầu lửa của khối OPEC, thực hiện mà không e sợ sự trừng phạt của Hoa Kỳ, đă làm tổn hại nền kinh tế của Hoa Kỳ và các nền dân chủ kỹ nghệ khác. Hiệp Ước Helsinki phê chuẩn tính hợp pháp của đế quốc cộng sản Đông Âu mà Stalin đă tạo nên, và đế quốc này chỉ được duy tŕ bằng các cuộc xâm lăng của Xô Viết vào các năm 1953, 1956 và 1968. Khối đa số thân Liên Xô đă được thành lập trong Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.  

Chính quyền Carter bị chia rẽ thành khối thiểu số gồm những nhân vật cứng dắn chống Liên Xô như cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski, và khối đa số gồm những người cấp tiến chống Chiến Tranh Lạnh như bộ trưởng ngoại giao Cyrus Vance, là người đă bỏ qua cách  bành trướng đế quốc Xô Viết trong Thế Giới Thứ Ba bằng phương tiện nước ủy nhiệm Cuba, và sau này ông Vance cũng từ chức để phản đối khi tổng thống Carter dùng sức mạnh trong công cuộc giải cứu các con tin Mỹ tại Iran nhưng cố gắng kể trên đă gặp thất bại. Ngay cả Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc của ông Carter là ông Andrew Young, đă mô tả nước phụ thuộc Cuba của Moscow tại châu Phi là một “ảnh hưởng làm ổn định” (a stabilizing influence).   

Cựu tổng thống Lyndon Johnson chết v́ bệnh tim vào năm 1973, đă không sống lâu để nh́n thấy các cơn ác mộng của ông thành sự thật: Hoa Kỳ đang rút lui trên thế giới trước đế quốc Xô Viết đang tiến tới, sự gần sụp đổ của đồng minh NATO trước các nghi ngờ về uy tín của Hoa Kỳ và cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa Hoa Kỳ và các thân chủ của Liên Xô và Cuba tại Nicaragua, với Cuba là một xứ vệ tinh của Xô Viết trên miền lục địa Bắc Mỹ.  

Trong khi Liên Xô bành trướng sức mạnh và ảnh hưởng của họ trên toàn thế giới sau cuộc sụp đổ của Saigon; tại Đông Dương, t́nh h́nh vẫn biến động. V́ bị mất ảnh hưởng tới các người Bắc Việt, Trung Cộng đă bảo trợ Khmer Đỏ trong các vụ xung đột biên giới với Việt Nam. Sau một thời gian ngắn suy thoái về ngoại giao, cách thức đồng minh Xô -Việt được làm sống lại bằng các buổi họp tại Moscow vào tháng 5 và tháng 6 năm 1977. Vào đầu năm 1978, tướng Giáp bí mật qua Lào, tại nơi này ông ta đă hỏi tướng G. Pavlovsky, tư lệnh các lực lượng Xô Viết trên bộ rằng Việt Nam phải làm ǵ đối với Cambốt. Pavlovsky đă khuyên bảo Hà Nội nên “làm ra một xứ Tiệp Khắc” (do a Czechoslovakia). Vào tháng 8 năm 1978, Xô Viết bắt đầu cung cấp cho Việt Nam các quân dụng để xâm lăng Cambốt và đă gia tăng con số cố vấn Xô Viết tại Đông Dương từ 2,000 lên tới 3,500 người.   

Vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đă kư một hiệp ước 25 năm Thân Hữu và Cộng Tác với Liên Xô (a 25-year Treaty of Friendship and Cooperation). Với sự ủng hộ Xô Viết đă được bảo đảm như vậy, Việt Nam xâm lăng Cambốt vào ngày 15/12/1978 và chiếm thủ đô Phnom Penh chưa tới một tháng sau. Phe Khmer Đỏ bỏ chạy về phía biên giới Thái Lan, tại nơi này họ và các nhóm chống cự các kẻ chiếm đóng Việt Nam, đă nhận được sự trợ giúp của Trung Cộng, Hoa Kỳ và Thái Lan.   

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/7/74/Vietnam_china.jpg

Vào ngày 17/2/1979, Trung Cộng xâm lăng các tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam và đă chịu thiệt hại lớn lao trước khi rút quân sau 16 ngày. Vụ xung đột Hoa-Việt và cuộc chiếm đóng Cambốt của Việt Nam đă làm leo thang cách trợ giúp quân sự đồ sộ của Xô Viết tới bậc cao nhất. Tại cao điểm, sự trợ giúp này vượt trội mức độ giúp đỡ của Xô Viết cho Bắc Việt khi chiến tranh với Hoa Kỳ. Ngoài ra, để hiện đại hóa không quân và hải quân của Việt Nam, Moscow đă cung cấp nhân viên và yểm trợ tiếp liệu để Việt Nam chiếm đóng Cambốt. Các cuộc hành quân của Việt Nam tại Cambốt lệ thuộc vào các phi công Xô Viết và hàng trăm binh lính và dân sự Xô Viết đă dỡ các khối hàng tiếp liệu của Liên Xô tại các hải cảng của Việt Nam. Để đền đáp lại công ơn đă giúp sức vào công cuộc thống trị cộng sản của Bắc Việt trên toàn cơi Đông Dương, Liên Xô được phép dùng các phương tiện quân sự tại đây. Căn cứ Xô Viết tại Vịnh Cam Ranh đă trở thành căn cứ quân sự rộng lớn nhất và quan trọng nhất của Liên Xô nằm bên ngoài Đông Âu.  

Vào giữa thập niên 1980, quân đội Việt Nam được Liên Xô bao cấp, với hơn 1 triệu lính chính quy và 2 triệu lính phụ thêm, đă trở nên lực lượng quân sự lớn thứ ba trên thế giới, đứng sau quân đội Nhân Dân Giải Phóng của Trung Cộng và quân lực Xô Viết. Nhân dân Việt Nam đă phải trả một giả khủng khiếp cho chế độ quân phiệt của các nhà cai trị toàn trị của họ. Vào cuối thập niên 1970, hệ thống nông nghiệp xă hội chủ nghĩa của Việt Nam đang trên bờ sụp đổ. Mặc dù các cải cách nhỏ hướng về thị trường vào năm 1979 và 1980, chỉ nhờ vào sự trợ giúp đồ sộ của Liên Xô mới tránh cho Việt Nam khỏi bị nạn đói giống như hai nước thân chủ khác của Liên Xô là xứ Ethiopia theo Mác Xít- Lênin-nít của ông Mengistu, chịu nạn đói vào thập niên 1980, và xứ Bắc Triều Tiên bị chết đói trong thập niên 1990.  

4/ Cuộc Chiến Tranh Lạnh Thứ Hai.

Tại nước Afghanistan, nhờ cuộc đảo chánh năm 1978 chế độ thân Xô Viết đă nắm quyền rồi tiếp theo là một cuộc nội chiến và cuộc xâm lăng của Liên Xô vào ngày 27/12/1979. Vào thời gian này, khối Xô Viết đang ở đỉnh quyền lực cao nhất trên thế giới. Trong khi Liên Xô đang tham dự vào cuộc chiến tranh toàn diện đầu tiên bên ngoài đế quốc Đông Âu kể từ năm 1945, các phó vương người Việt của Liên Xô cũng chinh phục Đông Dương; và xứ ủy nhiệm Cuba đang đánh nhau tại châu Phi, giúp đỡ các nổi loạn trong miền Trung Mỹ và giúp vào sự liên kết với khối Xô Viết của nền độc tài Sandinista tại Nicaragua.  

Cuộc xâm lăng Afghanistan của Liên Xô cùng với cách đàn áp phong trào lao động Đoàn Kết chống cộng sản (Solidarity) bằng chế độ thiết quân luật tại nước Ba Lan vào năm 1981, đă giúp công vào việc củng cố quan điểm chống Xô Viết tại phương tây. Các nhà bảo thủ chống cộng đă lên nắm quyền tại các quốc gia chính trong Cộng Đồng Đại Tây Dương: Magaret Thatcher tại nước Anh (1979), Ronald Reagan tại Hoa Kỳ (1981) và Helmut Kohl tại Tây Đức (1983). Đối đầu với sự phản đối hàng loạt của các người khuynh tả, các nhà lănh đạo phương tây, kể cả tổng thống thiên xă hội của nước Pháp là Francois Mitterrand, đă cho dàn ra các tên lửa NATO để phản ứng lại mối đe dọa của các tên lửa tầm trung của Liên Xô.   

Dưới thời Reagan, Hoa Kỳ loại bỏ t́nh trạng bớt căng thẳng của thời kỳ Nixon-Kissinger và chính sách giao động cùng dịu ḥa của Carter, mà quay về với chính sách giống như của Truman-Kennedy-Johnson, tức là chính sách ngăn chặn toàn cầu đối với Liên Xô. Cách tăng cường quân sự của Reagan, yểm trợ các cuộc nổi dậy chống cộng sản tại Afghanistan, Nicaragua, Angola và các nơi khác, và cuộc chiến tranh ư thức hệ không nhân nhượng (gồm cả cách chế diễu nhưng mô tả đúng Liên Xô là một đế quốc của tội ác) đă thành công trong việc đánh thuế hệ thống Xô Viết tới độ các nhà lănh đạo Liên Xô phải chọn giữa cách rút lui hay phá sản. Nhà lănh đạo Xô Viết Mikhail Gorbachev đă chọn chính sách rút lui vào thập niên 1980 nhưng đă không tránh cho Liên Xô khỏi bị sụp đổ v́ kinh tế.

Vào năm 1989, do áp lực của Moscow, Hà Nội tuyên bố rút lui khỏi Cambốt. Bị hoảng sợ v́ các cuộc cách mạng dân chủ thổi qua miền Đông Âu, các nhà lănh đạo già nua theo Stalin tại Hà Nội đă dập tắt các bất đồng chính kiến trong nước của họ.  Là nước đă từng được Trung Cộng gọi là “nước Cuba của châu Á” (the Asian Cuba) và sau khi Liên Xô tan ră vào năm 1991, Việt Nam lúc này nhận thấy ḿnh bị trôi dạt khi không c̣n lệ thuộc vào Moscow. Nhưng các nhà lănh đạo theo chủ nghĩa Mác Xít-Lênin-nít tiếp tục nắm quyền tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào và Cuba. Chế độ Cộng Sản, trước kia là niềm tin để tranh đấu, nay đang hấp hối. Và cuộc Chiến Tranh Thứ Ba cuối cùng đă chấm dứt.  

5/ Kẻ Thắng Người Bại Tại Việt Nam.

Ai là người đă chiến thắng, ai là kẻ bị thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam? Các kẻ bị hoàn toàn thất bại là các viên chức của miền Nam Việt Nam, quốc gia của họ bị xóa bỏ trên bản đồ. Các người cộng sản Bắc Việt đă chiến thắng nhưng với giá của sự phá sản và cô lập khi sự bảo trợ của Liên Xô sụp đổ.  

Toàn thể dân tộc Việt Nam cũng là kẻ bại. Cả hai phía người Việt bị thiệt hại mất 2 triệu người và sự tàn phá phần lớn đất đai, theo sau là hệ thống Stalin-nít tàn bạo và vô lư (irrational) của miền Bắc áp dụng cho toàn thể đất nước vào năm 1975. Mọi người dân Việt Nam đă chịu đau khổ do cuộc chiến thắng cộng sản, đây là những người c̣n ở lại trong nước, và gần hai triệu người đă bỏ chạy ra khỏi nước. Dân tộc Lào cũng chịu đau khổ tương tự. Cơn hấp hối lớn nhất xẩy đến cho dân tộc Cambốt, họ đă phải chịu đựng cuộc tàn sát tập thể và nạn đói khát trầm trọng dưới quyền cai trị của những người cộng sản Cambốt.  

Trong số các siêu cường đă tham dự vào cuộc Chiến Tranh Lạnh tại Đông Dương, các nước Pháp, Trung Cộng và Hoa Kỳ đều là các kẻ bại. Nước Pháp đă hy sinh gần 100 ngàn quân và c̣n đang bị mất đế quốc Đông Nam Á, trên thứ nền móng này mà nước Pháp tự coi là siêu cường sau Thế Chiến Thứ Hai. Trung Cộng đă khám phá quá trễ rằng do giúp đỡ Hà Nội, họ cũng tạo nên một đồng minh của Liên Xô đáng ghét tại biên giới của họ.  

Hoa Kỳ chịu sự thất bại mang tính cách tàn phá (devastating).Trong cuộc chơi kẻ thắng ăn cả người bại mất hết (zero-sum) của nền trật tự thế giới hai cực, sự thất bại của Washington là sự thắng lợi của Moscow. Đồng thời cái giá về số người chết và người bị thương của Mỹ tạm thời phá hủy sự nhất trí trong nước trước cuộc Chiến Tranh Lạnh. Hoa Kỳ đă thương lượng với đế quốc Liên Xô về một cuộc đ́nh chiến không thuận lợi và đă từ bỏ chính sách ngăn chặn trong một thập niên, chỉ trở lại chính sách quân sự chống Xô Viết vào cuối thập niên 1970. Vào thời kỳ đó, cuộc Chiến Tranh Việt Nam là cuộc thất bại lớn lao xếp hàng thứ hai mà Hoa Kỳ phải chịu đựng trong cuộc Chiến Tranh Lạnh.  

 Cuộc thất bại lớn lao nhất của chính sách Chiến Tranh Lạnh của Hoa Kỳ, dù không dùng quân lực, là sự chiến thắng của các người cộng sản Trung Quốc được Xô Viết bảo trợ vào năm 1949- một chiến thắng mà nếu không có, sẽ không xẩy ra các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam.  

Người ta thường nói rằng Hoa Kỳ là một cường quốc kiêu ngạo, đă bị thất bại trước các cố gắng anh hùng của một nước nhỏ và yếu hèn của châu Á. Điều này không đúng. Yếu tố can thiệp do Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, đặc biệt là mối đe dọa bởi Trung Cộng sẽ can thiệp bằng quân tham chiến, như họ đă từng làm tại Triều Tiên, đă cản trở Hoa Kỳ xâm lăng hay tham dự vào một cuộc chiến toàn diện chống Bắc Việt. Và khối hỗn hợp quân sự Liên Xô và Trung Cộng đă giúp cho quân Bắc Việt tiếp tục cho tới khi họ thành công vào năm 1975, rồi sau năm này, sự trợ giúp c̣n cao hơn nữa của Liên Xô đă làm cho đế quốc Việt Nam được thực hiện tại Lào và Cambốt.   

 Không thể có được sự thành công của Hà Nội nếu không có sự yểm trợ của hai trong số ba nước hùng mạnh nhất theo chế độ toàn trị sát nhân trong lịch sử.  

Cuộc Chiến Tranh Việt Nam khởi đầu một thời đại gồm các thành công Xô Viết lớn lao nhất trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. Nếu các áp đặt của các chế độ cộng sản do Hồng Quân và các nhân viên Xô Viết tại Đông Âu không được kể là các cuộc cách mạng thực sự, th́ vào thập niên 1970 là các chiến thắng của Liên Xô khi bảo trợ các chế độ theo chủ nghĩa Mác Xít- Lênin-nít, khi mà Hoa Kỳ bị đẫm máu tại Đông Dương, đă tạm thời từ bỏ chiến thuật ngăn chặn và bắt đầu rút lui vào chủ nghĩa cô lập (isolationism).   

Do yểm trợ đệ tử của Stalin là Hồ Chí Minh và những người kế tiếp ông ta trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm, các nhà lănh đạo Xô Viết đă lấy lại được quyền lănh đạo cách mạng thế giới từ Trung Cộng của Mao, chặn đứng Trung Cộng tại biên giới phía nam, làm nhục và tạm thời làm tê liệt Hoa Kỳ.

Vào thời gian đó, kẻ chiến thắng rơ ràng trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam là Liên Xô.  

Phạm Văn Tuấn

chuyển ngữ  

(Chuyển ngữ từ tác phẩm “Vietnam, The Necessary War”, của Nhà Sử Học Michael Lind, The Free Press, N.Y.1999).  

https://www.publishersweekly.com/9780684842547

Tiểu sử tác giả Michael Lind: 

https://en.wikipedia.org/wiki/Michael_Lind  

(*) Biden Can Redeem His Mistake

In 1975, he failed to see what America owed the Vietnamese who had bet their lives on American promises.

https://www.theatlantic.com/ideas/archive/2021/04/biden-second-chance/618586/

Trở lại