Đă đến lúc mạnh tay với Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông Jerry Hendrix Trường Sơn chuyển ngữ |
Nếu
chúng ta để mặc Trung Quốc tiếp tục
mở rộng vị thế và tham vọng [tại khu
vực Biển Đông] th́ chúng ta cũng đang làm
ngơ trước khả năng xảy ra xung đột
ở quy mô lớn hơn sau này.
Thủy
thủ Trung Quốc trong nghi thức tiếp đón
Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ Ray Mabus vào năm
2012. Ảnh của Sam Shavers, Trưởng nhóm Chuyên viên
Truyền thông Đại chúng của Hải quân Hoa
Kỳ. Trung
Quốc vẫn đang duy tŕ những động thái
gây hấn ở Biển Đông. Cách họ đâm ch́m
tàu đánh cá của Việt Nam hay cách
họ tiếp tục nạo vét cát và san hô để
bồi đắp các đảo nhân tạo đều
chứng minh ư định xâm lược, thái độ
hiếu chiến và thiếu tôn trọng của họ
đối với các nước láng giềng trong khu
vực. Với
những hành động như vậy, rơ ràng chính
quyền Bắc Kinh không có ư định thay đổi
lập trường hay thậm chí t́m kiếm một
giải pháp trung gian, công bằng để khẳng
định chủ quyền ở Biển Đông. Hoa Kỳ,
trong sự hợp tác với đồng minh và đối
tác ở Tây Thái B́nh Dương, cần phản
ứng mạnh tay hơn trước một t́nh h́nh
như vậy. Hăy
bắt đầu với một số sự kiện.
Yêu
sách về lănh thổ của Trung Quốc, dựa trên
một bản đồ xuất hiện năm 1947
với đường lănh hải gồm chín đoạn
bao quanh Biển Đông, hoàn toàn không có
cơ sở pháp lư trong thực tế.
Trung
Quốc chưa bao giờ là một quốc gia hướng
đại dương.
Nỗ lực ngắn ngủi nhằm đạt
được quyền lực trên biển của
quốc gia này, chính
là hành tŕnh của Đô đốc Trịnh Ḥa –
một thái giám đời nhà Minh, chỉ kéo dài 28 năm
và đă kết thúc 650 năm trước. Đường
chín đoạn vốn được khẳng định
trong thời Trung Hoa Dân Quốc[1],
chính
quyền hiện tại ở đảo Đài Loan,
sau khi nước Nhật bại trận trong Thế
chiến và chính phủ Dân Quốc đă nỗ
lực yêu cầu bồi thường v́ những
cuộc xâm lược tàn khốc của Nhật
Bản trong thời chiến.
Những
tuyên bố như vậy đă không được công
nhận bởi cộng đồng quốc tế khi
ấy hay bây giờ; bởi v́ bề rộng của
đường lănh hải trong yêu sách của Trung Hoa
Dân Quốc phụ thuộc vào những băi cát
thấp, chỉ hiện diện khi thủy triều
xuống thấp, nên không thể tiệm cận
với bất kỳ cơ sở nào trong luật pháp
quốc tế. Cách
Trung Quốc nỗ lực mở rộng các băi cát
bằng vật liệu nạo vét cũng không phù
hợp với luật pháp quốc tế, bởi
vốn không hề có tiền lệ cho phép các
quốc gia có thể chủ động “tạo ra”
lănh thổ có chủ quyền hay nắm quyền
sở hữu vùng nước xa hơn 12 hải lư so
với phần lănh thổ thuộc chủ quyền. Khả
năng một quốc gia yêu cầu bồi thường
chiến tranh bằng lănh hải cũng đă bị
luật pháp quốc tế từ chối ngay từ năm
1609, khi nhà triết học Hà Lan Hugo Grotius định
hướng về mặt pháp lư vấn đề
tự do hàng hải qua việc khẳng định rằng
biển là “tài sản chung của tất cả”
trong công tŕnh The Free Sea. Lời
giải đáp cho truy vấn về lư do Trung Quốc
muốn thiết lập chủ quyền đối
với các đảo trong một lănh hải rộng
như vậy ngày càng trở nên rơ ràng hơn. Bất
chấp những tranh luận về nguồn cung năng
lượng và thực phẩm có thể rất phong
phú bên dưới những vùng nước của
Biển Đông, những động thái của chính
phủ Bắc Kinh ngày càng cho thấy rằng quốc
gia này đang t́m cách mở rộng tầm kiểm soát
trong khu vực bằng lợi thế quân sự riêng
của ḿnh và thiết lập sự thống trị
đối với các quốc gia láng giềng khác. Từ
Malaysia đến Đài Loan và từ Philippines sang
Việt Nam,
thông điệp mà chính phủ Trung Quốc muốn
gửi đến những quốc gia này đều
nhất quán và rơ ràng: hoặc
họ phục tùng những yêu sách của Trung
Quốc hoặc họ chấp nhận hậu quả. Những
nỗ lực theo đuổi vỏ bọc của
một lập trường “trỗi
dậy trong ḥa b́nh”
ngày trước nhằm che giấu tham vọng của
quốc gia này đă
kết thúc.
Bây giờ chỉ c̣n lại một nỗ lực
trần trụi nhằm đạt được uy
quyền và khả năng cai trị trong khu vực, nhưng
tại sao lại là lúc này? Thời
gian khả dĩ để Trung Quốc lấy lại
vị thế của một Siêu Cường đă
gần hết.
T́nh
h́nh suy thoái kinh tế, dân số ngày càng già đi, và
nỗ lực chuyển tiền ra nước ngoài
của tầng lớp tinh hoa trong Đảng Cộng
sản Trung Quốc đều cho thấy rằng
thời kỳ tăng trưởng đă qua và bất
cứ ai trong tầng lớp cầm quyền đều
hiểu rơ t́nh h́nh. Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh đă nỗ
lực khơi dậy ngọn lửa chủ nghĩa dân
tộc trong ḷng những kẻ cuồng tín của
bằng cách tổ chức một cuộc diễu hành
mừng chiến thắng của Trung Quốc trước
Nhật Bản 70 năm trước, một chiến
thắng mà Đảng Cộng sản Trung Quốc, không
như chính phủ ở đảo Đài Loan, không
hề có quyền đưa ra yêu sách bồi thường
chiến tranh một cách hợp pháp. Đây
chính là lúc chính phủ Hoa Kỳ phải mạnh tay
với sự ngạo mạn của Trung Quốc.
Nước
Mỹ nên lập tức đưa tàu chiến, có
lẽ một
trong những tàu khu trục Aegis tiên tiến nhất,
vượt
qua giới hạn 12 hải lư
của một hoặc tất cả các ḥn đảo
nhân tạo của Trung Quốc nhằm chứng minh
một cách rơ ràng rằng tất cả những đảo
này không thuộc chủ quyền lănh thổ Trung
Quốc, cả trong hiện tại và tương lai. Lực
lượng tàu khu trục này đều được
vũ trang toàn diện, đều sở hữu
khả năng xuất sắc trong duy tŕ hoạt động
trên biển, và có khả năng “đáp trả”
những tàu cố gắng đâm vào chúng hoặc
buộc chúng thay đổi hành tŕnh. Hải quân Hoa
Kỳ nên đến sẵn sàng để “dùng vũ
lực với kẻ không phận sự”. Diễn
biến kiểu này không cần phải xảy ra vào lúc
ông Tập chuẩn bị sang thăm Hoa Kỳ. Chúng
ta khác với Trung Quốc, họ luôn cố gắng làm
bẽ mặt các quan chức Hoa Kỳ trong khi những
nhà ngoại giao ấy sang thăm Trung Quốc, qua
việc thực hiện những động thái gây
hấn mới, chúng ta không cần phải cúi ḿnh
thực hiện những hành vi như vậy trong khi
Chủ tịch của họ ở đây.
Minh
chứng về quyền tự do trong cách thể
hiện sức mạnh hàng hải nên diễn ra trước
khi ông Tập đến nơi, giúp Tổng thống
Hoa Kỳ có thêm cơ hội nhấn mạnh rằng
tự do thương mại và tự do hàng hải
đều là những vấn đề cốt lơi
trong lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ.
Sau
đó ông Tập có thể hồi đáp trong
thiện chí, hoặc quyết định không ghé thăm
nữa và từ bỏ một cơ hội đối
thoại với nước Hoa Kỳ. Cần làm rơ rằng, quy ước giao chiến phải được thông báo đến mọi sĩ quan chỉ huy tàu chiến, nhưng mục tiêu chiến lược vẫn là duy tŕ được tiền lệ pháp lư trên các vùng biển tự do đă kéo dài 400 năm. Nếu chúng ta để mặc Trung Quốc tiếp tục mở rộng vị thế và tham vọng th́ chúng ta cũng đang làm ngơ trước khả năng xảy ra xung đột ở quy mô lớn hơn sau này. *** [1]
Trung Hoa Dân Quốc ở đây không phải là chính
quyền Đài Loan hiện tại mà là chính quyền
Dân Quốc được thành lập vào năm 1912,
thay thế nhà Thanh, chế độ phong kiến kéo dài
hơn 2000 năm ở Trung Quốc. Đây cũng là
nền cộng ḥa tồn tại lâu đời
nhất ở Đông Á. Trong lúc chế độ này
cầm quyền tại Trung Hoa đại lục, Trung
Quốc đă bị nhiềumc thế
lực tranh giành quyền lực, và cuối cùng lao vào
một cuộc nội chiến. Cuộc nội
chiến này tạm kết thúc năm 1949, khi Đảng
Cộng sản Trung Quốc kiểm soát gần toàn
bộ Trung Hoa đại lục trong khi chính quyền
Trung Hoa Dân quốc kiểm soát đảo Đài Loan và
một số đảo khác. Đảng Cộng
sản Trung Quốc tuyên bố thành lập một
quốc gia mới, nước Cộng ḥa Nhân dân Trung
Hoa, tại Bắc Kinh năm 1949. C̣n
chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan
tiếp tục khẳng định rằng đây
mới là chính phủ chính thống của toàn bộ
Trung Quốc. Jerry Hendrix là Giám đốc của Chương tŕnh Phân tích và Chiến lược Pḥng thủ tại Trung tâm An ninh Mới của Hoa Kỳ, ông cũng là Đại úy Hải quân Mỹ đă về hưu, cựu giám đốc của chương tŕnh Lịch sử Hải quân và Di sản Quyền Chỉ huy. |