Đă Tới Lúc Nước Mỹ Xét Lại Cách Dạyvề
Chiến Tranh Việt Nam
Giáo
sư Keith Weller Taylor Chuyển ngữ: Vơ Thành Văn |
Giới Việt học biết tới Giáo sư Taylor
qua nhiều cuốn sách nổi tiếng về lịch
sử Việt Nam: The Birth of Vietnam : Sino-Vietnamese relations
to the Tenth Century and the Origins of Vietnamese Nationhood (Luận
án Tiến sĩ – University of Michigan, Ann Arbor, 1976)
được tái bản có hiệu đính (Berkeley:
University of California Press, 1983), dịch sang Việt
ngữ và đăng nhiều kỳ trên Da Màu; Essays
into Vietnamese Pasts (đồng chủ biên với John K.
Whitmore (Ithaca, N.Y.: Southeast Asia Program, Cornell University, 1995);
A Southern Remembrance of Cao Bien (1999); In Search of Vietnamese
Classical Moments (1999); Surface Orientations in Vietnam: Beyond
Histories of Nation and Region (1998), Nguyen Hoang and the Beginning of
Vietnam’s Southward expansion (1993).
Tôi sẽ bàn về ba định đề nổi
bật nhất về chiến tranh Việt Nam của
phong trào phản chiến tại Mỹ vào cuối
thập niên 60, và sau đó, đă được các
giáo sư của hầu hết các trường Đại
Học đồng ư dùng làm nền tảng khi
giảng giải về cuộc chiến. Các định
đề đó là:
- Không có một chính phủ chống cộng hợp
pháp tại Sàig̣n.
* Tôi
phải mất nhiều năm mới thoát khỏi ba
định đề trên để thấy rằng chúng
chỉ là mảnh vụn ư thức hệ của phong
trào phản chiến hơn là những quan điểm
được xây dựng trên luận lư và chứng
cớ. Tôi đạt thành quả trên nhờ đă ḥa
hợp được với kinh nghiệm của chính
ḿnh.
Tôi vừa tốt nghiệp Cử nhân [B.A.] năm 1968,
và trong có hai tuần sau khi măn khóa lại nhận
được thư triệu đến trung tâm
tuyển mộ gần nhất để khám sức
khỏe. Sau vụ Tết Mậu Thân mùa Xuân năm
đó, cấp số động viên được
đặc biệt nâng cao và đa số chúng tôi
đang hy vọng được hoăn dịch thay v́
bị động viên đă phải nh́n vào thực
tế là chính bản thân ḿnh sắp đối
diện với cuộc chiến. Tôi nhớ là lúc
đó chúng tôi có năm lựa chọn để
khỏi nhập ngũ. Một trong các lựa chọn
đó là “không đủ sức khỏe” và chúng tôi
có nhiều cách để thực hiện điều
đó. Tôi loại bỏ giải pháp ấy ngay v́ nó
không phù hợp với ư niệm về danh dự
của tôi. Một giải pháp khác là làm đơn
xin miễn dịch v́ là một người
“chống đối v́ lương tâm”, và biện
hộ bằng cách chứng minh tín ngưỡng ḿnh không
cho phép nhập ngũ. Tôi cũng loại giải pháp
này ra, v́ tín ngưỡng của tôi không thuộc
loại ấy.
Một lựa chọn khác nữa là đi tù, và tôi
không thấy nên làm như vậy, v́ không nghĩ
rằng mức độ luân lư của chiến tranh
lại tệ đến độ phải chống chính
quyền. V́ khi đó, tôi nghĩ rằng chiến tranh
tự nó không phải là tội ác; nếu có th́ là cách
tiến hành quá kém, và tội ác là hậu quả
của sự kém cỏi này. Khi lên bảy, tôi đă
chứng kiến ông anh rể trở về từ
chiến tranh Cao Ly trong chiếc áo quan, tôi đă
học được một bài học về bổn
phận của người công dân đối với
tổ quốc, và bổn phận đó không hề
bị sứt mẻ v́ sự bất tài của các
cấp lănh đạo. Khi tự nh́n lại, tôi
biết rơ là ḿnh vẫn sẽ trung thành với quy
luật của ḿnh về danh dự cá nhân đi cùng
điều tôi nghĩ là lư tưởng của xứ
sở về thể chế chính trị vượt lên
trên những lầm lẫn của giới lănh đạo
chính trị và quân đội. Tôi càng nhận
thức điều này rơ ràng hơn khi được
một sĩ quan bộ binh phỏng vấn để
hoàn tất thủ tục sưu tra. Ông ta hỏi tôi
nghĩ ǵ về chiến tranh và tôi nhớ rằng tôi
đă đáp lại là pḥng thủ Việt Nam trở
thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch
vùng biên giới với các quốc gia Ai Lao và Cao Miên.
Tôi không phản đối ǵ việc ngăn ngừa
cộng sản bành trướng, nhưng chẳng
thấy chiến lược nào đang áp dụng
lại có triển vọng thành công… Tuy nhiên, tôi cũng
có nói với vị sĩ quan là ḷng yêu nước
của tôi mạnh hơn nỗi bất măn về lănh
đạo yếu kém. Tôi không hiểu v́ sao lại vào
tù nếu không đồng ư với cách tiến hành
chiến tranh, nhất là khi tôi không chống mục
đích tổng quát của trận chiến.
Cách lựa chọn thứ tư là qua Gia Nă Đại
sinh sống, điều mà lúc đó đang được
chính phủ Gia Nă Đại nhiệt liệt
khuyến khích. Đó là cách người bạn thân
nhất của tôi lựa chọn vào năm 1967, và v́
người bạn thân này, tôi cũng đă suy nghĩ
rất nhiều, đến độ tôi đă
từng đến toà Đại sứ Gia Nă Đại
rồi nói chuyện với một nhân viên sứ quán,
với sự khuyến khích cật lực của
vị này. Nhưng, v́ những lư do đă tŕnh bày bên
trên, tôi không nghĩ đây là một sự chọn
lựa đúng. Dù cho có thể t́m ra được
một lô ưu điểm ích kỷ để tự
thuyết phục, tôi cũng biết chắc rằng
việc này sẽ mang đến cho bố mẹ tôi
sự hổ thẹn và phiền muộn vô biên, do
đó, tôi không thể làm được.
Lựa chọn cuối cùng là phục vụ đất
nước tôi và chấp nhận nhiệm vụ công
dân của ḿnh như đă được dạy
dỗ, đó là con đường tôi đă chọn.
Nhưng có thể do ḷng tự kiêu v́ đă có
được một số vốn học vấn, và
do ḷng tự hào và một ảo tưởng tự
lập xuất phát từ ḷng tự cao đó, tôi
rất muốn được tự kiểm soát đời
sống của ḿnh càng nhiều càng hay, và không
mấy thích thú khi cảm thấy ḿnh bất lực,
v́ phải bị trưng tập để rồi
bị bổ nhiệm đến một nơi nào
đó, để làm một công việc nào đó. V́
thế nên khi được một nhân viên tuyển
mộ cho biết là thay v́ bị trưng tập tôi có
thể t́nh nguyện nhập ngũ, trong trường
hợp đó tôi có thể tự chọn chuyên môn
của ḿnh trong quân đội. Tôi quyết định
chộp lấy cái khả năng rất mong manh c̣n
lại để phần nào làm chủ cuộc đời
ḿnh trong t́nh huống ấy và t́nh nguyện vào ngành
quân báo.
Tôi đă trải qua hai năm trong các trung tâm huấn
luyện: huấn luyện căn bản tác chiến,
huấn luyện quân báo, và học tiếng Việt
Nam. Cho đến khi được chỉ định
đi học tiếng Việt Nam, tôi vẫn nuôi hy
vọng là có thể tránh được chiến
tranh. Tôi từng có các bạn và nhiều người
quen được bổ đi Đại Hàn, đi
Alaska, đi Đức và Panama. Nhưng khi được
dạy tiếng th́ tôi chỉ c̣n mỗi hy vọng
cuối là chiến tranh sẽ chấm dứt trước
khi ḿnh măn khóa. Điều đó không xảy ra, và năm
1970 tôi bị điều động sang tham chiến
với cấp bậc Trung sĩ.
Tại Việt Nam, tôi gặp một đội quân
đang bị băng hoại tinh thần. Sau khi dư
luận xoay ra chống chiến tranh vào năm 1968, phong
trào phản chiến đă xâm nhập vào các
đơn vị tại Việt Nam. Tất cả các
vấn đề được coi là tiêu biểu như
ma túy, xung đột sắc tộc, bạo sát hay
bất tuân thượng lệnh bây giờ đă rành
rành và làm tinh thần binh lính sa sút, và chúng xảy ra
– ít ra tôi hiểu vậy – là do lănh đạo kém
và xứ sở không c̣n ủng hộ chiến tranh
nữa, vậy mà chúng tôi vẫn phải chiến
đấu. Các cấp lănh đạo quân sự,
cả tướng lănh lẫn dân sự, đều
nhận thức được việc phải “tái
phối trí” đạo quân Hoa Kỳ ra khỏi
Việt Nam càng sớm càng tốt, để tránh tâm
lư bất măn ấy khỏi lan qua các đơn vị
khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi
vẫn bị đ̣i phải lấy rủi ro trở
thành “người cuối cùng tử trận ở
Việt Nam”.
Dù đă thi hành nhiệm vụ với ḷng thành
thực và chuyên nghiệp, tôi cũng bị lây căn
bệnh bất măn. Tôi có cảm tưởng rằng
ḿnh đă thua trận và chúng tôi chỉ là toán quân
cản hậu đang bị hy sinh. Tôi không thích điều
đó. Tôi bắt đầu nghi ngờ cấp chỉ
huy và thấy vụ thất trận mà chúng tôi đang
tham gia ít nhất cũng sẽ cho họ cơ hội
thăng tiến, c̣n với chúng tôi th́ đây chỉ
là chuyện sống hay chết.
Vào đầu thập niên 90, trong khi sinh sống
tại Việt Nam, tôi đă gặp được
nhiều người Việt, và khi đối diện
với một người Mỹ đă từng là
chiến binh trên xứ họ lại nói được
ngôn ngữ của họ, họ đă tỏ vẻ
giận dữ và e ngại mà tôi cảm nhận ra
dễ dàng. Đối với những người ngoài
Bắc, th́ v́ họ bị oanh tạc nhiều năm
liền. C̣n đối với người trong Nam th́
v́ họ bị phản bội. Đàng nào th́ di
sản của Mỹ để lại ở Việt
Nam cũng là một kỷ niệm chua sót, cho cả
họ lẫn tôi. Nhưng điều tôi học
được trong mấy năm sinh sống và làm
việc tại Việt Nam là đất nước
đó bị một h́nh thái chính quyền độc
đoán, tham ô và suy đồi, và tôi bắt đầu
hiểu được những ǵ mà nhiều người
Việt tỵ nạn đă nói với tôi: nếu người
Mỹ giữ lời hứa, th́ người miền
Nam hiện nay có thể đă hưởng sự
thịnh vượng và dân chủ đă phát triển
ngày nay tại Đài Loan, Nam Hàn và Thái Lan. Tôi
biết rơ là ḿnh không ở trong số người
Mỹ đầy mặc cảm, khi dân chúng tại nước
khác t́m đến sự hướng dẫn của
Hoa Kỳ th́ chỉ thấy một lũ thực dân
mới và đế quốc; tôi chấp nhận
tiền đề là Hoa Kỳ đang có một vai tṛ
chính đáng – thậm chí không thể chối từ
– trên thế giới hiện nay.
Chấp nhận định đề rằng các chính
phủ của miền Nam từ năm 1954 đến
1975 đều bất xứng hoặc không bền th́
cũng giống như chấp nhận là từ 1945, chính
phủ duy nhất chính đáng và có thể tồn
tại là cái chính phủ được Hồ Chí
Minh lập ra, thực ra đó chỉ là một giáo
điều được cộng sản tuyên
truyền trong môn sử của họ. Đáng chú ư là
làm thế nào mà giáo điều đầy hồ
hởi ấy của người cộng sản
Việt Nam đă và đang được các chuyên viên
mô phạm Mỹ dễ dàng nuốt chửng.
Về chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, quan điểm
phổ thông được lưu truyền rằng ông
ta bất tài và là tay sai của Mỹ. Quan điểm
đó ngày càng khó đứng vững. Trước
nhất, Ngô Đ́nh Diệm đă hai lần triệt
hạ các cuộc nổi loạn tại nông thôn, vào
năm 1956 và lần nữa vào năm 1958. Chính là
để đối phó với sự thắng thế
ấy mà lănh đạo đảng cộng sản
tại Hà Nội quyết định phát động
một cuộc chiến mới vào năm 1959; không
phải v́ họ thấy Ngô Đ́nh Diệm yếu
thế, ngược lại, v́ họ nghĩ rằng
nếu chờ đợi lâu hơn th́ bỏ lỡ
dịp ngăn ngừa sự ổn định của
một chính phủ không cộng sản trong Nam.
Hoa Kỳ ủng hộ việc đảo chánh ông
Diệm chính v́ ông không là tay sai và đă chống
lại ảnh hưởng của Mỹ trong chính
phủ của ông. Ông ta bị làm vật tế
thần cho nỗi ẩn ức của Mỹ, và đă
bị chính phủ Mỹ phản bội; số
phận của ông báo hiệu số phận của
tất cả những người Việt không
muốn chế độ cộng sản. * Tôi
lại thích khuôn sáo về tầm quan trọng của
việc bảo vệ và nuôi dưỡng các nền dân
chủ non trẻ trong một thế giới đầy
dẫy độc tài. Nền tự do mà chúng ta đang
hưởng trên đất nước này không
thể có nếu thiếu sự cố gắng của
con người, và cũng chẳng có ǵ bảo đảm
là nó sẽ trường tồn. Các yếu tố
tuyệt vời của hệ thống chính trị mà
chúng ta cứ tưởng là tất nhiên phải có
thực ra là kết quả hy sinh của thế hệ
này qua thế hệ khác mà người thừa hưởng
thường không biết ơn. Và v́ thế, tôi không
thể chấp nhận định đề là người
Mỹ không có lư do chính đáng để can thiệp
vào nội bộ Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng sức mạnh toàn cầu trong tay
của Hoa Kỳ phải được coi như
một trách nhiệm, không là điều làm chúng ta
phải biện bạch. Nếu nước Mỹ không
dùng sức mạnh đó để đem lại
điều lành cho con người trên thế giới
th́ chẳng những ta mất hết sức mạnh,
mà c̣n mất cả những điều tốt đẹp
đă tích lũy từ trước đến nay; lúc
đó các quyền tự do nảy sinh nhờ sức
mạnh kia sẽ bị đe dọa.
Ngày nay tôi không hề nghi ngờ là nước Mỹ
đă có chính nghĩa khi dùng sức mạnh của ḿnh
hầu cứu văn triển vọng có được
một nền dân chủ cho ít nhất là một
số dân Việt. Không may là các giới lănh đạo
Hoa Kỳ trong thập niên 60 đă có một số
quyết định sai lầm về chính trị và quân
sự khiến dân Mỹ quay lại chống đối
những cam kết Mỹ đă hứa với chính
phủ và dân chúng Việt Nam.
Trong suốt các năm từ 1961 đến 1967, Hoa
Kỳ đă đánh mất lợi thế xuất phát
từ khả năng quân sự vượt bực qua
các suy nghĩ chiến lược kém cỏi và sự
thiếu đởm lược chính trị.
Đương nhiên, chúng ta có thể giải thích khá
dễ dàng rằng những lỗi lầm như đă
diễn tiến tự nhiên theo áp lực của t́nh h́nh
qua sự hiểu biết của các ông Kennedy và Johnson
cùng các cố vấn trưởng của hai ông. Tuy
nhiên, mỗi giai đoạn đều thấy quan
điểm bất đồng được nêu lên,
và các quyết định đă được
lấy lại không xuất phát từ áp lực
của t́nh h́nh mà do nhận định sai lầm và
thiếu quan tâm chú ư. Những sai lầm tai hại và
nổi bật nhất có thể được
liệt kê như sau: quyết định của ông
Kennedy vào năm 1961, để bàn căi về cái
gọi là trung lập hóa Ai Lao, đă nhường cho
địch vùng trú ẩn tại biên giới và các
trục giao thông nội biên, nên phải gánh chịu
thiệt tḥi về chiến lược trong suốt
trận chiến; quyết định của ông Kennedy
khi gia tăng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam
trong khi ngăn báo chí loan tin về việc quân nhân
Mỹ lâm chiến mà không có ư niệm chiến lược
nào rơ ràng ngoài nhiệm vụ “cố vấn”,
điều đó gây ra một tiền lệ nguy
hại cho việc tham chiến không có chủ đích
rơ rệt và không minh bạch với dân chúng;
quyết định của Kennedy trong việc dùng vơ
lực đảo chánh ông Ngô Đ́nh Diệm, v́
vậy đă loại trừ một người lănh
đạo Việt Nam chống cộng khá nhất,
rồi gây hỗn loạn chính trị trong nhiều năm
khiến Hoa Kỳ phải quyết định chọn
lựa hoặc thất bại hoặc phải can
thiệp sâu rộng vào nội bộ Việt Nam;
quyết định của Johnson khi phối trí không
lực và bộ binh trong chiến lược tiêu hao,
cho phép tướng Westmoreland giải trừ các phương
pháp chống nổi dậy được Thủy quân
lục chiến Hoa Kỳ ưa thích (phương pháp
này rất giống đường lối người
Pháp đă dùng trong các thập niên 1880 và 1890, với
kết quả rất khả quan); quyết định
của Johnson nhằm thuyết phục địch quân
phải đầu hàng thay v́ phải làm những ǵ
cần thiết để chiến thắng; quyết
định của Johnson tránh việc động viên
nhân lực và kinh tế Hoa Kỳ vào cuộc
chiến, khước từ trưng tập lực lượng
trừ bị, đặt mọi hy vọng vào số
quân nhân t́nh nguyện, và lấy cuộc khủng
hoảng kinh tế trong đầu năm 1968 làm lư do
để chỉ sử dụng một phần của
tài nguyên Hoa Kỳ vào trận chiến; quyết định
của Johnson cho phép đường lối chiến
tranh bị bó vào một dự đoán sai là Trung
Quốc sẽ tham chiến, v́ vậy đă loại
bỏ nhiều lựa chọn có thể rất quan
trọng; sự buông thả của Johnson để
cuộc chiến kéo dài từ năm này qua năm khác
mà không thẩm định được một cách
đúng đắn mục tiêu và thành quả,
khiến ư chí chính trị phải tiêu tan tại Hoa
Kỳ. Tất cả các sai lầm ấy đều
hiện rơ vào đầu năm 1968, với dân chúng ngày
càng không muốn ủng hộ cuộc chiến theo
lề lối đang tiến hành khi ấy.
Sau đó, dù bị ràng
buộc bởi quyết định triệt thoái
khỏi trận chiến, chính quyền Nixon cũng
đă giúp cho việc ổn định một chính
quyền miền Nam Việt Nam và xây dựng một
binh đội miền Nam có khả năng đánh
bại cuộc xâm lăng toàn diện của quân
cộng sản vào năm 1972, với sự hỗ
trợ của Hoa Kỳ. Nhưng những thành quả
ấy bị đe dọa v́ Ḥa đàm Ba Lê năm
1973 để rồi cuối cùng bị tan tành v́
biến cố Watergate, biến cố đă làm ông
Nixon bị hạ. Tôi
tin rằng Kennedy đă có những quyết định
sai lầm về Việt Nam v́ ông ta không thật
sự chú tâm vào vấn đề; về phần
Johnson th́ v́ Việt Nam không là ưu tiên của ông
ta. Kennedy thường phó thác việc quyết định
về Việt Nam cho phụ tá, những người thường
bất đồng về mục tiêu hoặc đơn
giản là thiếu khả năng. Johnson th́ dồn
sức vào các chương tŕnh lập pháp nội
bộ và đă có những quyết định về
Việt Nam theo phong cách ông đă trau chuốt kỹ càng
khi đương đầu với quốc hội: mơn
trớn và san bằng dị biệt. Cả hai đều
không hề giành thời giờ thẩm định chính
sách của họ ở Việt Nam với sự
cẩn trọng tương xứng với những hao
tổn về xương máu và tiền bạc.
Khi lănh đạo thiếu sáng suốt và quyết tâm
th́ sai lầm tất nhiên chồng chất. Những
quyết định ấy không có ǵ là cần
thiết hoặc bất khả kháng trừ phi ta
muốn tranh luận rằng sự mù mờ tâm trí là
một thành tố thiết yếu của các chính
quyền Kennedy và Johnson. Một số người
vẫn muốn lập luận rằng sự mù mờ
ấy chỉ giản dị là dấu hiệu cho
thấy Việt Nam không quan trọng đến độ
được giới lănh đạo Hoa Kỳ dành
hết tâm trí, và nội việc đó cũng đủ
cho thấy lẽ thất bại của cuộc
chiến. Câu trả lời cho lập luận này là
Việt Nam đă đủ quan trọng khiến chính
quyền gửi hàng chục ngàn thanh niên Mỹ vào cơi
chết trên các chiến trường xa xôi với
sự ủng hộ nhiệt thành của dân chúng và
Quốc hội; và nếu việc ầy được
thi hành kém cỏi, th́ hiển nhiên đó là một phê
phán về phẩm chất của lănh đạo
chứ không về chính sách. * Tôi
bắt đầu dạy một lớp về
chiến tranh Việt Mỹ tại Đại học vào
những năm cuối của thập niên 90 v́ tinh
thần trách nhiệm công dân đă theo đuổi tôi
dai dẳng (lớp người trẻ phải biết
về trận chiến đó), và một ư nghĩ ích
kỷ là tôi phải làm việc đó để t́m
sự thanh thản cho tâm hồn. Ép bản thân ḿnh
giảng dạy về cuộc chiến là một
thử nghiệm giải thoát, v́ tôi đă góp
tiếng nói cùng bao nhiêu sách vở chồng chất
về cuộc chiến. Nhiều cuốn đă theo
lối kê khai rất đúng quy phạm những định
đề tôi đề cập bên trên, khiến tôi
thấy không đáng hài ḷng. Nhiều đề
mục quan trọng lại bị bỏ lơ, đặc
biệt là bao ước vọng, kế hoạch và hành
động của những người Việt đă
cố phấn đấu cho hy vọng dân chủ trên
đất nước họ. Trong
suốt hơn hai thập niên, tôi cố không nghĩ
về ḿnh như một cựu quân nhân đă
chiến đấu tại Việt Nam. Tôi muốn hướng
về tương lai và tránh không để bị
đóng khung vào chuyện buồn này. Tôi không thích tượng
đài chiến sĩ ở [thủ đô] Washington
với tên các tử sĩ được ghi khắc
trên một bức tường. Đó là đài
kỷ niệm những người đă chết, nhưng
tôi th́ c̣n sống, nên bức tường kia không dính
dáng ǵ đến ḿnh. Thế rồi một chiều
nọ, trong một buổi lễ cách xa Washington, tôi co
ro trong một lều vải để tránh gió
buốt khi một số người trẻ cùng nhau
đọc dưới ánh nến tên tuổi những
người đă khuất. Đứng giữa đám
đông dưới mái lều, nh́n ánh nến lung linh
trên các khuôn mặt và vải lều, lắng nghe
đọc tên hết người này đến người
khác trong một ḍng âm thanh thật đều, tôi không
ứa lệ trên mắt nhưng thấy xúc động
v́ điều ǵ đó: tôi có cảm tưởng là
được giải thoát và ư thức được
rằng ḿnh đă hiện diện đúng nơi,
đă vinh danh đúng chỗ. Quả
là một sự thay đổi tầm nh́n và một
kinh nghiệm đáng mừng của xúc cảm khi tôi
rũ bỏ được mặc cảm tội
lỗi giả hiệu mà ḿnh đă ôm suốt một
phần tư thế kỷ. Làm được
việc đó, tôi lại có thể học lại
những giá trị từng được dạy
dỗ khi c̣n trẻ, có thể đánh giá được
sự hy sinh của những người Việt nay
đă trở thành đồng bào của tôi, và có
thể dạy về trận chiến với niềm xác
tin mới.
Một vài người trong các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đang thấy là thời thượng
[đúng mốt] khi dán cho Hoa Kỳ nhăn hiệu cường
quốc phát xít và đế quốc. Tôi không c̣n
rủi ro ǵ để e ngại những lời
khẳng định thiếu cơ sở ấy. Tôi
xin mời quí vị cứ nh́n khắp thế giới
để t́m một chọn lựa khả dĩ
chấp nhận được hầu thay thế sinh
hoạt dân chủ – dù là bất toàn – đang
được nước Mỹ đề cao. Tôi th́
chịu, không t́m thấy. Sự việc Hoa Kỳ thi
triển sức mạnh trên khắp toàn cầu không là
dấu hiệu của một điều sai trái,
trừ phi người ta quyết định liên
kết với các thế lực độc đoán trên
hoàn cầu đang được ngụy trang dưới
bộ mặt của nạn nhân. Tôi
đi đến kết luận là đă đến lúc
phải lên tiếng. Lớp trẻ của quốc gia
này xứng đáng được hưởng sự
giáo dục chân thực hơn là bị nhồi nhét vào
đầu óc họ chủ nghĩa nghi ngờ và thù
ghét cái xứ sở hiện vẫn c̣n là niềm hy
vọng khá nhất của nhân loại. |