Phản bác nick Middleton: Đài Loan & Tây Tạng những quốc gia không tồn tại Nguyễn Vĩnh Long Hồ |
Ông
Nick Middleton, một nhà địa lư học từ
Đại học Oxford, đă ghi lại những vùng
đất mà ông gọi là “Những quốc gia
không tồn tại” trong cuốn sách mới
của ông “An Atlas of Countries that Don’t Exist” (Macmilan,
2015). Trong đó, ông có nêu những cái tên Đài Loan,
Tây Tạng. Trong phạm vi bài viết nầy, tôi
chỉ phản bác ông về trường hợp Tây
Tạng. Có lẽ, ông chưa hiểu biết sâu
sắc về Tây Tạng, nên đă có những
nhận định thiếu chính xác về Tây
Tạng. Riêng về Đài Loan không phải là một
quốc gia v́ Đài Loan chưa từng tuyên bố “Độc
lập” nên tôi không đề cập tới. Theo
Công ước MONTEVIDEO về quyền và nhiệm
vụ của các quốc gia (Montevideo Convention on the
Rights anh Duties of States) là một hiệp ước kư
kết tại Montevideo. Uruguay vào ngày 26 tháng 12 năm
1933, trong Hội nghị Quốc tế lần thứ
VII các nước Châu Mỹ. Công ước hệ
thống hóa các lư thuyết tuyên bố t́nh trạng
của một nước và nó được
chấp nhận như là một phần của pháp
luật tập quán quốc tế. Tại
hội nghị, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D.
Roosevelt và Bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull
đă tuyên bố Chính sách láng giềng tốt,
phản đối Mỹ can thiệp quân sự trong các
vấn đề liên Mỹ. 19 nước đă kư vào
công ước nầy. Việc chấp nhận của
3 nước trong số 19 nước đă dẫn
đến một số nghi ngại. Các nước
đó là Brazil, Peru và Hoa Kỳ. Công ước có
hiệu lực vào ngày 26/12/1934. Nó đă được
ghi nhận trong Chuỗi các Hiệp ước của
Hội Quốc Liên vào ngày 08/1/1936. Danh
sách quốc gia không được công nhận đề
cập tới các quốc gia hoặc vùng lănh thổ
không được công nhận là một quốc gia
có chủ quyền theo định nghĩa của Công
ước Montevideo trên phạm vi toàn thế giới: Theo
điều 1, Công ước Montevideo năm 1933,
một quốc gia có chủ quyền phải có
những đặc điểm như sau: [1] Dân số ổn định. [2]
Lănh thổ xác định. [3]
Chính phủ. [4]
Khả năng quan hệ với các quốc gia khác. Trường
hợp Trung Cộng (1949): Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa không
được 22 số quốc gia thành viên LHQ và Ṭa
thánh Vatican công nhận do đă công nhận Trung Hoa Dân
Quốc (Đài Loan). Từ khi THDQ mất ghế
tại LHQ năm 1971, bị thay thế bởi Trung
Cộng, đa số các nước có chủ
quyền đă quay sang công nhận ngoại giao đối
với Trung cộng, coi nó là đại diện
hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc,
đáng chú ư nhất là việc Hoa Kỳ công nhận
năm 1979. Tới năm 2013, họ vẫn giữ các
quan hệ ngoại giao chính thức với 21 nước
thành viên của LHQ và Ṭa thánh Vatican, dù trên thực
tế các mối quan hệ vẫn được
giữ với nhiều nước. Các cơ quan như
“Văn pḥng kinh tế và văn hóa Đài Bắc
& Viện Hoa Kỳ” tại Đài Loan đang
hoạt động “trên thực tế” như
những đại sứ quán, dù không có được
đặc quyền ngoại giao theo luật: họ không
thể cung cấp bất kỳ sự bảo vệ lănh
sự nào và các nhân viên của họ cũng không có
được bất kỳ quyền miễn trừ
ngoại giao nào. Địa điểm của văn
pḥng vẫn nằm tại nước chủ nhà. LỊCH
SỬ QUỐC GIA TÂY TẠNG: Chiếu
theo Công ước Montevideo 1933, Tây Tạng là quốc
gia hội đủ điều kiện có chủ
quyền lănh thổ. Tây Tạng là quốc gia nằm
trên khu vực cao nguyên tại Châu Á, ở phía Đông-Bắc
của dăy Himalaya (trước khi bị Trung Cộng cưỡng
chiếm). Đây là quê hương của người
Tạng. Tây Tạng là khu vực có cao độ
lớn nhất trên trái đất với độ
cao trung b́nh là 4.900 mét, có dân số khoảng trên 6
triệu người. Vào
thế kỷ thứ 7, Tây Tạng trở thành một
đế quốc thống nhất, song nhanh chóng phân
chia thành nhiều lănh thổ nhỏ. Phần lớn tây
và trung bộ Tây Tạng thường thống
nhất dưới các chính quyền tiếp nối
nhau ở Lhasa, Shigatse hay những nơi lân cận; các
chính quyền này từng có lúc nằm với
quyền thống trị của Đế quốc Mông
Cổ và Trung Hoa. Các khu vực ranh giới Tây Tạng
được thiết lập vào thế kỷ
thứ 18. Sau
khi triều Thanh sụp đổ vào năm 1911, các
binh lính Thanh bị giải giáp và được
hộ tống ra khỏi lănh thổ Tây Tạng. Tây
Tạng giành lại chủ quyền lănh thổ cho ḿnh
và tuyên bố độc lập vào năm 1913. Sau
đó, chính phủ Lhasa đoạt lấy quyền
kiểm soát phần phía tây của tỉnh Tây Khang.
Khu vực duy tŕ t́nh trạng tự quản cho đến
năm 1951, khi QĐNDTQ tiến vào Tây Tạng dồn
quốc gia từ đỉnh trời xuống đáy
địa ngục. TRUNG
CỘNG CƯỠNG CHIẾM TÂY TẠNG: Nhưng
chủ quyền độc lập dân tộc không kéo
dài được bao lâu. Từ năm 1949, khi ĐCSTQ
toàn thắng và Mao Trạch Đông lập ra Cộng
hoà nhân dân Trung Quốc. 10 năm sau, vào mùa Xuân
Kỷ Hợi 1959, Tây Tạng mất luôn chủ
quyền khi QĐGP của TC tiến vào thủ đô
Lhasa và chính quyền Tây Tạng lưu vong ra nước
ngoài tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc. Kể
từ đó, các tỉnh Chamdo (phía Bắc) và Kham (phía
Đông Nam) của Tây Tạng bị sát nhập
thẳng vào 4 tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Vân Nam và
Tứ Xuyên. C̣n lại U-Tsang ở giữa và Ngari
ở phía Tây, Jhang Thang phía Bắc và Lhoka hay Kongpo th́
trở thành “Khu tự trị Tây Tạng”, nơi mà
dân Tây Tạng đang bị tràn ngập bởi người
Hán trong kế hoạch “HÁN HÓA” và tiếp
tục tiêu diệt bản sắc văn hóa Tây
Tạng. Mọi
sự khởi đầu vào ngày Thứ sáu 13/2/1959,
vừa ăn Tết Kỷ Hợi xong, người dân
Thủ đô Lhasa đă nghe những tin xấu dồn
dập tại miền Đông lan truyền qua đoàn
người tỵ nạn từ 2 tỉnh Kham và Chamdo.
Các đơn vị TC đă chiếm đóng 2
tỉnh này từ lâu, nhưng nay họ đang
tiến về miền Tây. Mục tiêu không che giấu
là sẽ làm chủ Lhasa. Lịch sử Tây Tạng
sang trang kể từ biến cố năm Kỷ
Hợi. DÂN
TÂY TẠNG VÙNG LÊN CHỐNG XÂM LĂNG TÀU CỘNG: Qua
năm 1951, QĐNDTQ áp đặt một Thỏa ước
gồm 17 điểm cho Tây Tạng và thực tế
tiến hành “cách mạng vô sản” theo kiểu
Maoist trên 2 tỉnh Kham & Chamdo ở miền Đông.
Cũng lại cải cách ruộng đất, đấu
tố và học tập để cải tạo tư
tưởng và xây dựng nền văn hóa vô
sản, vô tôn giáo và vô gia đ́nh như ở
Việt Nam sau nầy. Nhân
dân Tây Tạng trong vùng bị chiếm đóng, đây
là những điều khó chấp nhận được.
Họ nổi tiếng bất khuất và thiện
chiến trong nghệ thuật chiến tranh du kích
miền núi. Trong lịch sử Tây Tạng, các bộ
tộc cư ngụ nơi đây có quyền tự
trị với chính quyền Lhasa, họ vẫn tôn sùng
các vị Đạt Lai Lạt Ma như Phật
sống và Quốc trưởng của họ. Tuy nhiên,
họ không bao giờ chấp nhận là người Tàu
và càng không chấp nhận được đường
lối “cách mạng vô sản” và vô thần
kiểu Maoist. Sau
những vụ nổi dậy đều khắp nước
bằng chiến tranh du kích, mở rộng địa
bàn kiểm soát vào các năm 1952 tới năm 1954. Dân
Tây Tạng ở vùng đất nầy đă
quyết định “Tổng khởi nghĩa” vào
Tết Bính Thân 1956 và họ bị QĐNDTQ tàn sát dă
man. Cũng
năm 1956, thế giới chỉ chú ư đến bài
diễn văn của Nikita Krutchev tại Liên Xô hay nói
về cuộc khởi nghĩa bị d́m trong biển máu
của nhân dân Hung Gia Lợi tại Đông Âu, nhưng
không ai nói tới cuộc khởi nghĩa Mùa xuân 1956
của dân Tây Tạng khiến mấy chục ngàn người
Tây Tạng bị sát hại. So với Hung Gia Lợi
th́ tổn thất cao gắp 10 lần, với một
dân số chỉ có vài triệu người và sự
chống cự ngày càng suy yếu của dân chúng
miền Đông. Bắc Kinh xóa bỏ luôn những cam
kết Thỏa ước gồm 17 điểm. Năm
đó, Nội các Kashag đă suy nghĩ tới
giải pháp là đưa vị lănh đạo họ
ra khỏi Lhasa, triều đ́nh sẽ di tản qua
thị trấn Yatung gần biên giới Sikkim và Bhutan,
để có thể vượt qua Ấn Độ
rất nhanh. Vị lănh đạo mới có 16 tuổi
cương quyết ở lại, nói: “Là thanh niên
c̣n sức lực, ta sẽ ở lại chia sẻ
nỗi hiểm nguy cùng với thần dân”. Nhưng,
triều đ́nh tin rằng Đức Đạt Lai
Lạt Ma là báu vật thiêng liêng của thần dân Tây
Tạng và không muốn Ngài bị sát hại. Nội
các Kashag đành nghĩ đến giải pháp “thương
thuyết” và phái một vị đại thần
đi Bắc Kinh. Vị đại thần nầy tên NGABO
thỏa hiệp với kẻ thù. Tên nầy đă
phản bội tổ quốc, không thông báo với
Đức Đạt Lai Lạt Ma mà tự quyết
định đồng ư với thỏa hiệp 17
điểm của TC, công bố ngày 23/5/1951. Tại
Yatung, Đức Đạt Lai Lạt Ma và Nội các
Kashag nghe đọc thỏa ước 17 điểm
qua đài phát thanh, Ngài bàng hoàng với câu kết
luận: “Từ nay, Tổ quốc và Nhân dân Tây
Tạng sẽ bị Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc
thống trị.” oOo Năm
1954, Mao lấy cớ chào mừng Hiến pháp mới
của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Mao mời Đức
Đạt Lai Lạt Ma thăm viếng Bắc kinh
để lung lạc vị lănh đạo Tây
Tạng, năm đó mới chỉ là một thanh niên
chưa đầy 20 tuổi. Cuối
cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma quyết định
lên đường vào ngày 11/7/1954. Hàng ngàn người
Tây Tạng đă lăn xuống đường để
xin ngài đừng bước xuống phà vượt
sông Kyichu. Nhiều người nhào xuống nước
hoặc lao vào lưỡi lê trước sự kinh hoàng
lúng túng của bọn lính TC. Dân Tây Tạng bần
thần như một bầy cô nhi khi Đức Đạt
Lai Lạt Ma của họ nhất quyết đi
Bắc Kinh để gặp cho được Mao
Trạch Đông. Tại
Bắc Kinh, Ngài gặp cả Krutchev hay Nehru. Mao hứa
sẽ phát huy ảnh hưởng của Ngài về
cả tôn giáo lẫn quyền uy chính trị v́ ngài
sẽ là Chủ Tịch, c̣n Phó Chủ tịch là viên
tướng Tư lệnh Lực lượng Viễn
Chinh của Mao tại Lhasa. Cho măi đến một năm
sau, 1954 mới rời Bắc Kinh trở về Tây
Tạng. Trên
đường trở về, khi Ngài vượt qua
những vùng đất bị quân TC chiếm đóng,
nhất là tại đất GOLOK, Ngài chứng
kiến tận mắt việc TC thực thi những
lời hứa hẹn xảo trá của Mao như
thế nào. Ngài mới hiểu v́ sao những bậc
chân tu Tây Tạng không hề muốn bạo động,
nhưng họ cũng phải cùng với quần chúng
nổi dậy đấu tranh vũ trang và phạm sát
giới. Đây là một thảm kịch to lớn cho
vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của dân
tộc Tây Tạng. Chuyến
hồi hương kép dài 2 tháng, Ngài bàng hoàng nghe và
thấy các chiến sỹ du kích GOLOK và các tộc trưởng
KHAMPA nói đến nhu cầu độc lập, điều
không hề có trong kế hoạch xây dựng vùng
Tự trị Tây Tạng do Mao Trạch Đông tŕnh bày
với Ngài. Ngay tại Lhasa, từ năm 1952, nhiều
người tự động thành lập một cơ
chế gọi là MIMANG TSONGDU (Đại biểu Nhân dân)
với mục đích phản đối sự
chiếm đóng của QĐNDTQ và chính sách cai
trị của Bắc Kinh và họ đề xướng
các hoạt động “bài Hoa, chống Tàu”. Trở
về tới Lhasa ngày 29/6/1955, Đức Đạt
Lai Lạt Ma đứng trước một t́nh
thế nan giải. Bắc Kinh mạnh tay thi hành kế
hoạch biến Tây Tạng thành khu tự trị,
thực tế tàn bạo hơn những ǵ Mao
Trạch Đông đă hứa hẹn với Ngài. Trong
khi đó, dân Tây Tạng lại dứt khoát chống
Tàu và nhiều nơi c̣n đ̣i độc lập mà
Nội Các Kashag và Ngài th́ muốn thương
thuyết và hy vọng ấy đă kết thúc với
cuộc “Tổng tấn công mùa Xuân Kỷ Hợi
1959” của Bắc Kinh, khi ấy Ngài ở tuổi
24. Ngày
17/3/1959, các chiến binh người Khampa bảo
vệ Đức Đạt Lai Lạt Ma và một
số người thân tín kín đáo hộ tống Ngài
rời khỏi Cung Mùa Hè, Ngài bắt đầu
cuộc sống lưu vong kéo dài hơn nửa thế
kỷ. Chuyến vượt thoát của Ngài là
một sự kỳ diệu của Trời Phật phù
hộ v́ các đơn vị TC truy đuổi
thật sát, vượt đèo qua ải, xuống phà
sang sông… cho tới khi Ngài đặt chân lên lănh
thổ Ấn Độ vào đêm 31/3/1959 và được
chính phủ Nehru ra lệnh mở cổng đón
tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thủ
đô Lhasa bị Hồng Quân TC tàn phá nặng nề,
thường dân bị tàn sát và bị đưa
đi cải tạo và nằm trong gông cùm nghẹt
thở cho tới tận bây giờ. Sau nầy,
nguồn tin từ New Dehli của Ấn Độ nói
đến sự tổn thất là 15.000 người Tây
Tạng đă đổi lấy 50.000 binh lính TC.
Từ biến cố năm Kỷ Hợi 1959, 80.000 Tây
Tạng đă vượt biên ra nước ngoài và
được một khoảnh đất dung thân
tại một đỉnh hẻo lánh miền Bắc
Ấn Độ là DHARAMSALA. Hồn nước Tây
Tạng bắt đầu tỏa sáng từ nhân cách
phi thường của Đức Đạt Lai
Lạt Ma từ đỉnh Dharamsala… NGƯỜI
TÂY TẠNG LƯU VONG CÓ TÂN THỦ TƯỚNG: Ông
Lobsang Sangay - Học giả Harvard - đă tuyên thệ
nhậm chức Thủ tướng Tây Tạng lưu
vong và hứa chống lại Tàu Cộng. Ông tuyên
bố: “Ở Tây Tạng không có chủ nghĩa
xă hội mà chỉ có chủ nghĩa thực dân Trung
Quốc”. Với tư cách là người đứng
đầu chính phủ lưu vong, ông Lobsang Sangay
tiếp quản vai tṛ chính trị của Đức
Đạt Lai Lạt Ma vẫn là lănh tụ tinh
thần của người Tây Tạng lưu vong. Đức
Đạt Lai Lạt Ma chủ tŕ buổi lễ
nhậm chức Tân Thủ tướng của ông
Lobsang Sangay vào tháng 8/2011 tại Dharamsala, Ấn Độ.
Các nhiệm vụ mới của ông Sangay bao gồm
vai tṛ dẫn đầu phong trào toàn cầu đ̣i
“NHÂN QUYỀN & TỰ DO” cho người Tây
Tạng đang nằm dưới sự thống
trị của Bắc Kinh, và điều hành chính
phủ lưu vong. Trong bài diễn văn mhậm
chức, ông bác bỏ những lo ngại rằng
tuổi già của Đức Đạt Lai Lạt Ma và
cái chết của ông trong tương sẽ chấm
dứt phong trào Tây Tạng mà ông lănh đạo
từ khi rời Tây Tạng sống lưu vong từ năm
1959. Ông
Lobsang Sangay nói, chính việc ông được bầu
lên đă gởi ra “Thông điệp rơ ràng cho
những người chủ trương cứng
rắn trong chính phủ Trung Quốc rằng lực lượng
lănh đạo Tây Tạng sẽ không bao giờ
biến mất”. Ông nói: “Cuộc đấu
tranh của chúng ta là chống lại những chánh sách
hà khắc của chính quyền TQ ở Tây
Tạng…chúng ta chống lại những ai tước
bỏ tự do, công lư, phẩm giá và bản ngă người
Tây Tạng.” BẮC
KINH ĐANG SA LẦY Ở TÂY TẠNG: Theo
Irish Times, nhiều tu sĩ Tây Tạng bị công an TC sĩ
nhục bằng h́nh thức đấu tố dă man. Các
nạn nhân bị bắt quỳ gối, gục đầu,
cổ mang tấm bảng ghi tên họ và tội danh
bằng chữ Hán. Cùng lúc đó, mạng thông tin
điện tử Boxum.com, phổ biền nhiều h́nh
ảnh cho thấy hàng loạt tu sĩ và dân chúng
địa phương người Tây Tạng đă
bị an ninh áp giải từ một ṭa nhà đang
bị bắt quỳ gối giữa 2 hàng CA vơ trang: ·
Một trong những tấm h́nh chụp một đoàn
CA chống biểu t́nh đè cổ các tu sĩ
Phật Giáo, một nhà sư bị đeo trên cổ
một tấm bảng ghi tên họ “Lobsang Zopa”
bằng chữ Tàu, kèm theo chữ “ly khai”. ·
Trên một tấm ảnh khác, một hàng CA, cứ 2
tên CA vơ trang đè cổ một người Tây
Tạng. Nhiều người bị bắt quỳ
gối, đeo bảng ghi tên họ và tội danh “ly
khai” và “tụ họp chống nhà nước”. ·
Một tấm ảnh khác cho thấy, trên một
chiếc xe tải, CA vơ trang đang đè cổ các nhà
sư ở tư thế gập người làm đôi,
trên cổ cũng đeo bảng tên và tội danh. ·
Một tấm ảnh khác cho thấy lực lượng
an ninh TC lập rào cảng, tuần tra với vũ
trang hùng hậu. ·
CA vũ trang và xe thiết giáp canh chừng “đường
phố A Bá”. Đích thân Bộ trưởng CA lên
tận Tu viện Kirti. Các biện pháp trấn áp tàn
bạo không làm nao núng người dân Tây Tạng
trong vùng tự trị Tứ Xuyên mà c̣n gây phản
ứng ngược. Theo chuyên gia phân tích, thành phố
A Bá, nơi có Tu viện “KIRTI” sẽ là trận
“Waterloo” của chế độ Bắc Kinh. Từ
năm 2008 đến nay, tu viện Kirti và thành phố
A Bá (Ngaba) là đối tượng của những
biện pháp trấn áp dă man, tàn bạo của chính
quyền Bắc Kinh (bản thân cựu chủ tịch
Hồ Cẩm Đào thăng quan, tiến chức
nhờ vào chiến công trấn áp tại Khu Tự
trị Tây Tạng). Số tu sĩ tại đây đă
từ 2500 người, giảm xuống c̣n 1.000 người: ·
Có 108 vị bị kêu án tù. ·
300 người bị giam không bản án. ·
Hơn 620 thường dân và 20 nhà văn trí thức
bị nhốt trong các nhà tù. ·
34 người bị cực h́nh tra tấn tử vong
trong các nhà tù. ·
12 nhà sư và 12 thường dân tự thiêu, nâng
tổng số người tự thiêu là 136 người
tự thiêu. Tháng
10/2015, những người dân Tây Tạng sống lưu
vong tại Ấn Độ đă tổ chức
cuộc tuần hành và thắp nến có liên quan đến
sự kiện một phị nữ Tây Tạng
khoảng 40 tuổi tự thiêu vào hôm thứ sáu
tuần rồi tại thành phố A Bá, tỉnh Tứ
Xuyên. Trước đó, trong ṿng 6 năm kể
từ năm 2008, đă có 136 người Tây Tạng
tự thiêu để phản đối chính quyền
TC. Lễ
thắp nến diễn ra trùng với dịp kỹ
niệm lần thứ 56 cuộc nổi dậy bất
thành của nhân dân Tây Tạng chống lại chính sách
xâm chiếm của Bắc Kinh. Cuộc bức hại
của chính quyền TC trong hơn nửa thế
kỷ qua đă làm hơn 1.000.000 người Tây
Tạng bị thiệt mạng. Những người Tây
Tạng đă phải dùng đến một h́nh
thức cực đoan để phản đối
Bắc Kinh. Đó là “tự thiêu”, lấy sự hy
sinh của bản thân làm vũ khí. V́
bảo tồn “văn hóa truyền thống &
lịch sử dân tộc” và “độc
lập - tự do” cho đất nước,
quyết liệt chống chính sách “Hán hoá” của
Bắc Kinh, hơn 136 người dân Tây Tạng
tự thiêu với hy vọng ngọn đuốc
sống của họ sẽ làm cho nhân loại yêu
chuộng ḥa b́nh thức tỉnh. Bọn lănh đạo
“hiếu sát” Bắc Kinh gọi những người
Tây Tạng hy sinh mạng sống của ḿnh cho “Đạo
pháp & Dân tộc Tây Tạng” là “quân khủng
bố”. Nhưng, thế gới tôn vinh họ là
những anh hùng dân tộc tử v́ đạo và
chết v́ Tổ Quốc của họ… NGƯỜI
TÂY TẠNG DÙNG “VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG” ĐỂ
BẢO VỆ BẢN SẮC DÂN TỘC: NHẤT ĐỊNH
SẼ TỒN TẠI. Giới
hoạt động tranh đấu Tây Tạng đă
sử dụng nhiều phương thức để
phản đối những chính sách của Bắc
Kinh mà các tổ chức nhân quyền cho là sẽ
đồng hóa hay thậm chí tiêu hủy bản
sắc Tây Tạng. Các vụ tự thiêu là
phương pháp được những người
biểu t́nh sử dụng để thu hút sự chú
ư của thế giới vào cuộc tranh đấu
của họ, nhưng giới hoạt động cũng
đang áp dụng những h́nh thức phản kháng khác
chống lại sự cai trị tàn bạo của
Bắc Kinh. Một
trong nhà hoạt động tranh đấu Tây Tạng
là Dorjee Tseten thuộc nhóm sinh viên ủng hộ
một nước “TÂY TẠNG TỰ DO” (SFT),
nói rằng: “Nhiều người Tây Tạng không
muốn sống dưới sự cai trị của Tàu
Cộng,” ông nói. “Người Tây Tạng
muốn được độc lập. Họ
muốn tự ḿnh cai trị ḿnh, chứ không phải
bị đặt dưới sự cai trị của
một chế độ cộng sản TQ. Đó là
điều chúng ta đang tranh đấu để
đạt được”. Biểu hiện rơ ràng
nhất của cuộc tranh đấu ấy là
chiến dịch tự thiêu đang tiếp diễn,
trong đó hơn 136 người Tây Tạng tự thiêu
để phản đối chính sách “Hán hóa”
hà khắc của Bắc Kinh. Phong
trào IHAKAR là một tổ chức trong số nầy,
phát triển bên trong Tây Tạng sau vụ nổi
dậy năm 2008 và gần đây hơn đă
xuất cảng qua cộng đồng Tây Tạng
ở nước ngoài, ông Tseten nói: “Nó thách
thức sự cai trị của TC trong khi cùng lúc giúp
cho người Tây Tạng khẳng định nền
văn hóa và bản sắc của ḿnh”. Ông
Tseten cho biết: “Người Tây Tạng đă
bắt đầu mua thực phẩm, rau xanh tại các
cửa hàng Tây Tạng, đến ăn uống
tại các nhà hàng do người Tây Tạng làm
chủ và tẩy chay các nhà hàng người Tàu làm
chủ. Chúng tôi chỉ nói tiếng Tây Tạng càng
nhiều càng tốt, chứ không nói tiếng Tàu”.
Nhưng, Lakkar không phải chỉ nhắm mục tiêu
ăn thực phẩm Tây Tạng và mặc trang
phục Tây Tạng: “Nó nhắm mục đích
bảo tồn bản sắc dân tộc của ḿnh. Chúng
tôi đang thách thức kẻ đàn áp, tranh đấu
qua h́nh thức bất hợp tác,” ông nói. “Qua
việc tẩy chay kinh tế và ảnh hưởng
của TQ đối với Tây Tạng là chúng ta
thực sự ủng hộ lư tưởng Tây
Tạng.” Ông
Tsomo Tsering của Trung tâm Tây Tạng Ủng hộ Nhân
quyền & Dân Chủ quả quyết, nói: “Đây
là lá bài quyết định duy nhất của chúng
ta,” ông nói. “Chúng ta đang đối mặt
với TQ, đại cường của thời đại
mới. Khi ta đoàn kết, khi ta biết rơ các ưu
tiên của chúng ta là ǵ, cuộc tranh đấu
sẽ dễ dàng hơn nhiều. Đây là điều
ta gọi là “vũ khí của kẻ yếu”, vũ
khí này cực mạnh”. Vào
cuối năm 2013, giới tranh đấu trong các
cộng đồng sống lưu vong ở nước
ngoài, đă tổ chức một hội nghị
với các cộng đồng thiểu số tranh
đấu để bảo toàn bản sắc dân
tộc của ḿnh dưới sự cai trị dă man và
tàn bạo của chính quyền TC, kể cả người
Uighur và Mông Cổ. Mặc dù người Tây Tạng
biết rằng, họ đă không đạt mấy
thắng lợi khả quan sau hơn 50 năm dưới
sự thống trị của TC. Nhưng, nhiều người
vẫn lạc quan về cuộc tranh đấu và
họ sẽ tiếp tục chiến đấu trên
con đường hướng tới tự do. Cuộc
chiến đấu của nhân dân Tây Tạng cho
tự do & độc lập dân tộc ngày càng có
tiếng vang sâu rộng trên thế giới: ·
Ngày 12/11/2015, một phái đoàn Quốc hội Hoa
Kỳ đă được phép đến Tây
Tạng. Tháp tùng phái đoàn c̣n có trưởng nhóm
Dân chủ là bà Nancy Pelosi, người lâu nay vẫn
thường chỉ trích TC vi phạm nhân quyền. ·
Tháng 3/2008, khoảng 30 tu sĩ Phật Giáo đón
một phái đoàn phóng viên ngoại quốc đến
quan sát thủ phủ Lhasa. Ảnh chụp của phóng
viên AP cho thấy một nhà sư khóc trong lúc nói
chuyện với nhà báo ngoại quốc tại chùa
Jokhang, nhà sư trẻ nầy hét lớn: “Tây
Tạng không có tự do” và bắt đầu
khóc. ·
Ngày 17/10/2011, ni cô Tenzin Wangmo, 20 tuổi, đă trở
thành nhà sư thứ 9 ở Tây Tạng tự thiêu
trong một cuộc biểu t́nh ở huyện Aba,
tỉnh Tứ Xuyên. Nhóm Tự Do Tây Tạng nói, ni cô
Wangmo đă tự thiêu bên ngoài tu viện Dechen
Chokorling. H́nh ảnh của ni cô Wangmo trở thành
ngọn đuốc thiêng đă đánh động lương
tâm nhân loại. Bắc Kinh hoảng sợ đă không
cho phép đang tải thông tin về các vụ tự
thiêu trên các phương tiện truyền thông chính
thức của nhà nước và các nguồn thông tin
khác đều bị xóa… ·
Ngày 14/3/2012, một vụ tự thiêu của Phật
tử Sonam Dargye ở Rebkong. Bọn công an, cảnh sát
ùa tới giành giựt xác nạn nhân tử v́ đạo
không cho tăng ni và Phật tử làm lễ. Nhưng
vô ích, bọn CA & cảnh sát không đủ
lực lượng giải tán v́ tăng ni và Phật
tử đông hơn, kiên quyết hơn, họ làm
lễ tưởng niệm và làm đám tang có tới
8.000 trong một thành phố chỉ có 80.000 cư dân…Trong
thời đại tin học với tiến bộ khoa
học kỹ thuật tin học vượt bực, các
vụ tự thiêu ở Tây Tạng được
phổ biến ra toàn thế giới mà Bắc Kinh không
đủ sức và khả năng ngăn chận bưng
bít thông tin… Người
Tây Tạng dù ở trong nước hay lưu vong
ở hải ngoại, họ vẫn luôn duy tŕ văn
hóa truyền thống để bảo vệ bản
sắc dân tộc. Người Tây Tạng có một ḷng
tin sắt đá rằng, sức mạnh tinh thần
sẽ chiến thắng sức mạnh vũ lực
của kẻ thù. Với lư tưởng hy sinh thân xác
để giải trừ pháp nạn và quốc
nạn mà trên 136 Phật tử đă tự thiêu thành
những ngọn đuốc thiêng để soi sáng
tinh thần bất khuất, kiên tŕ đấu tranh
của người dân Tây Tạng khiến họ
đoàn kết, phát huy thành sức mạnh
nội lực dân tộc vô địch, mà
sức mạnh bạo lực, đàn áp dă man của
kẻ thống trị Tàu Cộng cũng không thể
nào “Hán hóa” được dân tộc Tây Tạng.
Dân tộc Tây Tạng sẽ vĩnh viễn tồn
tại, chứ không thể biến mất theo như
luận điệu của Nick Middleton. oOo Tôi
muốn chứng minh ngược lại, chính tên
thực dân Đế quốc Trung Cộng sẽ là
quốc gia sẽ không tồn tại, chứ không
phải Tây Tạng. Đă có bao nhiêu tên Đế
quốc vĩ đại lừng danh trong lịch
sử thế giới đă sụp đổ và
biến mất trên hành tinh nầy? Nhân loại đang
ở vào Thế kỷ XXI, số phận của tên
Đế quốc Trung Cộng cũng không thể thoát
được định luật khắc nghiệt
nầy, dù sớm hay muộn nó cũng sẽ sụp
đổ như những tên Đế quốc khác và
các quốc gia như Tây Tạng, Tân Cương và Mông
Cổ bị TC thống trị sẽ vùng lên đấu
tranh giành “Độc lập - Tự do” cho dân
tộc. Việt Nam là một thí dụ điển h́nh,
sau một 1.000 năm bị giặc Tàu đô hộ
vẫn tồn tại, sau khi đánh thắng kẻ thù
phương Bắc. Theo
sự đánh giá của Akhilesh Pillalamarri trên tạp
chí National Interrrest (Mỹ) đă chọn ra “5 ĐẾ
CHẾ VĨ ĐẠI” nhất hành tinh v́ nó
nổi bật bởi sự hùng mạnh và có tầm
ảnh hưởng rộng lớn trên thế
giới. Ấn Độ & Trung Hoa đă bị
loại ra khỏi sự lựa chọn nầy v́
Đế chế Ấn Độ & Trung Hoa chỉ
ảnh hưởng ở mức khu vực: [1]
ĐẾ CHẾ BA TƯ: Đế
chế Ba Tư của triều đại Achaemenid
được Cyrus Đại Đế thành lập vào
khoảng năm 550 TCN. Đế chế Ba Tư
thống trị hầu hết vùng Trung Đông vào
thời điểm đó và đồng thời cai
trị một tỷ lệ dân số thế giới
lớn hơn bất cứ đế chế nào khác
trong lịch sử. Cụ thể, vào năm 480 TCN,
đế chế nầy có dân số xấp xỉ
49,4 triệu người, bằng 44% dân số toàn
thế giới vào lúc đó. Đế chế Ba Tư
là đế chế đầu tiên kết nối
nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm Trung
Đông, Bắc Phi, Trung Á, Ấn Độ, Châu Âu và
vùng Địa Trung Hải. Đế chế này đă
khơi mào cho khái niệm đế chế ở
những nơi khác như Hy Lạp và Ấn Độ. Một
đế chế lớn như vậy, chỉ có
thể quy tụ lại được nhờ vào
sức mạnh quân sự. Các thành tựu quân sự
của Đế chế Ba Tư rất đáng
nể, dù rằng chúng bị lăng quên do thất
bại bất ngờ trước các quân đội
thiện chiến của Alexander Đại Đế.
Các chiến dịch khác nhau của Ba Tư đă chinh
phục được nhiều nền văn minh tiên
tiến của thế giới lúc đó như là
Babylon, Lydian, Ai Cập và khu vực Hindu của Ganghara
nằm ở nước Pakistan ngày nay. [2]
ĐẾ CHẾ LA MĂ: Đế
chế này có tầm ảnh hưởng rất
lớn. Đế chế La mă đă từ lâu là
đế chế tinh hoa tiêu biểu cho thế giới
phương Tây. Nhưng, đế chế La mă
thực sự là một trong những đế
chế lớn nhất của lịch sử nhân
loại, Người La Mă đă thể hiện
một năng lực đáng kinh sợ trong việc
chinh phục và giữ được một vùng lănh
thổ vô cùng rộng lớn trong khoảng thời
gian kéo dài hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm
nếu tính cả Đế chế Đông La Mă (Đế
chế Byzantine). Điều đáng chú ư là đế
chế nầy được củng cố không
chỉ bằng sức mạnh bạo tàn. Một khi
đă bị chinh phục, người dân trong đế
chế đó đều mong ước trở thành người
La Mă. Thế
giới hiện đại có một số đặc
điểm kế thừa từ Đế chế La mă.
Người La Mă chiếm lấy rồi phát huy
nền văn hóa bản địa của Hy Lạp,
truyền lại cho các thế hệ sau về nền
kiến trúc, triết học và khoa học của Hy
Lạp. Người La Mă sau khi theo Kitô giáo đă nâng
tôn giáo này từ một giáo phái nhỏ đă
trở thành một trong những tôn giáo lớn
nhất của thế giới. Luật La Mă cũng
ảnh hưởng đến tất cả các hệ
thống pháp lư sau này của thế giới. Các
thể chế La Mă cũng truyền cảm hứng cho
hệ thống chính trị chính quyền của
nhiều quốc gia hiện nay. Hệ thống chính
trị “Tam quyền phân lập” của
Mỹ gần gũi với sự phân chia thể
chế của La Mă. Khi Cộng ḥa La Mă chuyển thành
Đế chế La Mă, ư tưởng và quyền hành
của Đại đế Caesar đă truyền
cảm hứng cho những lănh đạo quốc gia
sau nầy. Về mặt quân sự, các đội quân
viễn chinh của La Mă thống trị gần như
tất cả các dân tộc văn minh khác ở vùng
Địa Trung Hải và Cận Đông (ngoại
trừ Đế chế Ba Tư) trong hàng trăm năm. Cuối
cùng rồi Đế chế La Mă thực sự
sụp đổ, chủ yếu là do khủng
hoảng bên trong nội bộ và nội loạn hơn
là do cuộc xâm chiếm của các bộ tộc
German. Đế chế Đông La Mă kéo dài tới năm
1453, mang lại cho lịch sử chính trị của nhà
nước La Mă một tuổi thọ lớn tới
2 thiên niên kỷ. [3]
VƯƠNG QUỐC CALIPHATE: Đế
chế Arab, c̣n được biết với tên
Caliphate, là một thể chế chính trị do nhà tiên
tri Hồi giáo Muhammad sáng lập. Đế chế
nầy bao gồm hầu hết bán đảo Arabia vào
thời điểm Muhammad qua đời vào năm 632.
Gọi nó là Đế chế Arab sẽ hợp lư hơn
gọi là Đế chế Hồi Giáo, bởi lẽ
trong khi đạo Hồi có gốc gác và lan truyền
rộng ra từ đế chế nầy. Về sau, có
thêm nhiều đế chế của người
Hồi Giáo và do người Hồi giáo thống
trị nhưng không phải là Arab. Muhammad được
kế vị bởi 4 vị Caliph được
lựa chọn qua cơ chế đồng thuận cho
đến năm 661. Sau đó, triều đại
Caliphate Umayyad cha truyền con nối, thống trị
tiếp cho đến năm 750, kế tiếp là
triều Caliphate Abbasid th́ các cuộc chinh phục đă
kết thúc vào thời điểm này. Đế
chế Arab chấm dứt sự tồn tại vào
khoảng năm 900, mặc dù triều Abbasid duy tŕ vai
tṛ tôn giáo với tư cách là các Caliph ở Baghdad
cho đến khi thành phố này bị người Mông
Cổ phá hủy vào năm 1258. Sau năm 900, đế
chế nầy bị tan ră về chính trị, với
sự trỗi dậy của nhiều triều đại
đối nghịch, trong đó có nhiều đối
thủ gốc Turk và Ba Tư, cũng như các Caliphate
ḱnh địch ở Tây Ban Nha và Ai cập. Tuy
nhiên, trong thời của ḿnh, Đế chế Arab
vẫn là phi thường đánh bại Đế
chế Byzzantine và lật đổ Đế chế
Ba Tư triều Sassanid. Các vị tướng Arab
thuộc thời kư nầy, xứng đáng được
xếp vào hàng các thiên tài quân sự vĩ đại
nhất của thế giới, đặc biệt là
vị Caliph thứ 3, Omar là người đă chinh
phục khu vực từ Ai Cập tới Ba Tư trong
10 năm. Trong 100 năm, Đế chế Arab đă phát
triển lên quy mô lớn gấp vài lần Đế
chế La Mă. Di sản cuối cùng của Đế
chế Arab chính là đạo Hồi mà ngày nay có hơn
1 tỷ tín đồ. [4]
ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ: Đế
chế do thủ lănh Mông Cổ Temujin có tước
hiệu “Thành Cát Tư Hăn” lập ra vào năm 1206.
Đế chế Mông Cổ đầu tiên mở
rộng biên cương bằng thôn tính dần
từng phần lănh thổ của Trung Hoa cũng như
các bộ lạc thảo nguyên từng làm trước
đó. Khi
các sứ giả của Thành Cát Tư Hăn bị các lănh
đạo của Đế chế Khwarazmian láng
giềng, gồm Iran, Ahghanistan và Trung Á giết
chết. Thành Cát Tư Hăn trả thù và sau đó quân
viễn chinh Mông Cổ đưới sự lănh đạo
của ông đă tiêu diệt hoàn toàn Trung Á, chấm
dứt kỷ nguyên vàng của nó. Mặc dù chỉ có
khoảng 2 triệu người Mông Cổ, họ
vẫn chinh phục được hầu hết vùng
Trung Đông, Nga và cai trị Trung Hoa hàng trăm năm.
Nhưng, cuối cùng đế chế nầy cũng
tan ră và bị chia thành 4 vương quốc khan,
rồi sau đó các vương quốc này lại
bị tan ră hoặc chia cắt nhỏ hơn. [5]
ĐẾ CHẾ ANH: Người
Anh thực sự góp phần quan trọng tạo nên
thế giới hiện đại. Các thể chế dân
chủ đại diện của Anh truyền cảm
hứng cho các triết gia khai sáng Pháp như Montesquieu
sáng tạo ra các học thuyết chính trị có
tầm ảnh hưởng sâu sắc đến các
quốc gia châu Âu hiện đại. Các
đặc điểm của hệ thống chính
trị Hoa Kỳ, sự gắn bó với chủ nghĩa
tự do, tư tưởng pháp trị, quyền dân
sự và thương mại, được thừ
kế từ người Anh và đă lan rộng ra
thế giới. Cũng chính các đặc điểm
nầy đă giúp Đế chế Anh phát triển,
thịnh vượng và giữ được lănh
thổ bao la dưới quyền kiểm soát của nó. Vào
thời đỉnh cao thịnh vượng trong
thế kỷ XX, Đế chế Anh trải dài ¼
thế giới về diện tích lớn nhất trong
lịch sử, nhờ vào tài tổ chức khoa
học, sức mạnh tài chánh và đội chiến
thuyền hùng mạnh. Chẳng hạn việc Anh chinh
phục Ấn Độ dùng người Ấn Độ
phục vụ quyền lợi mẫu quốc. KẾT
LUẬN: Nh́n
lại lịch sử Tàu Cộng, Tập Cận B́nh
thuộc thế hệ lănh đạo ĐCSTQ thứ năm
sau Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu B́nh, Giang
Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Ngày 15/11/2012,
Tập được bầu làm “Tổng Bí Thư”.
Ngày 13/3/2013, Tập được bầu làm
“Chủ tịch nước”. Tập Cận B́nh
đă nhanh tay thâu tóm quyền lực thống trị,
đă bỏ tù những đối thủ chính
trị bằng chiến dịch “đả
hổ, diệt ruồi” như tướng
Từ Tài Hậu, Bạc Lai Hy, Chu Vĩnh
Khang…chiến dịch nầy đă gieo rắc sự
sợ hăi và gây bất ổn tâm lư trong các cấp
đảng viên từ thượng tầng cho tới
hạ tầng cơ sở. Hàng trăm quan chức tham
nhũng đă bị tống giam và hàng chục tỷ
đô la tài sản tham nhũng bị tịch thu. “Giấc
mơ Trung Hoa”,
Tập Cận B́nh không che giấu tham vọng muốn
thống trị thế giới, bước đầu
tiên là bành trướng, bá quyền Biển Đông
& Hoa Đông. Chính tham vọng nầy đă
khiến Bắc Kinh bị thế giới cô lập,
Tập Cận B́nh đă đẩy các quốc gia
Đông Nam Á nghiêng hẵn về phía Hoa Kỳ và tích
cực ủng hộ chiến lược “xoay
trục về Á Châu - TBD” của Ngũ Giác
Đài. Cho
dù Tập Cận B́nh muốn đốt giai đoạn,
bỏ qua lời khuyên vàng ngọc của Đặng
Tiểu B́nh “giấu ḿnh chờ thời”
cho tới nay vẫn chưa mất hết giá trị.
Tập Cận B́nh đă công khai ra mặt đối
đầu trực diện quyền lực thống
trị thế giới của Hoa Kỳ. Tham vọng bành
trướng, bá quyền bằng chiến tranh của
Tập Cận B́nh sẽ phải phá sản, một
khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, kéo theo
hệ thống chính trị của lănh đạo
ĐCSTQ và nước Tàu sẽ rơi vào ṿng xoáy
bạo lực hỗn loạn. Đây là cơ hội
cho các dân tộc Tây Tạng, Tân Cương và
Nội Mông nỗi dậy chống chính quyền
Bắc Kinh giành độc lập dân tộc. Một
tin không vui cho Tập Cận B́nh. Ngày 9/12/2015, Wal Street
Journal vừa đăng tải bài hát và lời
hịch được Al-Hayat, bộ phận tuyên
truyền của IS, phát đi thông qua mạng xă
hội Twitter và ứng dụng tin nhắn telegram vào ngày
Chúa Nhật vừa rồi. Bài hát này được
lực lượng Hồi giáo hát bằng tiếng Hoa
với những ngôn từ kêu gọi “TỬ V̀
ĐẠO”. Nội dung sắt máu như sau:
“Chúng ta là những chiến binh thánh chiến, kẻ
thù vô liêm sỉ đang hoảng sợ trước chúng
ta. Giấc mơ của chúng ta là hy sinh trong cuộc
chiến trên chiến địa nầy…” Bắc
Kinh thực sự run rợ và đă yêu cầu phương
Tây giúp sức tiêu diệt “khủng bố”? Pan
Zhiping, cựu lănh đạo Viện Nghiên cứu Trung
Á thuộc Học Viện Khoa học Xă hội Tân Cương,
nhận định: “Mục đích cuối cùng
của chúng ta vẫn là tấn công Trung Quốc”. Nhất
định, không những Tây Tạng mà cả Tân Cương
và Nội Mông là những quốc gia sẽ vĩnh
viễn không biến mất. Nếu có một người
Tây Tạng nào đó, đọc được
cuốn sách nầy cùa ông, họ sẽ quăng nó vào
sọt rác… Nguyễn
Vĩnh Long Hồ |