Đoàn
76 tù binh (Bút ký) |
Chuyện gã kể không dễ viết, vì đã
có nhiều người viết rồi. Thảng như
một nhà văn nào đó đã dầy chữ: “Vào
cái lúc tôi bắt đầu viết, những điều
tôi cho rằng cần được viết đều
đã được viết bởi những người
đi trước với những qua sông nín thở,
những máu lệ ngục tù, những hồn oan
ngọn sóng…”. Nhưng may quá là may, khác một
nhẽ chuyện của gã là bị bắt làm tù binh.
Thế nhưng chả may gì! Bởi thiên hạ sự
đi Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, đánh
đấm từ trên trời xuống, từ dưới
nước lên thì gã trên răng dưới lựu
đạn là hình nhân thế mạng cho…Địa
phương quân! Với địa là đất,
suốt ngày đào đất ngồi dưới
hố thì văn dĩ tải đạo cái khổ nào.
Khó khăn thật chứ đâu có bỡn!
Khó
hơn nữa thêm một nhà văn ngoại quốc: ‘’Không
việc gì phải tìm cốt truyện ly kỳ, chi
tiết rắc rối,
lại không có thật’’. Ngay
tình thì…cốt truyện
đã có sẵn, và chả…rắc
rối cho mấy. Với…không
có thật ư? Hiểu theo nghĩa không bịa
tạc thì chuyện có…thật
là: Gã là…“đương
kim” anh vợ tôi. Nhưng tôi không gọi anh
mà vác hình tượng “gã” vào bài viết để
có khí phách, có hồn vía một chút. Vì đi lính, gã
cũng hút thuốc lá Ruby, uống bia Quân tiếp
vụ, rượu đế Kim Long, và chửi
thề…kiểu con nhà lành như bất cứ ai.
Ấy
là chưa kể bị xiềng vào chữ nghĩa như
anh tù văn nên tôi bê vào bài viết những văn
chương thiên cổ sự này kia, kia nọ. Chăn
trâu nhân thể dắt nghé thế nên chẳng thể
thiếu vắng thằng bạn cà phê Pasteur ngày
ấy năm nào với ngẫu sự nào đấy.
Và chuyện tù cải tạo của gã
ngắn tun hủn và dấp da dấp dưởi như…
Như
theo gã kể những trại cải tạo Cồn Tiên,
Ta Cơn gần phi trường Khe Sanh, mới đầu
được lập lên để trồng trọt
để tự túc đều có tên chung là
“Trại tàn binh”. Sau sát nhập về trại Ái
Tử 1, 2. 3. 4, 5 gần Quảng Trị. Trại tàn
binh kiểu du kích địa phương “tự biên
tự diễn” nên tương đối không…“nhất
tri” lắm. Vì vậy mới ba bốn tháng đã có
người được tha về, thường là
những sĩ quan cấp thấp, như…gã chẳng
hạn.
Một ngày gã qua văn phòng trưởng
trại “làm việc”, nhòm xa xa lá cờ đỏ
sao vàng lất phất trên nóc trụ sở hội
đồng xã, trước cửa có thửa khoai mì,
vội lò dò tới. Khi nhổ củ mì, lá cây lay
động, thằng du kích đứng ở chòi cao
bắt gặp. Vừa lúc lụi đụi buộc
ống quần nhét mấy củ khoai…Gã bị
thằng du kích lấy báng súng đánh ngược lên,
gã bật ngửa ra đằng sau, đập vào
mắt nguyên con một mảng trời xanh, mây
trắng, nắng vàng…vọt. Thằng du kích tiếp
tục lấy báng súng dọng vào mồm gã, thế là
mất bu nó nguyên hàm răng cửa. Quần gã tơi
bời khói lửa xong, thay vì dẫn về trại,
thằng du kích đưa vào trụ sở xã. Vừa
lúc lão xã trưởng đi về định
ngồi xuống làm một bi thuốc lào.
Không
hiểu nghĩ sao lão khẽ khọt quay lại nhìn gã,
và bật ra hai chữ: “Ô Ba”.
Gã
cũng muốn bật ngửa người ra đằng
sau như hồi nãy. Vì “03” là tên hiệu truyền
tin của gã. Nhưng gã vẫn nín khe, vì trại
cải tạo kia, trụ sở xã này nằm trên
đất đóng quân ngày nào của gã. Bởi
nhẽ nào có biết lão xã trưởng này là ai, là
nẫu thì…
Thì
lão nâng mặt gã lên và búng thêm một câu:
-
Đủ má! Thiếu úy Nghĩa!
Lúc
này gã mới ve vé mắt nhìn lão xã trưởng.
Bố mẹ ơi, hóa ra lão là thượng sĩ
nhất tên…Nàng, là thường vụ đại
đội trước kia của gã. “Nàng” vội
cởi trói cho gã.
Đúng
là gã bịa và bịa như thật! Tôi bàm bố
mắt bù lạch sao mà không thấy lão xã trưởng?
Gã cãi inh lên vì lấy tay che mắt vì mặt mày
đầy máu nên còn nhìn khỉ gì nữa. Tiếp, lão
xã trưởng mang khoai cho gã ăn, khi không gã buông
một tiếng: “ Đủ…”.
Mới
được nửa chữ nhất tự thiên kim,
biết lỡ miệng, gã quề quà:
-
Còn răng lợi khỉ đâu nữa!
Cũng
từ đó, gã ăn khoai mì thấy…ê răng. Nghe
chuyện khoai lang, khoai mì dai như bò đái, bèn
hỏi gã chuyện Sư đoàn 1 “tắc bọp”
nghe sướng hơn.
Ngỡ
được nghe đánh đấm ở tuyến
đầu hỏa tuyến, gã lại…”cắc cù”:
Đủ má…
Lại
biết mình lỡ miệng nữa, gã khỏa lấp
ngay:
-
Sui tận mạng!
Sau
đó gã à ê hôm đó thấy khoai mì nhào xuống
kiếm chút “bồi dưỡng” nên bị
thằng du kích đánh cho nhừ tử. Bị
giải về trại mới ô hô ai tai qua văn phòng
trưởng trại để làm giấy tờ “phóng
thích”. Gã được thả vậy mà trưởng
trại cóc chịu mở miệng cho hay vì sợ
lộ…tiết lộ bí mật nhà nước. Nghe
xong tôi cũng muốn “đủ…với thiếu”
như gã!
Chuyện đánh đấm của gã cũng
chả dài hơn và dấm dẳn như thế này…
Ra vùng một chiến thuật, trình diện
Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 54. Gã dẫn lính vào nơi
gió cát tới tận Quảng Trị. Ở đây gã
gặp lão thượng sĩ thường vụ cũng
người xứ Quảng. Dựa trên…chuyện có
thật ai cũng biết là chuẩn úy mới ra trường,
lão…“chỉ huy” gã chứ ông cố nội gã…dám
chỉ huy lão. Ngay cả chuyện lon lá, lão nguých ngoác
rằng thêu thùa ở cổ áo làm chi, cứ gắn
miếng thiếc ở túi áo cho tiện việc
sổ sách. Lỡ bị Việt Cộng rượt
chạy có cờ thì quẳng bu nó đi cho đỡ
mất công cái màn lỉnh kỉnh…hòm gỗ cài hoa.
Gã quần nát địa đầu giới tuyến
xuống đông đông…không tĩnh, xuống đoài
đoài…chẳng tan, đành nay đây mai đó
giữ tuyến, đào hố…mỏi cả tay. Cho
đến một ngày gã và lão “lỳ một lam” làm
một ly…đế cho đời nở hoa xuân, cho bõ
cái đời lính thú.
Đang giang giang chuyện thấy mai chưa
nở không biết xuân về hay chưa? Bỗng dưng
hồn ma bóng quế thằng bạn Tháng
ba gãy súng hiện về ngày nào năm ấy ở
quán cà phê Pasteur. Ăn dối nói thật thì thằng
này cũng bình bình như con người ta. Chuyện
là thấy nó gài bông mai vàng mạ đen lên cổ áo.
Tôi hỏi gì vậy? Nó nói y như lão thượng sĩ
già óc ách vừa rồi. Nhưng lão đâu có hay
chỉ vì lúi húi cái bông mai một hồi lâu,
ngẩng lên nhìn ra ngoài cửa quán thấy cái Honda
bị quái xế “vồ” mất tiêu. Tất cả
cũng chỉ vì anh chợt nhớ em, nhớ ơi là nhớ. Nhưng
ấy là chuyện sau, chuyện bây giờ là…
Là gã dón chuyện giữ tuyến, đào hố
đánh nhau cầm chừng. Nghe lạ! Bèn hỏi? Gã
suông đuột là hai bên đào hết giao thông hào
đến hầm trú ẩn cách nhau mấy chục thước.
Sau đó ngồi xổm nghe ếch nhái ồm ộp
gọi tình. Lâu lâu ngửng đầu lên đì đọp,
đì đọp mấy phát cho vui. Tình trạng ì
oạp, ì oạp như ếch gọi mưa chẳng
kéo dài bao lâu…
Ha! Thằng bạn cà phê lúc này đây cũng
đang ở giao thông hào…Chân gà lại bới
ruột gà, thằng tôi bới móc truyện ngắn Chờ
tôi với…với ngày 28 tháng 1 năm 1973: (,,,)
Hiệp định Paris ký ngưng bắn. Lính hai bên
ùa lên giao thông hào, những bộ quân phục rằn
ri miền Nam trộn lẫn những bộ quân
phục cứt ngựa miền Bắc ôm nhau hò hét
“Hết chiến tranh rồi! Hết chiến tranh
rồi!”. Là hết bắn giết nhau, là chấm
dứt chiên tranh. Trong đêm của ngày hoà bình đầu
tiên, tưởng tượng sẽ đi theo anh chàng
bộ đội về Hà Nội thăm những cây
cơm nguội, những hàng sấu, ngắm nhìn
hồ Hoàn Kiếm. (,,,)
Thêm một lần chuyện…”ngắm nhìn
hồ Hoàn Kiếm” cũng thuộc về hậu
sự. Vì chuyện đánh nhau như chơi ấy,
theo gã bên ta vì tiết kiệm đạn, còn bên
địch làm như nhờ Hòa đàm Paris sẽ
bất chiến tự nhiên thành nên bắn gì cho phí
đạn. Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh gã
cho là vậy. Sau mới vỡ nhẽ ra chỉ là tách
trà trong cơn bão. Một buổi chiều nắng
hạ, vừa…tu đế Kim Long, không phải cho bõ
cái đời lính thú mà là…Già
từ vũ khí. Lão vừa…tu hú với gã: “Tôi
ở vùng này tôi biết, trước sau cũng tiêu”.
Lão nắn no: “Ông thầy không dọt. Tôi dọt”.
Gã không biết làm gì hơn là làm thinh. Không xong
thật! Và trong quân sử của trận địa,
chẳng có “ca” nào như thế này đây:
Buổi sáng gã đang ngủ bét con mắt, khi không như
có linh tính chớp chớp mắt tỉnh dậy. Làm
như trời đi vắng hay sao ấy, bỗng
thấy trời đất êm ru bà rù: Hốt nhiên có
mấy khẩu AK dí vào người. Mấy thằng
chết bầm cũng chẳng thèm vén môi hỏi cho
một câu: “Hàng sống chống chết…Hàng
sống chống chết” mà khơi khơi bắt gã
làm tù binh.
Nghe cứ như…truyện phong thần. Tôi
buồn miệng ngứa răng sao không ria một tràng
M-16 cho đã điếu. Gã trả lời gọn
lỏn: “Còn đạn khỉ đâu mà bắn!”. Và
chỉ biết ớ ra đến đâu thì đến.
Chung sự thì gã được đưa đến…cầu
Hiền Lương thật!
Gã bị bắt tháng 11 năm 1974, một
buổi sáng tháng 10 năm 1977, trên đoàn xe Molotava 25
chiếc bao phủ kín mít, hơn 500 người
thuộc Đoàn 76 (tù binh) bị đưa ra Bắc.
Về Nam lại mùa thu năm 1978, đi tù tiếp
ở trại Bình Điền, vừa tù binh, tù
cải tạo 7 năm có lẻ. Nhưng ấy là
chuyện mai này, vì mặc tình gã kể gì thì kể,
tôi cứ quấy quá với chỉ vì ba mớ khoai mì
mà gã dính chấu thêm vài năm cải tạo. Và
lại thèm được nghe gã ….“Đủ má”
nghe quá đã. Gã…đã điếu rằng vào
trại Bình Điền, gã gặp cố nhân “Đại
bàng” trung tá trung đoàn trưởng. Gã hỏi cho
ra nhẽ ngày ấy, gọi máy ông ở mô?. Ông ta
trả lời ngon lành: “Ở…Đà Nẵng”.
Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi
đào, tôi hỏi bỡn gã đi tù ra Bắc có…ngon
như chó ăn trứng luộc không? Gã ậm
ừ…
Để sau đó bằng vào mảnh đời
tàn binh của gã.
Gã
thẫn thờ như gà rù giữa buổi đồng
vắng về buổi tống tiễn tù binh ở
Quảng Trị. Vì nỗi buồn chạm mặt
với “hàng quân” Phạm Văn Đinh, nguyên trung tá
trung đoàn trưởng Sư đoàn 3 dàn chào. Ông
chơi nguyên con quần áo bộ đội, mang quân hàm
trung tá hai sao đỏ với hai gạch. Ông trấn
an trước 500 tù binh trước sau mình cũng…thua,
cứ lao động tốt sẽ được như…ông
và ngày về chẳng bao xa. Ông cho hay đoàn 76 tù binh
Ái Tử được đưa ta Bắc trong công tác
lao động Công trình thủy lợi Bara Đô Lương
ở Hà Tĩnh và Công trường Lòng hồ sông
Mực tại Nông Cống ở Thanh Hoá.
Cũng tại Quảng Trị, gã gặp một
hảo hán có bộ râu như râu ngô ngồi tựa
gốc cây đang châm lửa đốt trời Bình Ngô đại cáo với…lấy
đại nghĩa để thắng hung tàn...Rồi
ư hử chiều trên phá
Tam Giang, anh chợt nhớ em, nhớ ơi là nhớ…Và
chợt nhớ ra để không quên kể chuyện
ngày 24-3-1975 về cuộc rút quân vượt phá Tam
Giang: (,,,)
Phía bắc là cửa Thuận An, phía nam là cửa Tư
Hiền, phía tây là phá Tam Giang. phía đông là biển
đông. Nhìn ra biển là hai chiếc M-113, những
chiếc bánh xích đua nhau cán lên đầu không
biết bao nhiêu là người đang nhấp nhô
từ bờ ra đến tàu. (,,,)
Mãi khi gã là anh vợ tôi, gã mới hay ấy là
Cao Xuân Huy với Tháng
ba gãy súng.
Gã
cứ tiếc hùi hụi là nếu gã biết trước
thế, gã không để…em gái gã lấy tôi. Nhưng
gã biết một mà không biết hai, như tôi
biết thừa thằng gãy súng không leo lên HQ-801 mà
đang leo lên Molotova “vượt tuyến” ra Bắc
qua thư nó gửi anh bạn tên Hùng.
Ngắn
gọn và dễ hiểu nó là người hùng nên
chỉ kết với ai tên…Hùng: (,,,)
Hùng thân. Sau khi bà cụ tao từ Sài Gòn ra Ái Tử
thăm nuôi. Nhưng quản giáo trại từ
chối vì mai này, bọn tù tụi tao phải ra
Bắc. Khoảng tháng 10/1977. (,,,)
Với
biết một mà chả biết hai thì thằng em
rể gã cũng tên…Hùng vậy.
***
Xe
qua cầu Hiền Lương, nước sông Bến
Hải trong xanh, gã cảm thấy tê tái, tái tê, Qua
đến bờ bên kia, xóm làng hai bên đường
nghèo nàn, đồng ruộng xơ xác, gã chẳng
thấy trâu bò đâu. Đoàn xe chạy suốt trên
Quốc lộ 1 qua cảng Đồng Hới, theo gã
bến cảng này là một cảng khá lớn
của miền Trung, vậy mà trước mắt gã
thật sự lại quá tiêu điều, lạc
hậu so với bến cảng miền Nam, tàu bè thưa
thớt và bé nhỏ.
Cả vùng đất Quảng Bình, gã lõ mắt
chỉ thấy hố bom với hố bom. Đoàn tù
binh đến sông Gianh. Lòng sông không rộng, nhưng
vì không có cầu nên phải đợi qua phà Danh, phà
kết bằng tre bó lại và lót gổ trên mặt
cho xe qua lại. Ra đến giữa sông, sông nước
rì rào, gió thổi rát cả mặt, lẫn trong gió gã
nghe như tiếng rên xiết của hồn tử sĩ
gió ù ù thổi trong cuộc phân tranh gần 300 năm
trước giữa hai dòng họ Trịnh Nguyễn.
Từ nãy giờ tôi bị gã cho hai lần vượt
sông, chỉ thấy nước chảy mây trôi, sóng
vỗ ì ầm. Lại nữa với lối
xưa xe ngựa cũ hồn thu thảo, nền cũ
lâu đài bóng tịch dương, thằng tôi cũng
muốn đi tìm thằng gãy súng lẩn quẩn đâu
đó…Mà dám cái thằng bán nắng cho trời, bán sấm cho thiên lôi
đang ngồi ở bến sông nào đó và đang… (,,,)
Chạy từ Quảng Trị về, bao nhiêu tủi
hờn, căm hận, biến mất nhanh như viên
đạn ra khỏi nòng súng. Bọn tôi ngồi quây
tròn giữa ngã tư đầu nam cầu Trường
Tiền nhậu không có mồi, không có nước
đá “chữa lửa”, chúng tôi nhậu chay. Câu
chuyện lại vui như pháo Tết. Mấy tên lính
không biết lấy xe xích lô của ai chở đầy
xe thuốc lá Ruby và bia Quân tiếp vụ đến
tiếp tế và nhập cuộc. Tôi đập
vỡ cổ chai bia rót từ đầu xuống, người
ướt đẫm bia thích thú, từ bé đến
lớn chưa bao giờ được tắm
bằng bia mà. (,,,)
Bèn hỏi thằng gãy súng đâu chả
thấy!? Có thể vì chuyện “biết một mà không
biết hai” nên gã ăn cơm nhà bụt, đôt râu
thầy chùa vặc tôi như vật thịt: Vì gã
chỉ biết ông râu tên Huy, họ còn không hay
nữa là. Là qua thêm hai cái phà nữa: phà Ròn ở
Đèo Ngang và phà Vinh, cứ lên xe xuống xe nên còn
biết ai với ai!. Xong, gã dẽ dàng…
Xê
trưa đoàn xe ngừng lại ở đỉnh
Đèo Ngang ranh giới giữa Quảng Bình, Hà Tĩnh
để nghỉ ngơi. Thơ thẩn trên Đèo
Ngang, gã để hồn đi hoang trong một cõi
đi về với 500 tù binh, 500 trăm mảnh tình riêng
nhưng không thể nói ra…Quay nhìn về phương
Bắc, gã cảm thấy đi ngược thời
gian về 150 năm trước, gã mường tượng
võng cáng của bà Huyện Thanh Quan từ Thăng Long
vào Thuận Hoá, họ đang ngược chiều lên
đèo đi ngang qua đám tù binh đang đứng,
ngồi ở đây. Bà vẫy vẫy tay chào nhưng
cau mặt với tang thương tạo
hoá gây chi cuộc hý trường, đến nay thấm thoắt mấy tinh sương".
Đến
tao đoạn này, chợt nhớ ra bài viết Bà
Huyện Thanh Quan tân biên cổ sự mà tôi vay mượn
tác giả nào đó một đoạn nhưng
chả biết có đúng với thực tại chăng:
(,,,)
Hóng mắt xuống chân đèo thoai thoải
dốc không nhìn thấy cỏ
cây chen đá, lá chen hoa, mà chỉ thấy lá cây đang
đổi dần từ xanh tươi sang xanh thâm...Hoa,
hoàn toàn không có, thêm một lần chẳng gặp
lại…tiều vài chú, mà là những người gánh
củi như những cái bóng nhập nhòa từ trên
rừng về thôn xóm. Đâu đó có tiếng
leng keng của mấy con trâu đeo mảnh bom ở
cổ kêu nghe mệt mỏi, não nề. (,,,)
Tôi
to hó với gã có nhìn thấy mấy con trâu núi đeo
mảnh bom ấy không? Gã gật gừ rằng vì
trời xế trưa, nằm phiêu phiêu trên khoảng
đất trống nghe tiếng chim cuốc kêu. Gã
nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
với chuyện “biết hai mà không biết
một” nên thả hồn vào giấc hoè lúc nào không
hay. Nhưng…hay biết con trâu núi mạn ngược
lắc lắc cái sừng nên nghe rõ tiếng hai
mảnh bom B52 gõ vào nhau kêu…“leng keng” thật.
Chuyện trâu nhưng nghe tức như bò đá,
chưa kịp hó háy gã đã…
Đoàn
xe trực chỉ Nghệ An, khoảng 4 giờ tới
Vinh nằm giữa ranh giới Hà Tĩnh, Nghệ An. Thành
phố này như thành phố hoa quỳ vàng anh
khách lạ đi lên đi xuống…đi dăm phút
đã về chốn cũ là hết đất. Vì
thành phố với những chung cư cho nhân công
kỹ nghệ do Đông Đức xây cất vào
thập niên 60. Đường phố thưa thớt
người đi lại, chỉ thấy công nhân viên
nón cối rộng vành, áo quần kaki Nam Định,
xe đạp Trung quốc. Chỉ có vài trụ sở
hợp tác xã, cửa hàng quốc doanh, nên với gã
chả…còn một chút gì
để nhớ để quên. Rời khỏi Vinh
mươi cây số gặp nhà ga Yên Lý, theo phía tây
gặp xã Diễn Châu.
5 giờ chiều đoàn xe ngừng lại
ở khoảng đất trống cách Đô Lương
nửa cây số…
Buổi
sáng đầu tiên ở miền Bắc sao im ắng
lạ lùng. Ngày đầu chuẩn bị nhận
dụng cụ rổ rá, cuốc xẻng và xe cải
tiến để tải đất. Gã và một
số anh em theo anh bộ đội ra chợ huyện
gánh rau quả. Sắp tới chợ huyện trên
quốc lộ 7 có đám nhóc đứng bên
đường, dưới chân là đống đá
được sắp sẵn thì phải. Một cô gái
khoảng 16 tuổi chỉ trỏ anh ni thiếu úy, anh
nớ trung úy. Chưa kịp hỏi bạn tù sao “nó”
biết cấp bậc của đám tàn binh thì đã
bị ném đá ào ào vào người, may có người
đàn ông đi tới đuổi lũ nhóc đi và
dẫn con gái về. Vì lộn xộn nên phải
ngừng một nhát, đi được một quãng
gặp cô con ngồi trước hiên. Anh bộ đội
tạt ngang nói năng gì đó, ông bố liếc nhìn
đám tù binh và nói lớn: “Thứ đó đem bén
bỏ cho rồi. Nước đâu mà cho uống”.
Anh bộ đội đi khỏi rồi, ông bố
kề tai nói nhỏ với cô con. Lát sau cả hai mang
hai gầu đầy nước cho đám tù binh.
Theo anh bộ đội vào chợ, trong khi
chờ đợi anh ta mặc cả với bạn hàng,
gã mon men đến một sạp gần đó
hỏi dọ bà bán hàng có thịt thà không? Bà ta
trả lời: “Làm gì có thịt mà bán, anh!”.
Chữ “anh” nghe gần gũi sao ấy. Gã hỏi bà
“hàng thịt”: “Ngoài này mỗi năm đuợc
mua bao nhiêu mét vải?”. Bà bơ bải: “Mười
năm nay rồi có được mét vải nào đâu!”.
Tiếp, bà nói dàm: “Anh ở đâu trong Nam
thế”. Gã đáp: “Sài Gòn”. Bà lại hỏi
nữa: “Trong ấy đẹp lắm phải không”.
Gã dạ vâng. Bất chợt bà vồ vập: “Các bác
và chị ấy có được ra thăm anh không? Và
lắc đầu: “Tội!”. Gã thủng thẳng nhát
gừng là chưa có…”chị”. Bỗng nghe chuông
từ ngôi nhà thờ công giáo cổ kính bên kia
đường, cùng lúc gã dòm thấy hai mẹ con
đi chân đất dắt nhau nấp sau thân cây
bạc hà, mỗi người kẹp nách một gói
giấy. Lát sau họ bước ra, trên thân mỗi người
bây giờ là chiếc áo dài đen luộm thuộm còn
hằn rõ nếp gấp, hai me con đi guốc,
lầm lũi đi về phía nhà thờ.
Gã
bước qua hàng chè vối bên cạnh và bắt
gặp cô hàng nước hóng chuyện quay ngoắt
đi. Cô ngồi dưới một tấm liếp
tranh, trên cái trõng xiêu vẹo có một lọ thủy
tinh đựng vài chiếc kẹo vừng, cái điều
cầy, cái ô gỗ nhỏ có dăm bao thuốc lá xé
dở. Khách đến trả 5 xu 1 bát nước
vối, 5 xu 1 bi thuốc, cô lấy gáo khoáy vào lon nước
rửa, múc chè vối rót vào bát. Tiện tay múc cho gã
một bát nữa, gã lắc đầu ra dấu không
có ”xu teng” nào. Mắt gã hết nhìn ông khách rít
thuốc kêu tanh tách, lại nhòm “cái ô gỗ”
giống cái ngăn kéo bàn học. Cô gật đầu
thản nhiên đưa gã bát nước. Tay cầm bát
chè vối, đầu gã cứ xoay vần…Vì dường
như gã đã nhìn thấy cảnh này ở đâu
đó từ thời Tự
lực văn đoàn cách đây 40 năm với quán
nước đầu làng. Ấy vậy mà sao vẫn
không thay đổi. Vẫn cái trõng xiêu vẹo
ấy, nồi nước vối đó, tấm
liếp tranh, lọ kẹo vừng! Chả nhẽ cô hàng
nước ngồi ở đây từ bấy đến
giờ? Gã chợt dạ quan hoài đến người
xưa đâu tá!
Uống
xong, trả lại cái bát, thì…thì
cô dúi vào tay gã bao thuốc lá còn nguyên si.
Nghe mùi thuốc điếc mũi, đang định
đốt một điếu, gã đã tống tôi
đi “lao động”…
Những
ngày tháng kế tiếp Đoán 76 đào vét lòng kinh
Mụ Bà (tên cũ thời Pháp là Bara Đô Lương)
cho kịp mùa mưa để sông Mã cung cấp nước
cho quận Đô Lương và hai quận bên
cạnh. Đào, cuốc, gánh, tải đất
từ lòng kinh để đắp cao hai bên bờ. Ba
tuần “lao động” rồi cũng chóng vánh trôi
qua. Hôm sau trên đường đi Nông Cống, Thanh
Hoá. Nhìn con kênh, gã cảm thấy vui lây với dân
ở ba huyện này, mong rằng năm sau và về sau
nữa họ có đủ nước cho ruộng vườn…
Đang ngồi trên xe Molotova ngược lên phương
Bắc. Đùng một cái nghe tiếng ầm chát chúa,
không ai biết chuyện gì xảy ra…
Cái nết đánh chết cũng không chừa
của gã là chuyện này xọ qua chuyện kìa. Không
những thế gã lại có lối nói chuyện có hơi
rối, hơi ngúc ngắc thế này đây:
Chủng
chẳng như bồ dục chấm mắm cáy thì cũng
đến…câu thơ thì xã con thuyền Nghệ An. Gã
xăn xò dân công giáo Nghệ An ở Quỳnh Lưu
nghèo khổ, rách rưới hơn hai mẹ con ở
chợ Đô Lương nhiều. Tôi hỏi rách
thế nào? Gã bảo có quần áo đâu mà…rách! Vì
họ đóng…khố! Cùng cuốc đất vét kinh
với tù, nhìn quần áo tù sọc dưa họ thèm
thuồng thấy rõ. Chẳng lẽ tù đổi
quần rồi…đóng khố sao? Vậy mà có anh tù
biếu không cho một ông cái áo. Ông này trên mặc
áo sọc, dưới quấn…vải bao cát.
Gã chưa gặp thằng gãy súng ở đâu
đó nhưng thằng tôi gặp nó với…vải
bao cát! Ai có thân người ấy lo, ai có bò người
ấy giữ, tôi cứ giữ dịt hình ảnh giao
thông hào, ám ảnh hầm hố ẩn khuất qua
truyện ngắn Vải
bao cát trong Vài mẩu chuyện: (,,,)
Giao thông hào, hầm chữ A, hầm chữ T.
Tiếng bom, tiếng lựu đạn. Những xác
ta, xác địch. Một viên đạn bắn
sẻ, thằng đệ tử ruột ngã ngửa.
Đôi dép râu với cặp chân vắt ngang giao thông
hào. Và, bao cát, những bao cát đẫm máu người,
thịt da dính bầy nhầy óc trắng, trộn
lẫn với đất từ những bao cát... Cái hình
ảnh ấy trở thành nỗi ám ảnh triền miên…Một
ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn phải dùng bao cát
để làm hầm trú ẩn, không bao cát để
đắp giao thông hào. Vì: Chiến tranh đã hết
rồi mà. (,,,)
Vì chiến tranh đã hết
nên gã mới nghe
được chuyện ông tướng với núi
Kinh ở Đô Lương và nói…kinh thật. Ông tướng
“ôn vật” với sức người sỏi đá
cũng thành cơm cho làm đường hầm xuyên
núi. Cứ một thằng dân, một cái cuốc chim
đục đẽo cả ngày mới được
một cái hốc bằng lỗ mũi. Sẵn
thuốc nổ TNT của Mỹ Ngụy để
lại, ông tướng cho nổ tung…núi thành hang sâu
thun thút. Mìn nổ thêm mấy quả nữa, đúng
lúc này thì…
Thì
như vừa kể lể, đang ngồi trên xe
Molotova đi Thanh Hoá, xe chạy ngang qua núi Kinh nghe
tiếng ầm chát chúa kinh thiên động địa.
Đám tù binh ngẩn ngơ nhìn đá cát, bụi
đất bốc lên như cụm mây hình đĩa
sôi vất vưởng ngang ngang đầu núi.
Ít
lâu sau gã được “rỉ tai” có 112 người
chết vùi dập trong hang núi ấy.
***
Vừa
khi đoàn xe rời Nghệ An, đang theo gã trâu rong bò
dắt đi Nông Cống như đi…nông trường.
Chợt nhớ gã gặp cô gái
bên đàng được cả…gầu nước,
thêm cô hàng nước với nguyên…bao thuốc lá. Mà
nào gã có “báo cáo rõ” thuốc gì, sau tôi “liên
hệ” với ông chú ở ngoài Bắc thì “nắm
bắt tình hình” vào thập niên 70: Bao thuốc lá
“bẹt” nhất là Trường Sơn, Sông Cầu
chỉ 5 hào, “khủng” là Thăng Long những 1
đồng, so với 1 bát phở 5 hào. Lại
nữa, không có lửa sao có khói vì chả thấy
hộp diêm đâu, suốt chuyến đi, chả
thấy gã thở ra…khói gì sất! Trộm nghĩ dám
gã bịa lắm ạ! Bèn hỏi gã có mối tình
“em gái Bắc”, “anh tù Nam” nào chăng. Tình
dạng vừa mới gặp đã có…mùi ngậm ngùi
chia phôi, kiểu ôm em trong
tay mà đã nhớ em ngày sắp tới của
Thanh Tâm Tuyền. Gã nhành mồm ra rằng trại
cải tạo trong Nam có lán, có buồng, còn ở
đây, họ đâu có rỗi hơi dựng trại
cho đám tù binh đang lêu bêu nay đây mai đó. Vì
vậy gặp rừng xanh um là đốn cây làm nơi
tạm trú. Còn ăn uống mỗi ngày chỉ
được một phần ăn là “bánh xe lãng
tử” (như Donut), một bát sắn trộn bo bo. Vì
vậy đói gặp mối chúa, mối vua là xong
tuốt, cứ con gì nhúc nhích là nhai bằng thích,
trừ con…“bù-loong”. Ban ngày trời nóng cách
mấy, nhẩy ùm xuống suối là phẻ. Nhưng
đêm về với cái lạnh cóng da buốt
thịt của rừng núi thì trốn ở đâu cho
thóat. Lạnh teo…“bu-di” thì còn làm ăn khỉ gì
nữa.
Với teo “bu-di” còn làm ăn gì nữa để
ai biết quan mót đái mà hạ võng: (…)
Tôi và Bưởi về đến hố của Bưởi.
Người con gái nằm trong hố, chùm poncho chỉ
thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể cũng
dễ coi. Vừa xuống hố, Bưởi nói: “Ông
thầy nằm đắp chung poncho với con nhỏ này,
em đi tìm cho ông thầy cái áo giáp”. Tôi nằm
đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ
người cô làm tôi khó chịu, không phải tôi khó
chịu cô gái mà tôi khó chịu tôi. Bàn tay tầm
bậy của tôi mầy mò tứ tung trong poncho. Cô
thở dồn dập. Ðến một lúc thuận
tiện, tôi tìm một vị thế thích hợp. Nhưng
vị thế thích hợp đã không có với chúng tôi.
Cát dính lung tung lên người, ở dưới
hố thì hố được đào cong vòng như
cái võng, kéo nhau lên trên miệng hố, đạn
Việt Cộng bay loạn xạ ở tầm rất
thấp. Rất thèm. Nhưng thôi thì đành chịu,
lắc đầu, chép miệng, “ngậm ngùi” (…).
Hết con trâu núi đeo mảnh bom đầy
“hình ảnh” của chiến tranh đến hố
được đào cong vòng như cái võng ngập
“hình tượng” thống khoái của một
kiếp nhân sinh. Vì Tàu có được cái linh sàng là…chết
ngắc. Ngẫm chuyện nhân sinh ấy là bản năng
sinh tồn như gã đói gặp mối chúa, mối
vua là xong. Như thằng gãy súng đánh vật
với Miếng ăn: (,,,)
Tôi phải tự “mưu sinh” để được
bồi dưỡng bằng những con cóc, con nhái, con
rắn, con chuột ở ngoài ruộng, ngoài bìa
rừng trong những lúc đi lao động, chỉ có
những con vật nào không nhúc nhích hoặc nằm
ngửa mới thoát khỏi cái mồm của tôi... Tóm
lại, với “mưu sinh” thêm, tôi đã cầm
cự được với cái đói trong nhiều năm
nay (,,,).
Và
vật lộn với anh hùng mạt vận thì chả
nhẽ…bụt không thèm ăn mày ma: (,,,)
Hai thằng cạnh tôi nói với nhau: “Mày ăn
hết đi” – “No thấy mẹ rồi” - “Hay là
đổ đi”. Tôi nghiến chặt răng,
nuốt liên tục mà sao nước dãi cứ ứa
ra, đầy mồm rồi trào ra mép. Nước
mắt tôi cũng ứa ra, không hiểu tại sao. Tôi
thua cuộc rồi. Tôi lẩm nhẩm trong đầu:
“Mời tao đi, mời tao một tiếng, một
tiếng thôi”. Nhưng chẳng có tiếng nào.
Cuối cùng hai thằng đem đổ. Đầu tôi
như vỡ tung ra. Tôi hét to lên một tiếng, tôi
không biết mình là ai, tôi không còn biết mình đã
làm những gì nữa. Cho đến tận bây
giờ, mọi người có mặt trong lán, kể
cả hai thằng bên cạnh tôi vẫn không biết
lý do tại sao lại bị một trận đòn thù
đến nỗi phải đi nằm trạm xá. Và
tôi, bị cùm để được ăn một cái
Tết trong xà lim (,,,).
Vào đến Thanh Hoá, đoàn xe chạy qua
quận Như Xuân tới Nông Cống. Lên đồi
xuống dốc một thôi một hồi theo con
đường đất mới ủi…ủi
thẳng vào rừng. Được đổ
xuống khoảnh rừng chằng chịt cây cối
xanh lè. Nghe tiếng nước chảy xiết, đám
tù lè lưỡi dọ chừng đang ở tuốt
luốt thượng nguồn sông Mực. Mệt nhoài
nhưng cũng phải phát quang, dọn dẹp để
có màn…màn trời chiếu đất như ở
Đô Lương ngủ qua đêm. Vì ở đây lâu
dài nên hôm sau phải làm nhà, nhờ vậy gã mới
học được ống nứa đập
giập, xẻ dọc, cột sợi nứa thành
tấm tranh, rồi chồng lên nhau một gang tay để
làm mái. Một buổi về trại vác bó nứa trên
vai, nhác dòm thấy sợi dây leo dưới đất
ngỡ…con rắn. Thế là vấp ngã, nứa
một nơi, rựa một nẻo, còn người
nằm một đống. Gã lại có dịp
được nhìn trời xanh mây trắng nắng vàng
với…mảnh nứa cắm vào mắt. Như
thẻ nhang cắm vào bát nhang, chỉ thiếu con gà
khoả thân nấp sau nải chuối. Và gã lại
thấy…đói.
Như bộc bạch với văn chương
thiên cổ sự ở trên, thoạt đầu tôi
muốn đi tìm thời gian đã mất như Marcel
Proust. Mặc dù đi tìm thời gian đã mất, nhưng
ông nhà văn chỉ tìm kiếm hình ảnh qua cái làng
của riêng ông: làng Combray. Thế nên ngược
lại, lúc này đây tôi muốn đi tìm khoảng
không gian còn đó, có đó. Vì một ngày nào đấy,
chỉ ngẫu nhiên thôi, thảng như ghé qua bất
cứ địa danh nào mà nó đã đi qua. Với
ngẫu hứng, tôi sẽ tìm một cái quán để
ngồi. Ngồi ở quán có thể tôi đi tìm
thằng gãy súng qua… (,,,)
Một chiều cuối Ðông. Nắng quái hắt
những vệt lăn tăn loang loáng từ mặt phá
Tam Giang lên tấm bạt nhà binh, mái che của một
quán nhậu dã chiến, ven làng, gần chỗ
dừng quân. Trong “quán”, bàn là những thùng gỗ
đạn pháo binh, nằm chỏng chơ, ghế là
những thùng đạn. Có hai “bàn” còn khách,
cạnh nhau. Một bàn hai người. Một người
ư ử hát đấng trượng phu không hay xé
gan bẻ cật…phù cương thường…hà
tất... (,,,)
Mà hà tất phải Hồ trường, vì cũng có thể tôi đi
tìm bóng dáng thằng gãy súng qua cụ Phan Huy Ích
với dấu binh lửa nước
non như cũ, kẻ hành nhân qua đó trạnh lòng.
Hoặc giả như đi tìm thằng gãy súng qua
cụ Nguyễn Công Trứ đã dẫn thủy
nhập điền ở Kim Sơn, Tiền Hải.
Vậy mà có một thời cụ bị đi đày
làm lính thú ngay tại vùng đất Nông Cống này
và cụ cũng đã chém
tre, đẵn gỗ trên ngàn, hữu thân hữu
khổ, phàn nàn cùng ai. Nhưng ấy là chuyện
người trăm năm cũ, chuyện bây giờ
với thực tại, với vùng đất chỉ
toàn đá với đá Thanh Hoá của nhà thơ
Hữu Loan. Chạy trời không khỏi nắng, ông
đang đẩy chiếc xe cải tiến lên núi
xuống núi, tay cầm cái cuốc chim và cũng đang
còng lưng đục đá như gã với
áo anh đứt chỉ đường tà, vợ anh
chưa có mẹ già chưa khâu.
Với cái
cuốc chim, gã bổ đá lớn, đá nhỏ
từ lòng đáy hồ. Với xẻng, xà beng
nạy xới từng rổ, từng thúng đá
chuyển lên bờ cho lòng hồ sâu hơn để
lập…nhà máy thủy điện. Tiếp đến
lên rừng đốn cây làm đập, cây lim to
bằng hai ba người ôm, vừa cứng vừa
nặng nên phải dùng cưa “cá mập”, chỉ cưa
mỗi khúc 2 mét, vậy mà phải cần 8 người
khiêng. Gã cân đo đong đếm đập nước
nhà máy thủy điện bằng bê tông cốt
sắt lắm khi còn bị vỡ, huống chi mấy
khúc cây. Đừng nói đến đập điếc,
ngay như cái xẻng, cái xà beng chỉ nạy xới
ba bốn nhát là gãy. Vì vậy toán thợ rèn trại
tù làm việc ngày đêm làm dụng cụ từ
những tấm vỉ sắt lót phi đạo
từ…Khe Sanh. Y như rằng, sau cơn bão kéo dài
cả tuần, nước ập xuống, đập
bị vỡ, môt số bị cây đè, một
số bị bị nước cuốn, tù binh chết
khoảng hai chục người. Trong đó có anh
Lực bạn lính của gã, một trong những người
đã ở lại sông Mực trong chuyến ra Bắc
năm 1977-1978.
Một ngày chủ nhật không lao động nên
không được ăn sáng. Đói quá, gã rủ
anh tù lần theo tiếng gà gáy, leo qua hai ngọn đồi
thấp, quên cả nguy hiểm có thể xảy ra.
Thấy một ngôi làng nhỏ, lần theo con dốc
xuống làng. Vào căn nhà đầu tiên gặp
một anh bị cụt một chân đang…nhẩy lò
cò. Làm một đường thăm hỏi mới
hay anh đi B, phế binh cấp 1, chỉ mất
một chân, chưa mất…cái đầu, ấy
vậy mà thuộc diện…phế phẩm. Gã hỏi
có gì để lót dạ. Anh đáp có cơm
nguội muối vừng cứ sơi…”thoả mái”.
Anh bảo gã ăn nói chỉn chu lắm, chả
“thiếu văn hóa” như đằng ấy ngoài này.
Đợi no căng rồi, anh pha trà.
Nom dòm
thấy thằng mũ sắt là gã ngồi với ông
nón cối không hề quen biết đây. Tôi
được thể lụi đụi với
thằng gãy súng từ giấc mơ ngày
hoà bình đầu tiên, tưởng tượng theo
anh bộ đội về Hà Nội thăm những cây
cơm nguội, những hàng sấu, ngắm nhìn
hồ Hoàn Kiếm.
Từ
Tràng Tiền, Huế, tôi lại đi tìm một
dấu tích nón
xanh, mũ cối bên
Hồ Gươm, Hà Nội qua ông
bộ đội nhà
văn Bảo Ninh với bài viết Nhớ
Cao Xuân Huy… (,,,)
Đã chiều muộn. Tiệm
đông dần lên và bắt đầu nhạc
nhọt. Huy nói bữa nay mình kiếm chỗ nào. Mà
hay nhất là chỗ còn lưu dấu Hà Nội 54.
Biết một chỗ như vậy, tôi chạy xe máy
chở anh tà tà vòng quanh Bờ Hồ. Rồi dừng
ở nhà Thuỷ Tạ vì ở đấy có quầy
rượu. Huy nói tửu lực xuống nên bấy lâu
chỉ bia, song bữa nay, giữa Hà Nội, bên hồ
Gươm, thì đúng là phải thứ gì nặng ký,
để tụi mình, thuở nào nón xanh mũ cối
giờ đây đầu bạc thù tạc coi sao. Chúng
tôi gọi một chai và ra ngồi ở bàn kê bên lan
can kề mép nước. Thật may, Thuỷ Tạ
tối ấy thưa khách, như là chỉ có hai chúng
tôi với mặt hồ. (,,,)
No căng rốn rồi, nhòm cái chân, khi không gã
rọ cái mồm vào là anh có…“hận thù” gì không?
Anh lắc đầu và vào chuyện một tối anh
và hai đồng đội ngồi uống trà trên
dốc Trường Sơn như hôm nay. Bỗng
một anh bốc đồng chửi đổng te tái:
“Thằng ở ngoài Bắc cứ ở ngoài Bắc,
thằng ở trong Nam cứ ở trong Nam, thằng nào
làm việc nấy. Tiên sư chúng nó chứ! Chứ
chúng nó nghe xúi dại để tụi ông choảng
nhau. Chỉ khổ cái thân ông vì bây giờ con sề
đang năm chổng bốn vó ở nhà đợi
ông về quại hai ba quả là ít”. Gã băm
bổ là anh bạn về…bổ được
mấy quả? Anh ngần ngừ: “B52”. Gã vội
xin lỗi thì anh…ngập ngừng. Nhìn ra ngoài đồi
núi với cây rừng, trong gã lây lắt hình ảnh
người bạn tù tên Lực qua câu nói thằng
ở ngoài Bắc cứ ở ngoài Bắc, thằng
ở trong Nam cứ ở trong Nam thì…thì anh ngập
ngừng: “Các anh sắp được về
rồi”.
Ngày ấy cũng đến, đoàn xe thiếu
một chiếc lăn bánh, người đang làm rãy
bên đường ngẩng lên với khuôn mặt
hiền hoà. Trong đó có anh thương binh đứng
bất động như pho tượng gỗ. Gã nghĩ
không ra sao anh có thể…nhẩy lò cò qua hai ngọn
đồi.
Nghe gã được về là…hết
chuyện. Cũng hết chuyện thật. Tôi cũng
chẳng muốn gặp thằng gãy súng nữa vì
vừa nhận được thư nó gửi cho anh
bạn tên Hùng ở trên: (,,,)
Hùng thân. Khi Trung Cộng sửa soạn tân công các
tỉnh phía Bắc. Đoàn 76 tụi tao được
trả về Ái Tử. Gửi lời thăm mày và
gia đình…Thân (,,,)
Thôi thì mọi sự cũng xong, vì cuộc
chiến đã qua gần 40 năm. Lây lất theo nhà văn
Việt ở Úc: “Có thể nói những ai đã
từng trực tiếp tham dự vào chiến tranh
sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc chiến
tranh ấy. Những người lính từng “giã
từ vũ khí” vẫn tiếp tục sống trong tâm
thế lính tráng cho đến tận bây giờ. Người
ta tiếp tục đánh nhau trong ký ức. Ðiều này
phần nào giải thích tại sao người ta
cứ viết về chiến tranh mãi. Kẻ thắng
viết, đã đành; kẻ thua cũng viết,
thậm chí, còn viết nhiều và viết hăng hơn
những kẻ chiến thắng nữa. Tại sao
thế nhỉ?”. Với tôi chả có câu: Tại
sao thế nhỉ?. Vì những
máu lệ ngục tù, những tủi hờn vong
quốc đều đã có người viết
hết cả rồi. Nhưng nếu không viết, tay
chân ngứa ngáy khó chịu sao ấy như bệnh
giời bò, vậy đấy, thế đó.
Thế mà gã…đi đâu có chết chóc đến
đấy, mà gã vẫn sống nhăn răng cạp
đất. Vì vậy tôi trở lại khúc đầu
hỏi thêm ngày gã bị AK dí gã có “rét” thật không
cho chắc ăn. Hỏi cho có vậy thôi, ý đồ
tôi là qua một mảnh đời chiến địa
của gã, đánh đấm câu giờ như Lã
Vọng…câu cá! Ngoài ra đánh nhau như đùa
với rượu
Kim Long
mang theo. Như người thơ Nguyễn Bắc Sơn
đi
hành quân rượu đế vẫn mang theo,
mang
trong đầu những ý nghĩ trong veo,
xem
cuộc chiến như tai trời ách nước,
ta
bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước.
Tôi bèn trộm nghĩ đúng là bị giời đày,
vì chuyện kể của gã có ly
kỳ
và
rắc rối thật nhưng…không thật vì
chả thấy máu
me gì sất cả.
Gã cười bơ là rét thì không, nhưng
lạnh cẳng thì có. Nhưng gã chấp nhận
số ruồi với…đến đâu thì đến.
Vì ngay sau đấy tụi nón cối đưa gã…đến
ven rừng.
Trời
về chiều, đám tù binh đang ngồi xổm bên
con đường mòn chuyện trò. Bỗng có
thằng bộ đội dắt ba sĩ quan Thủy
quân lục chiến bị trói bằng dây thừng
đi ngang qua. Từ dưới lùm cây, gã ngước
nhìn người đi sau cùng vì vóc dáng kềnh càng
như con gấu. Khi không thằng bộ đội dòm
gã chằm bằm. Gã vội lấy dây ba chạc che cái
lon ở ngực áo. Nhưng với mắt cú vọ,
thằng răng hô mồm cá ngão cũng nhìn ra, và
bắt gã đứng dậy. Lúc này nom nhòm rõ hơn,
mỗi người bị trói cách nhau cả thước,
ắt hẳn là để khoảng trống cho dễ
đi. Sau đấy, nó trói gã với anh thủy quân
lục chiến sau cùng.
Thằng tôi theo chân Đoàn 76 tù binh từ
Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An,
Thanh Hoá để đi tìm thằng gãy súng. Cuối cùng
tôi gặp cả hai ở ven đường… (,,,)
Chúng tôi nghe một tiếng súng nổ ở phía phá
Tam Giang. Khi mọi người đã qua phá xong, chúng tôi
bị dẫn đi dọc theo con đường đất
quanh co hướng về phía quốc lộ 1. Lúc nãy,
ở bờ phía bên kia phá, chúng tôi được
nếm mùi cướp bóc, thổ phỉ, và bây
giờ trên con đường đất hai bên là
ruộng, là lùm cây, là bụi cỏ. (,,,)
Trong khi hai người bị trói lại với
nhau, anh quay lại nhìn gã với đôi mắt nửa
lặng lẽ, nửa hững hờ. Bởi đứng
sau không thấy cấp bậc, nhưng nhờ anh để
râu quai nón...gã nhận ra anh là đại úy Tiểu
đoàn 2, vì gã cũng Tiểu đoàn 2. Nhưng gã không
quen anh, vì khi cần được cứu viện hay
yểm trợ, tiểu đoàn anh nhập trận
đánh ào ào là rút ngay. Trói xong, thằng bộ đội
dắt một chuỗi bốn người đi vào
rừng. Đang len lỏi qua rặng cây một
hồi lâu, ở khúc quanh con đường mòn có
một hòn đá tảng. Đột nhiên nó quay
lại, gã nghĩ mọi người sẽ được
ngồi nghỉ trên hòn đá kia vì đã mót chân quá
rồi. Thì…
Như có linh tính để tôi chột dạ. Vì
chẳng lẽ như… (,,,)
Chúng tôi được thưởng thức món
giết người. Ðoàn tù chúng tôi đi thất
thểu trên đường, đoành một tiếng,
một xác người ngã xuống bờ ruộng,
đoành một tiếng, một xác người
nữa ngã xuống bờ ruộng. Một người
đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu,
máu và óc văng dính cả vào người tôi. Trò
bắn giết rất kỳ cục và khó hiểu.
Những người bị bắn chết và những
người không bị bắn-hay chưa bị
bắn-đều không hiểu tại sao bọn
Việt Cộng lại bắn người này mà không
bắn người kia. Tại sao thằng Việt
Cộng này không bắn người này mà bắn người
nọ? Chúng tôi rất hoang mang nhưng lúc này không ai
có phản ứng gì, mọi người vẫn
cứ lầm lũi, thất thểu đi. Ðói, khát,
mệt mỏi và luộm thuộm lếch thếch, chúng
tôi đi, hoang mang không hiểu bao giờ đến lượt
mình bị bắn. Số
người bị bắn mỗi lúc dĩ nhiên
mỗi nhiều hơn. Tất cả lon lá đã
được gỡ ra từ sáng, khi chúng tôi mới
nhận được quần áo mang từ bờ
biển vào. Râu ria trên mặt biểu hiệu cho
chức cấp hiểu theo nghĩa Việt Cộng cũng
không phải, vì nhiều người để râu,
trong đó có cả tôi, không hay chưa bị bắn,
nhiều người râu ria nhẵn nhụi đã
bị bắn.
Thì…gã choáng người vì thấy tay phải nó
cầm lăm lăm cái lưỡi lê từ hồi nào.
Rất nhanh và thành thạo, tay trái nó nắm tóc kéo
xuống. Rất quen thuộc với nhanh và gọn...
Thằng bộ đội bậm miệng, lụi vào
bụng hai, ba nhát lưỡi lê. Người này
vừa xong, nó bước tới người kế
tiếp. Chỉ trong mươi giây. Vẫn động
tác gọn gàng, tay nắm tóc ghì xuống, tay đâm vào
bụng hai, ba nhát và không hơn. Cả hai gào thét, la
hét vang vọng cả một góc rừng rồi
xụm xuống...Trong cái êm ả của rừng
rậm, gã nghe tiếng xào xạc của lá cây
lẫn tiếng rên rỉ lúc dai dẳng, lúc tắc
nghẹn.
Cũng chỉ trong bốn, năm cái chớp
mắt đến lượt…anh đại úy
thủy quân lục chiến. Làm như theo quán tính,
anh co chân lên. Gã không hiểu anh định đạp
thằng bộ đội hay định chạy nhưng
không còn kịp nữa rồi. Thôi rồi! Cũng
với,…hai,…ba tiếng
“phập”,…“phập”,…Gã chỉ nghe một
tiếng…”hự” hoà lẫn cùng những âm ỉ
của hai người trước rồi tắt
lịm. Vì vậy gã nghe rõ mồn một
tiếng…“cóc” khi cả thân hình anh lảo đảo
và đổ xuống, đầu anh đập vào
tảng đá. Một tiếng…“cóc” thật khô.
Chỉ
một tiếng…“cóc” khô khan, nghe rất nhỏ như
đập vào đầu gã.
Thằng bộ đội bước
tới…gã.
Nhưng
lần này có hơi lâu vì người anh vắt qua
lối đi nên nó bị vướng chân, nó đạp
lên người anh và nhẩy bổ vào gã. Khi anh
vật xuống, sợi dây thừng nối giữa hai
người kéo gã chúi theo. Theo phản ứng tự
nhiên, gã khom người như con tôm, chùn lại, hai
chân bám vào mặt đất để khỏi bị
chúi thêm nữa. Vì đầu gã cúi xuống, nó không
nắm tóc được. Bởi gã khom người,
hai tay khum khum ghì sợi dây thừng để không
bị ngã nên cái đầu che một phần cái
bụng. Vì vậy nó đâm ngược lên…mặt
gã. Theo phản xạ, gã định…nhắm mắt.
Chưa kịp nhắm mắt, thi…thì…nhìn thấy bàn
tay ai đấy giữ chặt cổ tay nó. Gã nghe
tiếng gằn giọng như quát: “Đồng chí
làm gì vậy!”
Bên này bìa rừng, bên kia là phá Tam giang, tận cùng
thì cả hai cũng đã gặp nhau đằng
cuối con đường có những lùm cây, bụi
cỏ trong một ngày nhạt nắng… (,,,)
Người mặc áo có gắn phù hiệu của
tiểu đoàn 5 không bị thằng Việt Cộng
này bắn nhưng bị thằng Việt Cộng khác
bắn. Người mặc áo có gắn phù hiệu
tiểu đoàn 3 bị bắn bởi thằng
Việt Cộng không bắn người mặc áo
của tiểu đoàn 4. Chúng tôi lột hết
bảng tên và phù hiệu tiểu đoàn. Cuộc
bắn giết thưa dần rồi chấm dứt.
(,,,)
Để rồi chấm dứt như trong Vài
mẩu chuyện mà thằng gãy súng đã buông bút.
Vì:
Chiến tranh đã hết rồi mà.
Thạch
trúc gia trang Tháng
11 Giáp Ngọ 2014 Ngộ
Không Phí Ngọc Hùng
Nguồn:
Nguyễn
Thanh Hùng, Bồ Tùng Ma, Nhật
Tuấn, và Nguyễn Hưng Quốc. Với
chuyện “Đoàn 76 tù binh” nạo kinh vét hồ năm
1977-78 và cũng là chuyến
ra Bắc duy nhất được góp nhặt từ
một chuyện kể và ba bút ký: 1
- Chuyện kể từ Hoàng Chính Nghĩa (Bộ Binh) 2
- “Lòng hồ sông Mực” của Giang Văn Nhân
(Thủy Quân Lục Chiến) 3
- “Những lá thư đi”
của Hoa Biển
(Thủy Quân Lục Chiến) 4
- “Những mảnh đời dang dở”, Nguyễn
Ngọc Minh (Thủy Quân Lục Chiến) Nguyễn
Ngọc Minh sinh năm 1951 tại Sài Gòn, học trung
học Nguyễn Trãi. Gia
nhâp quân đội năm 1972, trấn đóng
tuyến đầu Quảng Trị, chiến đấu
đến
giờ phút cuối cùng tại bãi biển Thuận An,
Đà Nẵng cuối tháng 3/75. Tù
binh từ Quảng Trị ra Bắc và vào Nam cải
tạo tiếp tổng cộng sáu năm. Xin
ghi lòng tác dạ anh Obien81 (Thủy Quân Lục
Chiến) để có bài bút ký này.
Cao
Xuân Huy mất ngày 12.11.2010 tại California |