ĐỌC TÁC PHẨM BLOOD FEUD CỦA
EDWARD KLEIN người lính già oregon |
I.
TÁC PHẨM, TÁC GIẢ, TỰA ĐỀ, LỜI VĂN,
MỤC ĐÍCH
•
Sách xuất bản năm 2014, bởi Regnery Publishing,
WashingtonDC, giá bán $27.99, on sale tại Costco là
$15.99. Có tiểu đề là The Clintons vs. The Obamas.Dày
302 trang, gồm cả Index (Mục lục), không kể
16 trang h́nh ảnh, tổng cộng 4 phần và 33 chương..Edward
Klein cũng là tác giả của The Truth about Hillary
(2005) và của #1 New York Times bestseller The Amateur,
2012, cùng một nhà xuất bản (trong quyển này,
Klein lấy chữ của Bill Clinton làm tựa đề,
chê Obama là “tổng thống tài tử”, nghĩa là
tay mơ, gà chết) (cf The Amateur, p. 12; Blood Feud,
p. 112-113).
•
Tựa đề “Blood Feud” khó dịch đầy
đủ ra tiếng Việt hay tiếng Pháp. Quả
vậy, “feud” có nghĩa “cừu địch
giữa hai gia đ́nh”, tỷ như, trong lịch
sử Ư quốc thời Trung Cổ và vở bi
kịch Romeo and Juliet (1597) của Shakespeare, hai ḍng
họ Capulet (Juliet) và Montague (Romeo) coi nhau như kẻ
thù không đội trời chung, hoặc cận đại
hơn, trong game show nổi tiếng “Family Feud”
của Mỹ. Chữ “blood”, không dính líu ǵ đến
“máu” nghĩa đen, tác giả dùng như một
ẩn dụ để chỉ mối hận thù đă
lên đến cực điểm, thù và trả thù cha
truyền con nối. V́ vậy, người Pháp
dịch là “vendetta” (bởi chữ Latin “vindicta”,
trả thù), chẳng hạn trong Colomba (1840),
kể một chuyện trả thù tại đảo
Corse, của nhà văn Prosper Mérimée. Tiếng Việt có
thể dịch là “mối gia thù truyền kiếp”,
hoặc “Huyết Hận” (?). Hai lần trong sách,
Hillary đă dùng chữ “bad blood” (Prologue, xi, xv), xa
gần có nghĩa tương tự.
Dù phải hiểu theo nghĩa bóng, tiện nhân có
một chút thắc mắc, không biết tác giả
Klein, qua nội dung của tác phẩm, có thậm xưng
lắm không khi đặt tựa đề này cho
mối thù, đúng hơn là bất ḥa, nặng
nề nhưng rất khéo che đậy, giữa hai clans
–hiểu theo nghĩa phe hơn là bộ
tộc– Clinton và Obama?
• Tác giả Edward Klein có lối viết rất hay, câu
văn đơn giản, dễ hiểu. Viết
về một đề tài có tính cách thời sự,
tài liệu, kể toàn những sự kiện, mà
đọc rất hấp dẫn, có thứ tự,
lớp lang, như một tiểu thuyết. Ít,
hoặc không, dùng tiếng lóng (slang), khác với
những nhà báo, nhà văn khác, ví dụ Maureen Dowd
của New York Times. Đặc biệt, mặc dù
trong thâm tâm chê bai các “nhân vật” thật đấy,
nhưng qua suốt tác phẩm tác giả không biểu
lộ t́nh cảm và thái độ của ḿnh
bằng một ḍng, một chữ nào (ví dụ chương
31, “The thinnest of red lines”, trong đó Klein phê b́nh
thẳng thừng những lỗi lầm của Obama, mà
giọng điệu vẫn lịch sự, tỉnh bơ
như không).
Thêm nữa, những t́nh tiết được
kể trong sách không có tính cách “ngồi lê đôi mách”,
như trên các tờ tabloids (lá cải) hoặc
tạp chí Vogue, Vanity hay People… bày bán đầy
ở các siêu thị Mỹ, mặc dù cũng có vài
chi tiết vụn vặt, tầm phào, loại thâm cung
bí sử, chẳng hạn vợ chồng Clinton không
ngủ chung giường, không chăn gối với
nhau suốt 20 năm, mặc dù cậu c̣n sung sức,
đôi khi đến gơ cửa pḥng mợ, nhưng
mợ từ chối và cậu không ép (p.233), chẳng
hạn Bill tay bị run, nhưng không phải do
bệnh Parkinson. Chẳng hạn, cũng như vợ
chồng Clinton, cặp Obama ngủ riêng (p.257), Obama ngáy,
ăn và hút thuốc trong giường. Chẳng
hạn John Kerry, những ngày gần đây, chạy
quanh vùng Trung Đông như gà mắc đẻ, không
chỉ v́ nhiệm vụ mà c̣n v́ ước mong,
biết đâu, vớ được cái giải Nobel
Ḥa B́nh trên trời rớt xuống như xếp Obama
(p.250) v.v…
•
Tiện nhân nghĩ tác giả sẽ không viết
quyển sách này, và NLGO, dĩ nhiên, sẽ không tường
tŕnh cùng quư vị về nó, nếu hai nhân vật chính,
Barack Obama (đương kim tổng thống) và Hillary
Clinton (c̣n tệ hại hơn, nếu một mai
trở thành tổng thống) không là, trong hiện
tại và tương lai, những mối nguy hiểm,
nếu không muốn nói tai họa, cho nước
Mỹ và cả thế giới, và tại sao.
NLGO không trích dịch hết những chi tiết đầy
dẫy trong sách của Klein, v́ sẽ quá dài, mà
chỉ xin tóm lược nội dung của sách
(vỏn vẹn 15 trang, xin quư vị ráng đọc)
dựa trên dàn bài riêng và với ngôn ngữ b́nh dân
học vụ cố hữu: II.
NỘI DUNG 1.
Tham vọng ngút trời của cặp Bill-Hillary
Clinton a)
Miệng thi cứ em chă, em chă, chưa có ư định
ra tranh cử 2016, nhưng Hillary để lộ tham
vọng trở thành tổng thống, bằng cách này
cách nọ, trong những buổi trà dư tửu
hậu với đám bạn học Wellesley cũ. Ví
dụ, một lúc nào đó, khi phân vân không biết
mợ đúng hay sai khi tham gia nội các Obama, mợ nói,
như từ đáy tiềm thức, hoặc lỡ
mồm: “History will be the judge of that. Long after I’m gone,
historians […] will debate it at my presidential
library” (NLGO nhấn mạnh) (P.xii).
Chưa hết. Mợ c̣n tuyên bố với đám
bạn gái rằng, hăy cứ chờ đi, tụi
tớ sẽ tái chiếm Ṭa Bạch Ốc cho mà xem: “We
were the leaders of peace and prosperity for eight years when we were in
the White House,” she said. […] I’ll run for president on
that record, not Obama’s record. And we’ll win back the White House
[…]” (P.xviii). Hoặc: “If I become president,
I’d love Tony and Huma [cặp vợ chồng mang tai
tiếng, bạn thân của Hillary] to be part of my
administration.” (p.237). b)
C̣n Bill th́ khỏi nói. Bất cứ giá nào, đối
với Bill, Hillary phải trở thành tổng
thống, năm 2016, lúc mợ mới có 69 cái xuân
xanh. Vuột kỳ này th́ coi như mộng vỡ tan tành,
v́ chờ bốn năm kế tiếp, cả hai đều
trên bảy bó, đâu c̣n hấp dẫn và c̣n hơi
sức đâu nữa cho việc tranh cử. Bill bày
tỏ lo âu với Hillary: “I’m worried how my health will
affect your campaign” (p.276), nhưng đồng thời
thổ lộ với một người bạn
rằng “anh chưa chết đâu em” và “I’m not
going anywhere until we get back in the White House” (p.272). Tuy
vậy, một hôm, cậu độc thoại, một
cách rất “bệnh”, như một lời trăng
trối, rằng nếu lỡ cậu có mệnh
hệ nào, mợ phải tổ chức lễ quốc
táng cho cậu thật “hoành tráng” và chôn cất
cậu tại Arlington (v́ cậu là cựu Tổng tư
lệnh quân đội suốt tám năm): “Obviously,
you have to have a big state funeral for me, with as much pomp and
circumstance as possible” (p.277), yêu cầu mợ mặc
đồ đen tuyền, cho sang: “The images on
television of the funeral and the grieving widow in black will be
priceless” (p.277), và như vậy mợ sẽ
hốt thêm ít nhất vài triệu phiếu (“It should
be worth a couple of million votes”).
Thậm chí, năm 2012, sau khi mở những cuộc thăm
ḍ dư luận bí mật cho thấy Hillary thắng
Obama (Blood Feud, p.30, 63) –điều mà Klein đă
nói đến trong quyển The Amateur (p.7), Bill
hối thúc vợ đứng lên “thách đố”
(challenge) đương kim xếp Obama, nhưng mợ
c̣n ngần ngại, không dám từ chức Bộ trưởng
ngoại giao béo bở [cho cái résumé của ḿnh],
theo lời đề nghị của cậu (p.61, 63) v́
sợ bị mang tiếng gây chia rẽ trong nội
bộ đảng (Dân Chủ), như đă xảy ra
cách đây 30 năm giữa Ted Kennedy và Jimmy Carter (p.61,
268).
Năm 2009, khi Hillary bị ngất xỉu, phải
đưa vào pḥng cấp cứu, và bác sĩ khám phá
ra nhiều vấn đề trầm trọng khác, trong
đó có bệnh tim, Bill rất thất vọng và lo
lắng cho tương lai chính trị của mợ, và
dĩ nhiên của cậu (p.194-196). Cho nên cả nhà
cậu, gồm cả Chelsea theo chỉ thị của
bố, đều tuyên bố những lời dối
trá về t́nh trạng sức khỏe của mợ
(p.196).
Một điều khác, mợ tâm sự với các
bạn học, mợ sợ nếu mợ thắng
cử Bill sẽ là tổng thống và mợ lại là
đệ nhất phu nhân: “He says he’ll be my advisor
and loving husband but I’m afraid that if I’m elected, he’ll think he’s
president again and I’m first lady”. (P.xvii). Và
nếu cậu làm vậy, mợ tiếp, mợ sẽ
“đá đít” (nguyên văn) cậu ra khỏi Nhà
Trắng, “If he starts that shit, I’ll have his ass
thrown out of the White House” (xvii). Ghê chưa!
Có hai điều tiện nhân muốn rút ra từ câu
nói này của mợ: •
Đúng là thái độ của một kẻ “chưa
đỗ ông nghè đă đe hàng tổng”. Đó không
phải tham vọng là ǵ? •
Hillary, mà Valerie Jarrett và Michelle Obama gọi là Hildebeest
(p.259, một loại gnu, sơn dương Phi Châu
có sừng cong), một nữ chính khách, nhưng ăn
nói rất thô lỗ, không thua một nữ sinh trung
học: shit, ass, fuck, fucking… Không chỉ
một lần. Ở vài đoạn khác trong sách, người
ta nghe mợ chửi Bill: “Fuck you. Nobody orders me
around” (p.156), “Fuck you. Get your own face lift”
(p.230), “What the hell are you talking about?” (p.276).
Chửi Obama (P.xv): “No hand on the fucking tiller…”(cf
p.247), “And you can’t trust the motherfucker”, “His word
isn’t worth shit”, “Shame on you, Barack Obama”
(p.201). Ấy là chưa kể việc mợ hay
trợn mắt và tiếng cười lanh lảnh
(“signature laughter”, P.xvi) làm khó chịu của mợ.
Ngoài ra, mợ c̣n có tính nóng nảy, nổi tiếng
là một “irascible woman who found it almost impossible
to contain her feelings of resentment and anger”(P.xii). Bill và
Hillary thường xuyên căi vă nhau, dẫn đến
“physical fights” (p.187), nhưng tác giả không nói rơ có
đánh nhau không, trừ vụ xảy ra, một
lần, mợ giận dữ, đập vỡ cái
đèn tại Nhà Trắng (p.200). Nhân
đây, tiện nhân cũng xin mở ngoặc, ghi
lại một bài báo Pháp (cf Yahoo France ngày 23/7), đă
trích dịch vài đoạn (được đăng
trên tờ New York Post) từ quyển sách The
First Family Detail của Ronald Kessler (sẽ bày bán vào
ngày 5 tháng 8 tới), về Bill và Hillary Clinton. Trong
đó, những cận vệ đă kể những
chuyện tối mật về cặp này. Chẳng
hạn: Chờ khi Hillary vắng nhà, là Bill “ngu
hỏi ngủ” với một em tóc vàng sợi
nhỏ bí mật, nhưng dễ thương, thường
hối lộ họ bằng bánh cookies, mà họ
đặt nickname là Energiser, v́ mỗi lần xong
việc, cậu thấy khỏe hẳn, hồ hởi
phấn khởi trông thấy. Khi mợ trên đường
về nhà, cận vệ của mợ thông báo cho
cận vệ của cậu, để em chuồn
đi kịp thời. Có lần lệnh báo động
đến trễ quá, cận vệ của cậu
phải dẫn em chui cửa hậu. Về Hillary, các
cận vệ của mợ than phiền rằng mợ
có thái độ “rất ác độc đối
với cận vệ và thù hằn đối với
cảnh sát và sĩ quan quân đội nói chung đến
nỗi những nhân viên bị chỉ định làm
việc cho Hillary cho đó là một h́nh thức
trừng phạt” (La femme politique serait très méchante
avec ses gardes du corps et si hostile avec les policiers et les officiers
militaires en général que les agents considèrent qu’être assigné à
son service est une forme de punition). Về điều này,
bài báo Pháp luận tiếp: “H́nh ảnh này cách xa hàng
năm ánh sáng với h́nh ảnh mà Hillary Clinton phô bày
trước công chúng, trong những bài diễn văn
chính trị” (L’image présentée ici est donc à des années
de lumière de celle qu’Hillary Clinton montre en public, lors de ses
discours politiques).
Xin đóng ngoặc.Thực thế, không ai biết rơ
chồng bằng vợ, và ngược lại. Bill
sẽ không ngồi yên, thủ phận làm cố
vấn suông hoặc chồng ngoan của tổng
thống Hillary đâu. Slick Willie (một trong những nicknames
của Bill), trái lại, có tham vọng cậu
được làm tổng thống nhiệm kỳ 3,
qua tay Hillary (và Chelsea, người thừa kế di
sản chỉ định của cậu, người
mà theo cậu sẽ là một tổng thống c̣n hay
hơn cả mẹ, trong một cuộc phỏng
vấn ở một nơi khác, không có trong sách
của Klein. Về Chelsea, cf. Klein, p.274). Cậu lăng
xăng hoạt động: tu bổ thư viện
tổng thống trị giá $165 triệu (p.179) của ḿnh
tại Little Rock, sửa sang các văn pḥng Clinton
Foundation cho thật lộng lẫy (p.87), đi quanh
thế giới để thuyết tŕnh về bệnh
AIDS và những đề tài khác trong tư cách
cựu tổng thống, thăm viếng những người
danh tiếng thế giới (P.xvi), mở Đại
Học Clinton về Public Service ở Arkansas (p.177),
mời những người trong “phe ta” đến
dạy về những đề tài chuyên môn, trong
số có Colin Powell (ngoại giao và quân sự), cựu
phó tổng Al Gore (môi sinh), James Carville (chính trị),
Caroline Kennedy (giáo dục) v.v… (p.184) –tất cả
đều do tiền đóng góp của bá tánh.
Tiếp xúc với những cộng tác viên cũ để
vẽ ra kế hoạch tranh cử cho Hillary. Ngoài ra c̣n
tu sửa dung nhan (p.86), nhờ dao kéo và Botox (p.230),
nhất là mỗi lần xuất hiện, trang điểm
cái chóp mũi cho bớt đỏ (p.124). V́ bệnh
tim, đồng thời muốn thân h́nh bớt bèo nhèo,
cậu ăn uống theo chế độ, cử ăn
fast food mà trước kia cậu rất mê.
Lại c̣n ngồi thiền theo kiểu Phật gíáo
để giảm stress (p.86). Cậu muốn
được mệnh danh là “The World’s Greatest living
Elder Stateman” (p.87).
Mợ cũng đầy tham vọng, và c̣n hơn (xem
lại đoạn P.xviii). Mợ ăn kiêng, tập
thể dục, để giảm cân và eo, cắt tóc
và ăn mặc thời trang, nhờ dao kéo tái tạo
khuôn mặt cho bớt già nua, tẩy các nếp nhăn,
xóa các “bao b́” (bags, P. xiii) dưới mắt, chơi
luôn Botox, như lời cậu khuyên bảo: “Dowdy
and old doesn’t win the White House these days” (p.230-231).
Nhất là giấu tiệt hồ sơ về bệnh
t́nh cũng như những lần mợ phải vào nhà
thương cấp cứu (p.191). Mợ bắt đầu
viết hồi kư qua tay của một nhóm “ghostwriters”
chuyên nghiệp, đi học lớp về nghệ
thuật nói trước công chúng (elocution), v́ khi xúc
động, giọng mợ chát chúa, khó nghe (harsh and
grating), và mợ có khuynh hướng phát âm không rơ
(slur) và nói đớt (lisp) khi mợ không để ư
(p.232). Tất cả, mợ chuẩn bị rất
kỹ cho canh bạc chót.
Khinh, giận, ghét, và chửi Barack đến thế (“best
enemy”, p.93), nhưng cặp Clinton vẫn phải
nhờ, đúng hơn lợi dụng, Obama cho cuộc
tranh cử 2016. Và ngược lại. Thế mới có
chuyện. 2.
Barack và mối thù Clinton
Barack, cũng như Michelle và Valerie, rất ghét và không
bao giờ tha thứ cho Bill và Hillary, nhất là Bill.
Trong vụ tranh cử sơ bộ (primary) của Đảng
giữa Barack và Hillary, năm 2008, Barack kết tội
Bill là racist, cũng như bây giờ anh ta và
bộ hạ kết tội mọi người chê anh
ta về bất cứ điều ǵ đều là racist
tuốt luốt. Ví dụ câu nói này của Bill, do lăo
Ted Kennedy mách lại, về Barack: “A few years ago, this
guy would be getting us coffee”(p.25). Tạm dịch: “Vài
năm trước đây th́ thằng này [Barack]
phải bưng cà-phê cho tụi tớ rồi”.
Quả t́nh, kỳ thị rành rành, oan chỗ nào? Chưa
kể việc Bill chê Barack làm tổng thống mà
chẳng biết cái ǵ cả (amateur).
Ngoài ra, mặc dù hai địch thủ đồng
thuận với nhau về những vấn đề xă
hội như trợ cấp, đồng tính luyến
ái, kiểm soát súng v.v… (p.7), nhưng Barack c̣n bực
ḿnh với Bill về phương cách quản lư kinh
tế: Bill từ thế Cực Tả (Far Left)
chuyển sang thế Trung Tả (Center Left), tức cái
thế triangulation (tam giác?), nghĩa là đi đêm
với Cộng Ḥa và nghỉ chơi với những
anh Dân Chủ truyền thông, quá khích (p.8). Nhất là
về câu nói của cậu trong bài diễn văn trước
Quốc Hội năm nào: “The era of big government is
over” (p.8), trong khi Barack th́ muốn chính phủ
kiểm soát mọi việc và nhân dân lệ thuộc
vào chính quyền (v́ tiền trợ cấp, chẳng
hạn).
Ấy là chưa nói, trên b́nh diện cá tính, cái
tật (hay bệnh?) ưa “lên lớp” (lecture)
dạy đời thiên hạ của Bill (p.8) –điều
làm Barack nhột. Lúc nào cậu cũng khoe cái tôi và
thành tích của hai nhiệm kỳ tổng thống
của ḿnh (p.8).
Người cố vấn “vĩ đại”, người
nhà gần gũi, người bạn thân cận và
trung thành nhất của Barack và Michelle là Valerie Jarrett,
mà tổ tiên cũng là da đen, sanh tại Iran
(p.13-14, 30-31). Barack xem và tin ả ta (cũng như tin
Michelle) như một người mẹ, v́ từ
nhỏ anh ta, bị mẹ bỏ bê, cho nên thiếu t́nh
mẫu tử (p.42). Valerie ít xuất hiện trước
công chúng, và không giữ chức vụ quan trọng chính
thức nào, nhưng có ảnh hưởng và quyền
uy vô biên trên Barack: Anh ta muốn gặp ai, cho ai vào
Bạch Ốc, chọn ai, làm ǵ, nhất nhất cũng
phải qua cái gật đầu của Valerie. Đó cũng
là một hậu quả tai hại cho anh ta v́ bị
Valerie bưng bít hết sự thật và giấu
biến những lời phê b́nh tiêu cực (p.249).
Kể cả khi Barack và Michelle gặp cảnh cơm không
lành canh không ngọt, rất thường xảy ra, cũng
phải chạy đến Valerie (cf Chapter 6, p.41-48 “The
third member in the marriage”). Nhờ vậy, độc
giả mới biết rằng Barack và Michelle không
ngủ chung pḥng (p.257), rằng Barack có tật ăn và
hút thuốc trong giường (p.49), rằng hai đứa
con gái khi thức dậy sớm chạy qua giường
mẹ, không muốn qua giường bố chơi, v́
Barack ngáy và có mùi hôi hám, nguyên văn “snore-y and
stinky” (p.24).
Valerie chống đối và ghét cay ghét đắng
cặp Bill-Hillary (p.51), v́ chưa chịu tha những
lời cậu mợ thóa mạ Barack trong thời
kỳ primary 2008. Đồng minh của Valerie trong
vụ này chính là Michelle, cũng căm giận cặp
Clinton không kém. 3.Mạt
cưa mướp đắng đôi bên một phường
Bill Clinton và Barack Obama chẳng ai tin ai, nhưng có cùng
nhu cầu đến với nhau (p.67). Vào tháng 8, 2011,
trước ngày Đảng Dân Chủ họp Đại
Hội đề cử ứng cử viên, và thấy
kết quả thăm ḍ dư luận không thuận
lợi cho Barack, trưởng Ủy ban Vận động
Tranh cử David Plouffe bèn đề nghị Barack
mời Bill đọc diễn văn ca tụng anh ta
(p.8). Valerie phản đối ư kiến đó trong
những phiên họp tay ba. Ả ta tin tưởng không
cần nhờ Bill mà Barack vẫn thắng (p.7). Và thay
vào, đề nghị nhờ Oprah, ngoan ngoăn hơn Bill
(p 5), mặc dù họ đă lờ bà này trong suốt
nhiệm kỳ 1. David lại nghĩ khác: Bill là khuôn
mặt ăn khách nhất trong Đảng dân chủ,
có thể thu hút hàng triệu cử tri. Trước
quyết tâm của Valerie, David không chịu bỏ
cuộc, cố thuyết phục Barack: được
Bill nhận lên khán đài đọc diễn văn là
điều cần thiết. Phần Barack vẫn chưa
quyết định.
Cuối cùng, một hôm, Barack gọi Bill, mời đi
đánh golf. Bill không thích lắm: “I hate that
man Obama more than any man I’ve ever met, more than any man who
ever lived […] But the important thing to keep in mind that
Obama’s decision to invite me out for a game of golf is a sign of his
weakness […]. How am I going to exploit this advantage?”
(p.54-55). Ngoài việc bị Barack tố cáo là racist,
Bill không tha thứ lời b́nh phẩm của anh ta,
trong mùa tranh cử 2008, trước các đại
biểu Dân Chủ tiểu bang Nevada: “Ronald Reagan
changed the trajectory of America in a way that… Bill Clinton did
not.” (p.55).
Nhưng Bill không thể từ chối dịp may khó
kiếm này. Trong đầu, Bill sắp sẵn hai điều
kiện, nếu Barack mở lời nhờ ủng
hộ cuộc tái tranh cử mà cậu biết rất
gay go của anh ta (p.55): 1) ủng hộ Hillary năm
2016 2) nhường cho cậu, hoặc một
đệ tử do cậu đề nghị cái
chức lănh đạo Đảng Dân Chủ, nghĩa
là, trong trường hợp này, Hillary có thể
được đề cử một cách dễ dàng,
vào năm 2016. Đến nước này th́ Valerie
phải chịu thua, nhưng c̣n vớt vát, dặn ḍ
Barack: “Promise Clinton the moon. You’re the
president. You don’t have to give him anything after you’re elected”
(p.31).
Chính v́ chủ trương “hứa cho (hoặc bán)
mặt trăng” này, nôm na là hứa lèo, mà sau khi
đắc cử lần 1, Barack đă lờ đi ít
nhất là ba người “cực kỳ” quan
trọng đă góp phần vào chiến thắng: Oprah
Winfrey, Ted và Caroline Kennedy. Khiến cả clan con cháu
Kennedy ở HyannisPort đă bực tức, trách móc trưởng
tộc Ted đủ điều. Chuyện ấy, Klein
đă viết kỹ trong The Amateur rồi. Trong
quyển này, tác giả cũng nói lại, nhưng
chỉ về Oprah và Caroline, v́ Ted đă chết.
-Oprah được hứa cho độc quyền thu
thập, khai thác tin tức ở Ṭa Bạch Ốc
để đưa lên Mạng OWN (Oprah Winfrey Network)
của bà (p.5), nhưng cuối cùng bà bị cấm
cửa, không được ai bốc điện
thoại trả lời. Chỉ khi Barack cần Oprah cho
việc tái tranh cử, anh ta mới nhớ đến
bà, và theo lời khuyên của Valerie, vợ chồng
đến thăm Oprah tại ranch của bà
ở Maui (Hawaii). Oprah tiếp đón nồng nhiệt,
nhưng từ chối giúp đỡ (p.261). Joe Biden cũng
ve văn Oprah (p.262). Nhưng dường như bà thích
cặp Clinton hơn (p.261-262).
- C̣n Caroline, từ sau ngày Obama đắc cử, không
bao giờ nhận được một cú điện
thoại nào của Nhà Trắng kể từ 2008,
bởi vậy rất thất vọng về anh ta
(Chapter 28, “Caroline”, p.223-227), nhưng giữ im
lặng, cho đến mới đây tự dưng
được đề cử làm đại sứ
tại Nhật, trong khi không biết một tí ǵ
về nước Nhật và “nghề” đại
sứ. Theo Klein, chẳng phải Barack tốt lành ǵ,
nhưng đó là một cách mà Barack muốn “cách
ly” Caroline với cặp Clinton, v́ ở xa nước
Mỹ, cô không thể dùng ảnh hưởng hoặc
tiền bạc (tài sản có $500 triệu) giúp cho
Hillary (p.225). Cặp Clinton cũng chẳng tốt lành ǵ
hơn, khi cả hai cùng đến o bế Caroline
tại nhà riêng ở New York (p.223).
Trở lại trận golf. Qua lời kể
của các cộng sự viên tháp tùng hai bên, một lúc
nào đó, Bill không muốn phí phạm thời
giờ, mở miệng nhắc Barack về “tám năm
thịnh vượng” dưới quyền của
cậu (p.71) và xin Barack ủng hộ Hillary năm 2016,
v́ hơn ai hết, mợ có đầy đủ kinh
nghiệm: “Hillary and I are gearing up for a run in 2016 […].
Hillary would be the most experienced candidate , perhaps in history.”
(p.71-72). Câu này làm Barack nhăn mặt, nhớ lại
nhăn hiệu “thiếu kinh nghiệm”, amateur,
bị cậu ưu ái gắn lên đầu (p.72). Anh
ta bèn lảng sang chuyện khác, rồi bỗng nói: “You
know, Michelle would make a great presidential candidate too.”
(p.72). Bill sững người, lặng thinh, như
bị trúng gió.
Trong trận golf này, Bill chỉ đạt
được một kết quả duy nhất: xin
Barack can thiệp với các Mạnh thường quân và
nhà gây quỹ xóa hết số nợ 250 ngàn mà
mợ đă tiêu xài cho việc vận động
bầu cử (thất bại) 2008. Barack xem lời yêu
cầu là quá đáng, nhưng David Plouffe nói măi, anh ta
mới OK (p.74-75).
V́ Valerie gọi trận golf là một sai
lầm lớn, và đề nghị Barack bắt Bill
phải chờ dài cả cổ, nên một tháng sau,
anh ta vẫn không nhấc phôn gọi cậu. Cậu
sốt ruột lắm, bảo mợ: “Why doesn’t he
call? […] Maybe the son of a bitch (= thằng chó
đẻ) thinks he doesn’t need me.” (p.83). Cuối cùng,
ngay trước lễ Thanksgiving, Barack gọi và báo
sẽ cho bốn đệ tử đên gắp
cậu tại văn pḥng của cậu ở Harlem
(p.84). Gặp cậu, đám láu cá này bơm cậu lên
tận mây xanh, ví dụ khen cậu nào là được
ḷng mọi giới, nào là kết quả thăm ḍ dư
luận của cậu rất cao, nào là… làm cậu sướng
rên lên [dịch đại chữ “purring” của
Klein, p.89, có nghĩa đen: rên nho nhỏ, tương
tự moaning, v́ sướng hoặc hài ḷng, như
mèo]. Rồi nhờ cậu giúp “ông thầy”
được tái đắc cử.
Được lời như cởi tấc ḷng, Bill
nhiệt t́nh thảo luận với họ về cách
thức tố khổ và đánh bại Mitt Romney. Khi
một người, Jim Messina, lo lắng về sức
khoẻ và vẻ ngoài yếu ớt của cậu,
hỏi cậu có thể giúp Obama được
phần nào, cậu cả quyết: “I’m all in
[dịch nôm na: tôi“tapis”, chơi láng tẩy]. Don’t
worry. I’m going to get your man reelected.”(p.90).
Nói vậy, nhưng trong thâm tâm, Bill có một sự
dằng co: 1)
một mặt, nếu Barack thắng, cậu sẽ
ẵm trọn gói công lao (credit), và mặt khác,
nếu anh ta thua trước một ứng cử viên
Cộng Ḥa, th́ cái ghế tổng thống năm 2016
Hillary sẽ ôm chắc hơn trong tay (p.101), và 2)
v́ Bill là tổng thống phe Dân Chủ duy nhất
từ FDR được bầu hai nhiệm kỳ,
cậu muôn Barack thua, để trong tương lai
cậu được xem là lănh tụ tối cao duy
nhất của Đảng Dân Chủ (p.100).
Chính v́ vậy mà sau đó, trong buổi phỏng
vấn (Klein dành nguyên ba trang, 96-98) do Harvey Weinstein
thực hiện trên Piers Morgan Live, thay v́ lợi
dụng cơ hội để lấy điểm
với Barack, như lời đă hứa, cậu
lại tỏ vẻ khen Donald Trump, người đă nêu
thắc mắc về giấy khai sinh của Barack, và
như vậy, vô t́nh cho thắc mắc của Trump là
đúng (p.96), và tệ hơn, cậu ca Romney, đối
thủ nguy hiểm của Barack, đă thành công trong thương
mại, kể cả vụ Bain Capital, mà cậu
gọi là “a sterling business career” (một
nghiệp vụ vượt bực) (p.98). Bill đă
bắn trúng tim Barack (p.100).
Dĩ nhiên, phe Obama giận điên người.“What
the fuck was Clinton up to?”, Barack hỏi quần thần
(p.99). Biết thế, Bill xin lỗi đă nói lỡ
lời, v́ tuổi tác (p.99). Nhưng nhiều người
nghĩ khác: cậu rất biết rơ ḿnh nói ǵ, nghĩa
là cố t́nh đấy thôi (p.100).
Cuối hè 2012, gần ngày Đại Hội Dân
Chủ toàn quốc dự định tổ chức
tại Charlotte, North Carolina, kinh tế Mỹ xuống
dốc thê thảm, thất nghiệp gia tăng và
những kết quả thăm ḍ dư luận cho
thấy Romney có phần lấn lướt. Phe Dân
Chủ hoảng sợ, và các cố vấn của
Barack, nhất là David Plouffe, c̣n đặt hy vọng vào
thành quả của đêm Đại Hội Dân
Chủ và đề nghị nếu muốn Đại
Hội thành công bắt buộc phải có sự
hiện diện tối ư quan trọng của Bill,
nghĩa là Barack cần mời cậu đến phát
biểu trong Đại Hội. Riêng Michelle và Valerie
vẫn cố gắng chống đối ư kiến này,
và khi thất bại, Valerie vớt vát đề
nghị Barack cho cậu nói vào ngày giờ không quan
trọng, không có Tivi trực tiếp thu h́nh (p.105-106).
Về phần Bill, cậu bắn tiếng cho Ṭa
Bạch Ốc hăy để cậu nói vào ngày thứ
hai, là ngày thường dành cho phó tổng thống, và
vào giờ trọng yếu trong ngày (primetime), nếu không
cậu sẽ tẩy chay Đại Hội (p.107). Ngày
25/7, năm tuần trước Đại Hội,
Barack gọi Bill từ Air Force One, OK, thỏa măn yêu
cầu của cậu. Lần đầu tiên, Barack dám
căi lời của Valerie Jarrett (p.107).
Tiếp theo, trong hai chương 17, “The Illusionist”
(p.109-116) và 19, “You can’t get him off the stage” (p.123-132), tác
giả kể:
a)
Bill, cùng với sự góp ư của một ít cựu
nhân viên thân tín, ví dụ John Podesta, soạn thảo bài
diễn văn một cách kỹ lưỡng, công phu.
Cậu muốn bài diễn văn ấy được
phê phán như một công tŕnh lịch sử, một
tác phẩm để đời, về chính cậu, v́
bấy lâu nay cậu có cảm tưởng chính
giới và người dân Hoa Kỳ xem cậu như
một tổng thống, không tệ th́ cũng thường
thường bậc trung, mặc cho tất cả
cố gắng “tự tái tạo” của cậu, “all
his efforts to reinvent himself” (p.110) –một kiểu Clinton
Restoration (p.111). Khi soạn bài diễn văn,
một người khác, b́nh thường, có thể
dễ dàng bơm Barack lên như một tổng
thống “vĩ đại”, xứng đáng
được bầu lại để hoàn thành
nhiệm vụ mới bắt đầu. Nhưng
với Bill, công việc đó có phần phức
tạp, bởi v́ một sự thật khó chịu:
điều cậu nghĩ hoàn toàn trái ngược
với điều cậu viết. Trong ḷng cậu,
Obama là một tổng thống rất yếu, không có
quyền ở lại với chức vụ (p.112).
Gần một năm trước, Bill chê Barack đủ
điều, từ kinh tế, và nhất là kinh tế,
đến thuế má, đến nạn thất
nghiệp…”The econmy’s a mess, it’s dead flat […]
He’s incompetent…. Barack Obama is an amateur”
(p.112). Bây giờ, ngồi trước tờ giấy
trắng, Bill phải ṿ tai bứt tóc cố
“nặn” ra một neo-Obama, một alter ego [Lat.
another self], bằng cách bóp méo sự thật và tự
sướng với một ảo tưởng táo
bạo và quá đáng (“indulge in a bold and extravagant
illusion”, p.113).
Dần dần th́ những trang giấy cũng đầy,
và dưới ngọn bút bẻ cong của vua illusionist
Bill Clinton, anh chàng amateur Barack Obama, từ một
người tự do cấp tiến cực tả
về thuế má và tiêu xài phung phí (“a tax-and-spend
liberal”, p.113), bỗng nhiên trở thành một
“centrist Democrat”, một anh Dân chủ trung phái (=
đứng giữa), tin tưởng vào giới trung lưu
cần cù làm ăn và những giá trị của cơ
hội, trách nhiệm, và cộng đồng. Một
“New Democrat” (p.113) –tước hiệu mà Bill luôn luôn
hănh diện tự gắn lên đầu. Để hoàn
thành bức họa Barack dưới cái nh́n và bút pháp
mới, Bill tha thứ hết mọi tội lỗi
của anh ta. Đến nỗi thiên hạ tin rằng
khi ca Barack, Bill đang tự ca, và tự sướng
với thành tích của chính ḿnh.
Vài ngày trước Đại Hội, David Axelrod đ̣i
Bill nộp bài diễn văn, nhưng cậu lờ, không
muốn “bọn Obama” (“Obamans”, p.115) đọc
trước và sửa đổi. Khiến cả đám,
có cả Valerie, hồi hộp không biết Bad Bill
sẽ nói cái ǵ.
b)
Khi Bill bước lên sân khấu hội trường
Time Warner Cable Arena lúc 10:40PM, h́nh dung chải chuốt
áo quần bảnh bao, không thua Sở Khanh của Truyện
Kiều, son phấn che chóp mũi đỏ và khuôn
mặt hốc hác (p.124) th́ cả 20 ngàn đại
biểu và quan khách đứng lên, tiếp đón và
hoan hô cuồng nhiệt. Trước đó hai giờ,
Bill, cuối cùng, chịu đưa bài diễn văn
cho các Obamans. Những anh này cắt bỏ 2 ngàn
chữ, c̣n lại 3,279 chữ, canh vừa đúng 28 phút
cho TV, rồi chuyển bản sửa lên teleprompter
[= màn ảnh rộng có chữ cho diễn giả đọc]
(p.125).
B́nh thường, khác với Barack, Bill không ưa teleprompter,
v́ cậu có thói quen nh́n phản ứng của cử
tọa mà nói theo ngẫu hứng, bất kể văn
bản. Tối hôm ấy, cậu ra ngoài đề
với 2,609 chữ thêm vào 3,279 chữ mà David Axelrod cho
phép, và lâu đến 50 phút. Cậu thuộc ḷng văn
bản của cậu, nên không cần teleprompter.
Trong đó, có câu cuối cùng mà chính tai tiện nhân
đă nghe tốí hôm ấy, một cách khó chịu, dĩ
nhiên, v́ quá đáng: “No president –no president, not me or
not any of my predecessors– no one could have repaired all the
[economic] damage that [Obama] found in just four years” (p.132). Không
c̣n lời láo khoét trắng trợn nào hơn! Bill
dứt lời, vừa thấy Barack nhảy vọt (đúng
nghĩa đen) lên sân khấu, bèn chắp tay vái anh
ta, theo kiểu Đông phương, và hai “kẻ
cắp bà già” của cụ Nguyễn Du ôm nhau,
vỗ lưng nhau đồm độp, khiến
tiện nhân thấy buồn nôn. 4.Thất
vọng của cậu-mợ Bill-Hillary
Barack và đám quần thần, trừ Valerie dĩ nhiên,
“cực kỳ” vui sướng về bài diễn văn
nẩy lửa, đầy “sáng tạo”, nghĩa là
đầy dối trá, của Bill trong đó cậu
đă bênh vực, dù là tầm bậy, và giả
dối, thành quả kinh tế, thực ra quá bết bát,
của anh ta (p.132). Tuy nhiên, Bill và Hillary chưa tan
niềm vui th́ thất vọng lại đến,
lần này quá ê chề. V́: a-
Vụ Benghazi: •
Obama bán cái cho Hillary:
Sáu ngày sau Đại Hội, ngày 11/9/2012, xảy ra
vụ Benghazi do nhóm du kích Libya Ansar al-Sharia chủ trương,
tấn công lănh sự quán Mỹ, sát hại viên đại
sứ Christopher Stevens và ba nhân viên CIA. Lúc đầu,
Barack, v́ nhu cầu tranh cử, chối quanh, đổ
thừa cho mọi người, kể cả một
đạo diễn vô danh tiểu tốt làm cuốn
phim chống đạo Muslim trên Youtube. Trừ chính anh
ta, như ai cũng rơ. Tuy nhiên, qua Klein, th́ sự
thật được phanh phui, và v́ thế chúng ta
hiểu tại sao Bộ Ngoại giao của Hillary
lại dính vào chuyện của CIA. Tác giả
viết: “Hillary đích thân ra lệnh cho lănh sự
quán Mỹ mở cửa để giúp đỡ toán
công tác của CIA [tại Libya]. Bà biết quá rơ
rằng CIA lúc đó có nhiệm vụ bí mật, và có
lẽ bất hợp pháp, chuyển vũ khí ra
khỏi miền Đông Lybia, qua ngơ Turkey, giao cho
những nhóm nổi loạn chống chế độ
Bashar al-Assad của Syria. Những vũ khí đó,
kể cả hỏa tiễn, được mua từ
những nhóm du kích quân thân al-Quaeda tại Lybia. Và
một số lớn lọt vào tay của những
chiến binh al-Quaeda ở Syria và bọn khủng
bố tại những nơi khác ở Trung Đông.
Tất cả những việc ấy được
thực hiện mà Quốc Hội Mỹ và những
Ủy ban T́nh báo có nhiệm vụ kiểm soát cơ
quan CIA không biết hoặc cho phép. Một điều
nữa, việc bí mật giao vũ khí xảy ra trong cùng
một lúc tổng thống Obama tuyên bố một cách
giả tạo rằng ông không muốn vũ trang phe
chống đối tại Syria v́ sợ vũ khí rơi
vào tay kẻ gian.” (p.143). Thủ tướng Do Thái
Bibi Netanyahu cũng than phiền rằng một số vũ
khí ấy lọt vào tay bọn khủng bố Hezbollah
ở Lebanon và Hamas ở Gaza (p.145).
Vấn đề chính mà chúng ta muốn bàn ở
đây, trong vụ này, là thái độ phủi tay,
chối bỏ trách nhiệm của Barack, muốn trút
mọi tội lỗi lên đầu Hillary, như
một con dê tế thần (p.181). Lúc đầu
mợ cũng sợ mất điểm với Barack, a
ṭng với xếp, đồng ư nói dối cùng
với, hoặc thay cho, anh ta, v́ nói thật rất nguy
hiểm cho tương lai của xếp và, như
một hệ lụy, việc tranh cử của mợ
vào năm 2016 (p.150). Mợ, quả thật, là người
“nối dối bẩm sinh” (“a congenital liar”, theo
lời của nhà b́nh luận William Safire của
tờ New York Times, p.151) qua nhiều vụ việc
tai tiếng từ hồi mợ c̣n là đệ
nhất phu nhân (p.152), nói dối ngay cả khi không
cần thiết.
Một ngày sau lễ tiếp nhận xác của
bốn nạn nhân được chở về Andrews
Air Force Base, Barack bỏ đi Las Vegas để gây
quỹ, và dặn Valerie gọi và bảo Hillary hăy lên
tất cả 5 đài Tivi vào sáng Chúa Nhật để
tiếp tục công khai nói láo, đại khái,
rằng: “Đó không phải là một vụ tấn
công bởi bọn khủng bố [v́ bọn khủng
bố đă bị tiêu diệt hết rồi sau khi
bin Laden bị giết], mà là một biểu dương
lực lượng tự phát của dân chúng tức
giận v́ cuốn băng phỉ báng đạo
Hồi do một đạo diễn vô danh post trên
Youtube, và tên này sẽ bị chính phủ Obama
đưa ra ṭa án Mỹ” (p.152). Lúc đầu,
mợ dùng dằng, khó nói no với lệnh
của xếp, v́ cần sự ủng hộ của
xếp năm 2016 (p.155). Cho đến khi mợ gọi
hỏi ư kiến Bill, th́ Bill rất tức giận, v́
biết đó là cái bẫy của Barack và đoán
rằng, nếu mợ lên Tivi, phe Cộng Ḥa sẽ
khai thác, trưng ra những đoạn tuyên bố
dối trá của mợ vào năm 2016, và cậu
dứt khoát: “I know it’s a fucking trap,” she said. “But
how do you say no to the president?” . “Easy – you say N period O
period,” Bill said”
(p.156).
Mợ từ chối, và những người khác cũng
từ chối. Cuối cùng Susan Rice, lúc ấy là đại
sứ tại Liên Hiệp Quốc, rất thù hận
Hillary, v́ không được đề cử làm
Bộ trưởng Ngoại Giao, chấp nhận làm
việc này, để cho vua biết mặt chúa
biết tên (p.158). •
Điều trần trước Quốc Hội:
Bề nào, mợ cũng chưa thoát nạn, v́
phải ra điều trần trước Quốc
hội Mỹ. Sau 5 tuần rưỡi dưỡng
bệnh (cái bệnh mà cựu dân biểu Cộng Ḥa
Allen West gọi là “Benghazi flu”, p.191), mợ phải
đối diện với Ủy ban điều tra
của Thượng viện, và tác giả ghi một
đoạn của mợ đấu khẩu với thượng
nghị sĩ Ron Johnson (Tea Party, R-Wisconsin). Bị Johnson
dồn vào thế buộc phải nói rơ nguyên do
thực sự đă gây ra cái chết cho bốn người,
mợ bèn mất b́nh tĩnh, vung tay, lên giọng,
bảo rằng, “đă có bốn người Mỹ
chết, th́ cho dù chết dưới tay của
bọn khủng bộ hay của một thằng cha căng
chú kiết nào, bây giờ có ǵ khác nhau?” (“What
difference at this point does it make?” (p.198). Tất cả
mọi người lúc ấy (p.199), và hàng triệu người
xem Tivi, kể cả và nhất là Bill (p.201), bị
sốc v́ câu trả lời trật lất và thái
độ giận dữ vô lối của Hillary. Điều
tai hại nhất là thái độ và câu trả
lời ấy đă tiêu hủy h́nh ảnh mà Hillary
đă cố tạo dựng và quảng cáo trên Tivi bao
nhiêu năm trời, đặc biệt trong cuộc
tranh cử 2008 –h́nh ảnh của một chuẩn
tổng thống b́nh tĩnh, hiền hậu, chăm lo
cho phúc lợi của dân, bây giờ lộ nguyên h́nh
là một mụ đàn bà về già (tác giả c̣n
tả rơ những nét nhăn trên mặt và trán
của mợ trước ống kính, p.197) nóng tánh,
ngạo mạn, khó thương. b-
Bữa cơm tối với cặp Obamas:
Tuy
không ưa Bill, Barack mời cặp Clinton vào dinh ăn
cơm tối với vợ chồng anh ta, lần đầu
tiên, đúng vào ngày (March 1) mà đạo luật ngân
sách bị cắt giảm $85 tỷ, c̣n gọi là
“sequester”, có hiệu lực, v́ Barack muốn “ḥa
giải” với các lănh đạo Cộng Ḥa, và
điều này, cần đến miệng lưỡi
“trơn tru” của Slick Willie, mặc dù có
sự chống đối của Valerie (p.212-213).
Sau những thủ tục xă giao thông lệ, Barack
hỏi Bill nghĩ sao về vụ “sequester”.
Được dịp, Bill lên lớp, nói dai, nói dài,
khiến ai cũng chán và Hillary phải đổi
đề tài, hỏi Michelle về dự định
sẽ ra tranh ghế thượng viện từ Illinois
(p.212). Sự thật là vậy, nhưng chị ta
vẫn ỡm ờ, nói chưa quyết định ǵ
cả (p.213). Sau đó, Bill đề nghị Barack
giải tán Ủy ban tranh cử 2012 (của Barack), và cùng
với hồ sơ nhân sự và tài chánh, sáp nhập
nó vào Ủy Ban Dân Chủ Toàn Quốc (Democratic National
Committee) [NLGO: việc này sẽ có lợi cho Hillary năm
2016]. Barack cười, có chút châm biếm: “Really?”
(p.213). Rồi cậu cứ nằng nặc muốn
biết nguồn tài trợ của Ủy ban tranh
cử ở đâu và phân phối thế nào cho
cuộc bầu cử tổng thống 2016. Cả hai cùng
tranh căi to tiếng. Rồi câu chuyện trở về
đề tài “sequester” và tất cả đồng
ư qui tội cho Đảng Cộng Ḥa nếu v́
thế chính phủ phải tạm thời “đóng
cửa tiệm” (Partial government shutdown). Thừa
dịp, Bill lại “lên lớp”, kiểu độc
thoại, bảo rằng, về vụ “đóng
cửa tiệm này” cậu rành sáu câu v́ có kinh
nghiệm bản thân khi c̣n là tổng thống và
thống đốc Arkansas và đă thắng bọn
Cộng Ḥa (p.214). Cậu nói: “Executive experience
counts,” he said, suggesting that Obama lacked that vital attribute”
(p.214). Lại hàm ư chê Barack. Trong lúc Bill độc
thoại, anh ta đùa giỡn với chú chó Blackberry dưới
bàn. Sau bữa ăn, về pḥng, Barack quay sang Valerie,
lắc đầu nói: “That’s why I never invite that guy
over.” (p.215). c-
Bữa ăn trưa giữa Barack và Hillary:
Barack mời Hillary ăn trưa, không có Bill, trong tư
thế một tổng thống và một cựu
bộ trưởng ngoại giao. Điều đó làm
cậu khó chịu, v́ cậu nghĩ anh ta đang chơi
tṛ ly gián mợ với cậu, theo cái đ̣n xử
thế khôn ngoan mà Godfather dạy anh ta: “Hăy
giữ sát bạn bè của ḿnh, và giữ sát hơn
kẻ thù của minh” (keep your friends close and your
enemies closer) (p.238). Anh ta, Bill nghĩ, muốn tử
tế với mợ, v́ muốn nhờ mợ nói
với cậu câm mồm, không chỉ trích anh ta,
thế thôi.
Bằng cớ: trong bữa ăn trưa, cứ mỗi
lần mợ bắt đầu bàn về cuộc
bầu cử năm 2016 là anh ta lảng sang vấn
đề khác. Barack chỉ hứa một điều
là sẽ bổ nhiệm một vài người theo yêu
cầu của cậu mợ vào DNC. Vấn đề
đối với Bill là sau khi rời Bạch Ốc,
Barack c̣n trẻ, và sẽ dự định ở
lại trên sân khấu quốc tế một thời
gian dài. Như vậy, cậu nói: “That makes the feud
between us very personal.” (p.239).
Và v́ thế, ngoài một vài chỉ trích khác,
nặng nhất là vụ Syria (p.245-246), đối
với Barack, Bill quyết định sẽ vận
động cho Obamare, nhưng không với mục đích
ca ngợi, mà trái lại phê b́nh, cho đó là một
đạo luật khiếm khuyết, cần phải có
bàn tay của [tổng thống] Hillary Clinton nhúng vào
mới được thành công, v́ “she’s been at it
for twenty years and knows how it has to work” (p.239, 244).
Ngoài ra, biết Barack muốn giữ nguyên toán cộng
tác viên thân tín thượng thặng của anh ta cho
những kế hoạch chính trị tương lai
(p.266), Bill mở chiến dịch chiêu hồi họ
về với “chính nghĩa”, đặc biệt Jim
Messina (p.265), Jeremy Bird, Mitch Stewart, và Buffy Wicks (p.266),
với mục đích thành lập một thế
giới chính trị, “political universe”, song song và tách
rời với “Obama-dominated DNC” (p.267). Nếu Hillary
thắng, Bill sẽ hân hoan hủy hết mọi di
sản của Barack và xem anh ta như một tổng
thống bất thường của lịch sử (a
historic anomaly) chen vào giữa thời gian hai triều
đại Clinton (p.269).
III.
GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGUỒN TIN
Cuối
sách, trong “A Note to the Reader” (p.279-281), Edward Klein “tâm
sự” về phương pháp ông đă thu thập các
tin tức: 1)
Tài liệu, sách vở, gồm 27, ghi trong Thư
Mục (p.283-285). 2)
Những chuyện đă cũ, thuộc về quá
khứ, không c̣n bí mật th́ những người
cung cấp tin (= nguồn tin) đồng ư cho ghi tên
thật. 3)
Những chuyện đương thời, nhậy
cảm (tỷ như chuyện bất ḥa giữa phe
Clinton và phe Obama) th́ những nguồn tin yêu cầu
được giữ kín tên, v́ họ không được
quyền tiết lộ và họ sợ không c̣n
dịp được tiếp xúc với những
bạn bè đấy quyền lực của ḿnh. Điều
đó, báo giới gọi là “deep background”,
tức là tác giả có phép xử dụng tin tức
được cung cấp, nhưng không được
phép ghi tên ai (p.280). Và để được
cẩn thận và chính xác, tác giả đă phỏng
vấn nhiều lần một số nhân vật
gần gũi với Clinton và Obama để xem có
sự khác biệt về mức độ chính xác không
(p.281). 4)Biết
rằng dùng tin tức nặc danh là điều
tối kỵ, nhưng tác giả nói không c̣n cách nào
hơn. Portland,
ngày 2 tháng 8 năm 2014 Người
Lính Già Oregon
|